Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học


c) Phê bình năng lực phán đoán



tải về 1.37 Mb.
trang14/16
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.37 Mb.
#11086
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

c) Phê bình năng lực phán đoán (triết học nghệ thuật)

Nếu trong triết học lý luận, Căntơ để con người – chủ thể nhận thức (sống) trong thế giới hiện tượng, còn trong triết học thực tiễn, Căntơ để con người – chủ thể thực tiễn (sống) trong thế giới vật tự nó, thì trong triết học nghệ thuật, Căntơ cố gắng để con người - chủ thể nhận thức - thực tiễn (sống) trong cả hai thế giới đó. Căntơ gọi chủ thể nhận thức - thực tiễn như thế là chủ thể tiên nghiệm.



Con người với tính cách là chủ thể tiên nghiệm là mục đích cuối cùng của toàn bộ hệ thống triết học đồ sộ của Căntơ. Và con người chỉ trở thành chủ thể tiên nghiệm khi nó hiểu và vận dụng được những khả năng tiên nghiệm của mình.

Căntơ gọi khả năng tiên nghiệm39 khả năng thưởng thức và đánh giá sự vật xuất phát từ những cơ sở chủ quan; nó chính là sự liên hợp giữa khả năng hoạt động thực tiễn tự do với khả năng hoạt động nhận thức lý luận xảy ra trong thế giới hiện tượng nhưng bị chi phối bởi các phạm trù của giác tính, qui tắc của lý tính.



Nghệ thuật là hoạt động tự do của con người theo chuẩn mực của cái đẹp. Nó nghiên cứu quan hệ của con người - chủ thể tiên nghiệm - đối với sự vật tự nhiên - vật tự nó - trên bình diện giá trị. Nó không quan tâm đến việc có tồn tại cái đẹp khách quan hay không mà chỉ chú trọng đến cái đẹp tự tại trong con người. Chính vì vậy mà trong quá trình suy diễn, triết học nghệ thuật cũng không thể tránh khỏi ăntinômi, thí dụ như ăntinômi về cái đẹp:

Chính đề: Cái đẹp là một phạm trù mang đặc tính phổ quát và tất yếu.

Phản đề : Cái đẹp mang tính cá biệt, bởi vì nó là kết quả thưởng thức của từng cá nhân.

Theo Căntơ, nghịch lý này có thể giải quyết bên ngoài hiện tượng luận, vì khái niệm về cái đẹp ở đây không phải là phạm trù lôgích giác tính, cũng không phải là ý niệm của lý tính, mà là khái niệm chỉ đạo của nghệ thuật mang tính bất định. Nó bất định bởi vì nó vừa chủ quan vừa khách quan. Nó là chủ quan, nhưng do được hình thành trong chủ thể tiên nghiệm dưới dạng một xúc cảm thú vị phổ biếntrực tiếp nên nó mang tính phổ quát và tất yếu đối với mọi người, vì vậy, nó mang nội dung khách quan, và là bộ phận của văn hóa tinh thần nhân loại.

Như vậy, trong triết học nghệ thuật, Căntơ đã khắc phục sự đối lập hai con người trong một con người nhờ vào sự thống nhất lý luận với thực tiễn thông qua cái đẹp tự tại trong con người. Mục đích cuối cùng của triết học Căntơ là đưa ra quan niệm đầy đủ về chủ thể tiên nghiệm.

Vậy thì, chủ thể tiên nghiệm không chỉ là xuất phát điểm mà còn là mục đích cuối cùng của toàn bộ hệ thống triết học đồ sộ và phức tạp của Căntơ.

Tóm lại, Căntơ là một trong những nhà triết học vĩ đại của nền triết học cổ điển Đức nói riêng, của toàn nhân loại nói chung. Tư tưởng của Căntơ, như ông tự nhận, thực sự là một “cuộc đảo lộn Côpécníc” xảy ra trong lĩnh vực triết học. Nó hướng triết học từ nghiên cứu tự nhiên tới nghiên cứu con người như một chủ thể, từ nghiên cứu sự tồn tại - tới nghiên cứu quá trình hoạt động. Triết học Căntơ không chỉ là cơ sở lý luận ban đầu của nền triết học cổ điển Đức mà còn là tiền đề lý luận của triết học mácxít sau này, khi hoạt động thực tiễn của con người được coi là nền tảng của đời sống xã hội. Triết học Căntơ đã đặt nền móng cho một quan niệm biện chứng về giới tự nhiên và lịch sử, đồng thời nó cũng đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của triết học Phương Tây hiện đại. Nhiều tư tưởng của triết học hiện sinh, chủ nghĩa duy ý chí, triết học thực chứng, hiện tượng học... xuất phát từ những tư tưởng của Căntơ.

2. Giôhan Gốtliếp Phíchtơ

Phíchtơ (Johann Gottlieb Fichte, 1762-1814) sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Đông Phổ. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông tìm đến Koenisberg và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nhà triết học của thành phố này – Căntơ. Phíchtơ là người kế tục sự nghiệp triết học của Căntơ, ông làm Chủ nhiệm Khoa triết học, rồi Hiệu trưởng Trường đại học Tổng hợp Béclin… Phíchtơ đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm khoa học và triết học có giá trị như Các nguyên lý của lý luận chung về khoa học, Quan niệm về chiến tranh chính nghĩa… Xuất phát từ triết học tiên nghiệm của Căntơ, Phíchtơ muốn xây dựng triết học thành một khoa học luận hay khoa học về khoa học để nó thực hiện sứ mạng vĩ đại là mang lại cho con người một cách nhìn mới và đúng đắn về chính bản thân mình, làm cho con người sống với chính mình và cuối cùng là trở thành con người thật sự. Triết học của ông được chia ra thành triết học lý luận và triết học thực tiễn.

a) Triết học lý luận

Phíchtơ cho rằng, triết học mới phải là khoa học luận, nghĩa là nó phải vạch ra cơ sở phương pháp luận và phương hướng phát triển khoa học, xác định bản chất của khoa học, xây dựng những nguyên lý cơ bản của thế giới quan khoa học cho con người. Để trở thành khoa học luận, triết học phải mang tính hệ thống. Muốn là một hệ thống chặt chẽ, triết học phải dựa trên một luận đề cơ bản làm cơ sở xuất phát cho toàn bộ hệ thống. Việc xác định luận đề đó thật khó, nhưng do nhiệm vụ cuối cùng của khoa học luận là phục vụ con người nên ông cho rằng luận đề đó phải là sự khẳng định tồn tại của con người thật sự, - con người tự ý thức về bản thân mình, vừa là chủ thể vừa là kết quả hoạt động của mình -, nghĩa là cái Tôi.

Tóm lại luận đề xuất phát của khoa học luận Phíchtơ là: Tôi là Tôi (Tôi = Tôi). Luận đề 1 này mang tính hiển nhiên, nó giả định con người ngay từ đầu bằng hoạt động của mình, sáng tạo ra chính mình một cách vô điều kiện. Nhưng luận đề: Tôi là Tôi cũng có nghĩa: Tôi không phải là Không-Tôi (Tôi Không-Tôi). Luận đề 2 này cũng hiển nhiên và vô điều kiện như luận đề 1, nó vừa đối lập vừa được sinh ra từ luận đề 1. Từ đây, Phíchtơ tiếp tục khẳng định: Bản thân mọi mặt đối lập chỉ tồn tại nhờ hoạt động của cái Tôi, nghĩa là bản thân các mặt đối lập nhau không thể tách rời nhau (Tôi Không-Tôi). Vậy theo Phíchtơ, có 3 luận đề hiển nhiên:

Tôi = Tôi.

Tôi  Không-Tôi.

Tôi Không-Tôi.

Tuy nhiên, các luận đề này không tách rời nhau mà chúng có quan hệ lẫn nhau. Mối quan hệ này thể hiện đầy đủ theo cách hiểu của Phíchtơ về cái Tôi và cái Không-Tôi. Theo Phíchtơ, có 2 cái Tôi: một là, cái Tôi tuyệt đối có trước, vô hạn, sản sinh ra giới tự nhiên nhân loại; và hai là, cái Tôi tương đối, hữu hạn, được sản sinh, là hình thức tồn tại cụ thể của cái Tôi tuyệt đối. Cái Tôi tương đối đối lập với cái Không-Tôi.



  • Cái Tôi tuyệt đốicon người lý tưởng.

  • Cái Tôi tương đốicon người khả tử – nhân loại đang nhận thức và đang cải tạo.

  • Cái Không-Tôigiới tự nhiên - sản phẩm sáng tạo vô thức của cái Tôi tuyệt đối từ thời xa xưa.

Nếu Căntơ cho rằng quá trình hoạt động lý luận thực tiễn của con người xuất phát từ chủ thể tiên nghiệm và cũng kết thúc ở chủ thể tiên nghiệm, thì Phíchtơ cũng coi quá trình hoạt động nhận thức cải tạo của con người xuất phát từ cái Tôi tuyệt đối và cũng kết thúc ở cái Tôi tuyệt đối. Cả hai ông đều coi đó là phương thức để con người đạt được tự do.

Phíchtơ coi cái Tôi tuyệt đối sinh ra cái Tôi tương đối và cái Không-Tôi, nghĩa là sinh ra nhân loạigiới tự nhiên. Chừng nào nhân loại nhận thức và cải tạo được toàn bộ giới tự nhiên thì khi đó nhân loại trở thành con người theo đúng nghĩa con người, nhân loại được hoàn toàn tự do, nghĩa là khi đó, cái Tôi tương đối trở thành cái Tôi tuyệt đối.

Cũng như Căntơ, Phíchtơ cho rằng, tự do là lý tưởng cao quý nhất mà trong một khoảng thời gian hữu hạn con người không thể đạt được trọn vẹn. Lịch sử nhân loại là quá trình vận động ngày càng tiếp cận tự do, càng ngày con người càng được “lột xác” để trở thành con người, tuy nhiên đây lại là một quá trình vô tận.

b) Triết học thực tiễn

Trong triết học thực tiễn, Phíchtơ trình bày quan niệm về lịch sử, nhà nước pháp quyền.



Lịch sử, theo ông, được hình thành trên quy mô toàn nhân loại, nhưng được thực hiện thông qua hoạt động của từng cá nhân – của từng cái Tôi. Tự dokết quả của quá trình con người nhận thức cải tạo thế giới thông qua việc giải quyết mâu thuẫn giữa cái Tôi và cái Không-Tôi. Lịch sửquá trình diễn ra theo quy luật khách quan đưa con người đến tự do.

Nhà nướcpháp quyềncông cụ để lịch sử thực hiện sứ mệnh tối cao – mang lại tự do cho con người. Nhà nước xuất hiện trên cơ sở khế ước xã hội, vì lợi ích chung là tiến tới tự do của loài người; nó có nền tảng trong chế độ sở hữu tư nhân. Do vậy mà nhân loại chỉ có thể tiến tới tự do khi duy trì chế độ sở hữu tư nhân...

Như vậy, triết học của Phíchtơ là chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuyệt đối và có chứa nhiều mâu thuẫn. Sau này, để khắc phục mâu thuẫn: Tại sao mệnh đề: Tôi là Tôi lại chứa tới 2 cái Tôi, cũng như để thỏa mãn quan niệm bấy giờ xem giới tự nhiên như thực thể duy nhất mà Phíchtơ đã chuyển sang lập trường duy tâm khách quan coi cái Tôi tuyệt đốitồn tại thuần túy hay ý thức thuần túy, chứ không là một cá nhân tuyệt đối. Và Senlinh đã dựa vào tư tưởng này.



3. Phrieđrích Vinhem Giôdép Senlinh

Senlinh (Friedrich Wilhelm Joep Schelling, 1775-1854) sinh ra trong một gia đình mục sư Tin lành tại thành phố Leonberg, sớm nổi tiếng trong lĩnh vực triết học. Năm 23 tuổi đã là Giáo sư triết học của Trường đại học Tổng hợp Jena. Lúc đầu, Senlinh và Hêghen là đôi bạn thân, nhưng về sau, do bất đồng quan điểm đối với việc xây dựng hệ thống triết học mà hai người xa nhau. Senlinh đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm triết học nổi tiếng như Về cái Tôi như một nguyên lý của triết học, Hệ thống triết học duy tâm tiên nghiệm… Quan niệm về cái tuyệt đối là nội dung chủ đạo của triết học Senlinh nói chung, triết học đồng nhất của ông nói riêng.

a) Triết học đồng nhất

Từ cái Tôi tuyệt đối với tư cách là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiênnhân loại (xã hội) của Phíchtơ, Senlinh cải tạo thành cái tuyệt đối. Bên cạnh ý nghĩa là đấng sáng tạo như Phíchtơ hiểu, cái tuyệt đối còn được coi là cái đồng nhất vật chất và tinh thần, chủ thể và khách thể…

Dựa trên quan niệm về cái tuyệt đối, Senlinh xây dựng triết học đồng nhất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng, trong cái tuyệt đối thì tinh thần cũng là vật chất, vật chất cũng là tinh thần, Senlinh coi cái thực thể - giới tự nhiên của Xpinôda cũng chính là cái Tôi tuyệt đối - tự ý thức và tự hoạt động của Phíchtơ. Nói cách khác, trong cái tuyệt đối mọi cái đối lập đều tan biến, vì vậy, trong triết học đồng nhất, mọi hệ thống triết lý đối lập đều không còn.

Trong triết học đồng nhất của Senlinh, cái tuyệt đối là một chỉnh thể thống nhất, trong nó, mọi sự vật liên hệ với nhau, mọi mặt đối lập đấu tranh với nhau, đưa đến quá trình phát triển của cái tuyệt đối. Cái tuyệt đối phát triển trải qua hai giai đoạn:



Giai đoạn vô thức của cái tuyệt đối là giai đoạn xuất hiện và phát triển của giới tự nhiên. Giới tự nhiên trong quá trình phát triển của mình lại trải qua 3 cấp: cấp thấp nhất là sự hình thành thế giới chủ yếu qua lực hút và lực đẩy; cấp thứ hai thể hiện bằng việc thiết lập “cơ chế chung” của vật chất nhờ những mối liên hệ động lực học; và cấp thứ ba là sự hình thành giới hữu cơ mà đỉnh cao là sự xuất hiện con người.

Giai đoạn tự ý thức của cái tuyệt đối là giai đoạn xuất hiện tư duy con ngườilịch sử nhân loại. Ở giai đoạn này, thông qua hoạt động nhận thức và cải tạo của con người mà cái tuyệt đối nhận thức được chính bản thân mình.

Dựa trên triết học đồng nhất của mình, Senlinh chống lại quan niệm máy móc siêu hình thời cận đại chia cắt cái tự nhiên và tinh thần, chia cắt cái vô cơ và hữu cơ, chia cắt vạn vật và con người. Ông luôn khẳng định sự phát triển của giới tự nhiên cũng chính là sự phát triển của cái tinh thần: Giới tự nhiêntinh thần nhìn thấy; còn tinh thầngiới tự nhiên không nhìn thấy. Giới tự nhiên chính là tinh thần khô cứng; còn lịch sử nhân loại, tư duy con người chỉ là tinh thần sống động. Triết học đồng nhất là cơ sở lý luận để ông xây dựng các quan điểm về lịch sử và về nghệ thuật.



b) Quan điểm về lịch sử và nghệ thuật

Senlinh coi lịch sử nhân loại quá trình hoạt động của con người sáng tạo ra giới tự nhiên thứ 2 - vật phẩm văn hóa, là con đường đưa nhân loại ngày càng tiếp cận cái tuyệt đối, tiến đến tự do. Tự do là tính tất yếu bên trong đã được nhận thức. Mặc dù, lịch sử do con người tạo ra nhưng nó lại là một tiến trình khách quan, tiếp nối tự nhiên, do các quy luật nội tại chi phối. Mức độ tự do mà các dân tộc, các thời đại đạt được là tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ của thời đại, của dân tộc đó.

Do chịu ảnh hưởng bởi phái lãng mạn lúc bấy giờ mà Senlinh coi hình thức thể hiện cao nhất của cái tuyệt đối là nghệ thuật chứ không phải là đạo đức, pháp quyền (Căntơ), hay khoa học (Phíchtơ). Theo ông, trong nghệ thuật, chúng ta có thể khai thác mọi tư liệu và công cụ hiệu quả cho triết học; hơn nữa, bản thân giới tự nhiên chỉ là tác phẩm nghệ thuật tuyệt đối, là “thơ ca vô thức” của tinh thần. Nghệ thuật phát triển theo hướng đi lên từ cái đẹp vật chất đến cái đẹp tinh thần. Hình thức cao nhất của nghệ thuật là thơ ca; qua thơ ca, cái tuyệt đối thể hiện mình một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất. Cái đẹp là sự thống nhất của cái vật chất và cái tinh thần. Tiêu chuẩn của cái đẹp là sự ngưỡng mộ trước Thượng đế. Nhận thức cao nhất là trực giác nghệ thuật ngoại lý. Thượng đế không chỉ là cái tuyệt đối mà còn là cái đẹp vĩ đại, vì vậy, chỉ có trực giác nghệ thuật mới có thể nhận biết được Thượng đế - cái tuyệt đối mà thôi. Từ chỗ đề cao hoạt động nghệ thuật, Senlinh đề cao nhân cách nhà nghệ sĩ. Ông coi nó là chuẩn mực phấn đấu của mỗi con người.

Càng về sau, thế giới quan của Senlinh càng mang màu sắc tôn giáo, ông coi giới tự nhiên là sản phẩm sáng tạo của Thượng đế. Bằng trực giác nghệ thuật, con người chỉ có thể nhận biết một cách mơ hồ về Thượng đế – cái tuyệt đối. Khi không tin tưởng vào trí tuệ lý trí mà cũng không hài lòng với trực giác ngoại (phi) lý, Senlinh đặt niềm tin vào ý chí. Sự đề cao ý chí này của ông đã được Sôpenhauơ (Arthur Schopenhauer) phát triển. Triết học Senlinh ở thời kỳ đầu có ảnh hưởng lớn đến Hêghen.



4. Phrieđrích Hêghen

Hêghen (Friedrich Hégel, 1770-1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở thành phố Stuttgart. Do chịu ảnh hưởng bởi Senlinh mà Hêghen say sưa nghiên cứu triết học, và ông đã trở thành nhà triết học - bác học vĩ đại nhất, người hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện chứng cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác. Hêghen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ và rất giá trị. Các tác phẩm chính của ông là Hiện tượng luận tinh thần, Bách khoa toàn thư các khoa học triết học...

a) Hiện tượng luận tinh thần

Với tác phẩm này Hêghen đã thật sự thoát ra khỏi sự ràng buộc bởi tư tưởng Senlinh để xây dựng một hệ thống triết học của riêng mình. Hệ thống triết học mới của ông dựa trên 4 luận điểm nền tảng sau đây:



Một là, thừa nhận tồn tại y niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối chứ không phải cái Tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối là sự hợp nhất giữa thực thể – giới tự nhiên (Xpinôda) và cái Tôi tuyệt đối (Phíchtơ), là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Con người chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân loại chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức chính bản thân mình và quay trở về với chính mình. Theo Hêghen, tư duy lôgích chứ không phải trực giác nghệ thuật (Senlinh) là hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối.

Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phát triển được Hêghen hiểu như một chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó, cái mới liên tục thay thế cái , nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh thần, giữa khách thể và chủ thể... trong bản thân ý niệm tuyệt đối.

Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Hêghen coi lịch sử là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá nhân cụ thể, nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân chỉ là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.

Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa nhận có 3 hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáotriết học, trong đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học của riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học. Triết học lịch sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái lôgích và cái lịch sử; vì vậy, triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này thì triết học Hêghen, - khoa học về ý niệm tuyệt đối -, được chia thành 3 bộ phận là khoa học lôgích, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với 3 giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với no.

Như vậy, trong Hiện tượng luận tinh thần, Hêghen đã thoát ra khỏi hệ thống triết học Senlinh, và định hướng cho một hệ thống triết học mới của riêng mình. Hệ thống triết học mới này được ông trình bày chi tiết trong bộ Bách khoa toàn thư các khoa học triết học, - bao gồm 3 quyển là Khoa học lôgích, Triết học tự nhiên Triết học tinh thần.



b) Khoa học lôgích

Là tác phẩm quan trọng nhất của Hệ thống triết học Hêghen, Khoa học lôgích nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ thống. Khi vạch ra những hạn chế của lôgích học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa lôgích học với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm trù bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó..., Hêghen khởi thảo một lôgích học mới giúp vạch ra bản chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học.



  • Lôgích học là gì?

Hêghen coi lôgích học là khoa học về những phạm trù và quy luật của tư duy, nhưng tư duy mà lôgích học nghiên cứu là tư duy thuần túy, tức ý niệm tuyệt đối trong chính nó hay Thượng đế. Theo Hêghen, lôgích học giúp thể hiện Thượng đế trong bản chất vĩnh hằng của Ngài trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu hạn khác, trong đó có tư duy con người. Tư duy con người chỉ là một giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, qua đó ý niệm tuyệt đối có khả năng ý thức được bản thân mình. Khi xác định bản tính khách quan như thế của tư duy, Hêghen coi giới tự nhiên chỉ là tư duy khách quan vô thức - tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật -, để phân biệt với tư duy con người là tư duy khách quan có ý thức.

Tóm lại, theo Hêghen, trong tư duy mọi cái đối lập (vật chất - tinh thần, khách thể - chủ thể, tư tưởng - hiện thực...) đều thống nhất. Lôgích học nghiên cứu tư duy như thế phải là một hệ thống siêu hình học. Lôgích học - Siêu hình học của Hêghen được xây dựng dựa trên luận điểm Cái gì hợp lý thì hiện thực cái gì hiện thực thì hợp lý.

Trên bình diện triết học, luận điểm này tiếp tục khẳng định sự tồn tại ý niệm tuyệt đối, khẳng định các phạm trù lôgích không chỉ là hình thức chủ quan mà còn thể hiện cả bản chất, nội dung khách quan, và triết lý không phải là điều hoang tưởng, đồng thời, nó cũng khẳng định sự thống nhất giữa tư tưởng và hiện thực, tư duy và tồn tại... là một quá trình phát triển biện chứng.

Hiện thực ở đây là tồn tại trong tính tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển, chứ không phải là hiện thực sơ cứng, không phải là tồn tại nói chung. Khi tư duy là một quá trình biện chứng như thế, thì mọi phạm trù, quy luật của nó cũng sinh động, uyển chuyển, liên hệ, chuyển hóa, vận động, phát triển theo các quy luật biện chứng.

Vậy, phép biện chứng phải là một linh hồn uyển chuyển của lôgích học; và lôgích học phải là một cơ thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù sơ cứng. Do là một cơ thể sống động nên lôgích học luôn đào thải những phạm trù không thể hiện bản chất sống động của tư duy, đồng thời trang bị cho con người một phong cách tư duy biện chứng để khám phá ra chân lý, để đi đến tự do.


  • Những nguyên tắc để xây dựng lôgích học

Tư tưởng xuyên suốt để xây dựng lôgích họcnghịch lý về sự phát triển. Nghịch lý này nói rằng, phát triển là quá trình vận động tiến lên phía trước, nhưng nó cũng chính là sự quay trở về điểm khởi đầu. Tư tưởng đồng nhất cái khởi đầucái cuối cùng của hệ thống phát triển được Hêghen hiểu: Cái khởi đầucái cuối cùng (của hệ thống phát triển) dưới dạng tiềm tàng. Cái cuối cùng chính là cái khởi đầu (của hệ thống phát triển) đã được khai triển đầy đủ. Vì vậy, việc xác định cái khởi đầu là có ý nghĩa rất quan trọng. Do nhận thức rõ điều này mà cái khởi đầu đã được Hêghen xác định dựa trên một loạt các nguyên tắc sau đây:

Một là, nguyên tắc về tính khách quan đòi hỏi cái khởi đầu phải là cái khách quan, nghĩa là nó được xác định không dựa vào sự ưa thích của nhà nghiên cứu.

Hai là, nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy, từ đơn giản đến phức tạp đòi hỏi cái khởi đầu phải là cái đơn giản nhất, trừu tượng nhất, để phù hợp với xu thế phát triển tiến lên của quá trình nhận thức.

Ba là, nguyên tắc mâu thuẫn đòi hỏi cái khởi đầu phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống; bởi vì, nếu không chứa mâu thuẫn cơ bản thì cái khởi đầu không thể phát triển thành hệ thống, và cái cuối cùng không phải là cái khởi đầu được khai triển đầy đủ.

Bốn là, nguyên tắc thống nhất tính lôgích với tính lịch sử đòi hỏi cái khởi đầu vừa là cái lịch sử đầu tiên vừa là cái lôgích tất yếu; bởi vì, phát triển không chỉ xảy ra theo trình tự thời gian mà còn là quá trình kế thừa, vượt bỏ những cái ngẫu nhiên để liên tục tiến lên.


  • Kết cấu của Khoa học lôgích. Phép biện chứng duy tâm

Tác phẩm Khoa học lôgích được Hêghen xây dựng dựa trên các nguyên tắc trên. Qua tác phẩm này Hêghen cố vạch rõ linh hồn uyển chuyển của lôgích học - phép biện chứng. Khoa học lôgích của ông bao gồm 3 phần, mỗi phần nghiên cứu 1 trong 3 giai đoạn tương ứng của tư duy thuần túy trong chính nó. Đó là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chấthọc thuyết về khái niệm.

Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa lượng chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi gián đoạn về chất và ngược lại. Sự quy định này nói lên cách thức tồn tại của sự vật (khái niệm). Theo Hêghen, tồn tại xuất phát không phải là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần túy, nghĩa là tồn tại ở một phương diện nhất định và được đồng nhất với hư vô, tồn tại dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại thuần túy sang sinh thành là sự thống nhất giữa chất, lượng trong độ. Chất là tính quy định bên trong của sự vật. Lượng là tính quy định bên ngoài của nó. Độ là sự thống nhất của chất lượng với nhau trong sự vật để sự vật là nó. Khi lượng của sự vật thay đổi vượt quá độ, tức qua điểm nút thì chất này chuyển thành chất khác, tức bước nhảy xảy ra.

Trong học thuyết về bản chất, Hêghen bàn về bản chất - hiện tượng - hiện thực, nghĩa là bàn về sự tự vận động phát triển của các phạm trù: đồng nhất - khác biệt – đối lập – mâu thuẫn, bản chất – hiện tượng, nội dung – hình thức, khả năng – hiện thực, nguyên nhân – kết quả, khả năng – hiện thực. Ông vạch ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của sự vật (khái niệm). Khi nghiên cứu quá trình vận động, phát triển của khái niệm, ông cho rằng, trong bản thân khái niệm vốn có sẵn cái khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc đầu là khác biệt nhỏ, do tích lũy dần dẫn đến khác biệt cơ bản (đối lập); từ đây mâu thuẫn hình thành và phát triển dẫn đến chuyển hóa.

Trong học thuyết về khái niệm, Hêghen bàn về sự tự vận động phát triển của ý niệm tuyệt đối thông qua các hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm – phán đoán – suy luận, bàn về thực tiễn, về chân lý hay ý niệm – sự thống nhất giữa khái niệm và thực tiễn. Ông vạch ra con đường phát triển của khái niệm theo xu hướng phủ định của phủ định, nghĩa là khái niệm phát triển theo đường xoắn ốc. Hêghen cho rằng khái niệm không bất động mà nó phải trải qua các giai đoạn khác nhau của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn trực quan cảm tính với cảm giác, tri giác, biểu tượng, và giai đoạn lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý. Do khái niệm luôn luôn biến đổi, mà phán đoán được xây dựng trên khái niệm ngày càng sâu sắc hơn, và suy lý được xây dựng trên phán đoán ngày càng sáng tạo, năng động hơn.

Như vậy, toàn bộ Khoa học lôgích thể hiện quá trình tự thân vận động phát triển của ý niệm tuyệt đối trong chính nó và cho nó. Đầu tiên, ý niệm tuyệt đối tự tha hóa chính mình trong tồn tại của mình để tự đem đến cho mình một nội dung. Sự vận động tiếp theo cho phép ý niệm tuyệt đối khám phá thấy mình trong bản chất, và sau cùng nó quay về với chính mình trong ý niệm, nghĩa là trở về cái ban đầu.

Vận động trở về cái khởi đầu cũng là tiến lên phía trước là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Hêghen. Luận điểm này không chỉ nói lên bản chất duy tâm mà còn vạch rõ linh hồn biện chứng của toàn bộ triết học Hêghen.

Qua các học thuyết về tồn tại, bản chấtkhái niệm, Hêghen đã trình bày một cách xúc tích, nhưng đầy đủ và rõ ràng các luận điểm cơ bản của phép biện chứng. Phép biện chứng linh hồn của lôgích học Hêghen là phép biện chứng của khái niệm, nó khẳng định những luận điểm tổng quát sau:

Một là, mỗi khái niệm đều nằm trong mối quan hệ, liên hệ với những khái niệm khác và làm “trung giới” cho nhau.

Hai là, mỗi khái niệm đều có mối liên hệ nội tại, đều chứa đựng mâu thuẫn nội tại, chúng thâm nhập lẫn nhau.

Ba là, mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình không ngừng vận động, phát triển và chuyển hóa qua lại lẫn nhau...

Như vậy, mọi nội dung cốt lõi của phép biện chứng đã được Hêghen bao quát hết trong Khoa học lôgích của mình. Xét về bản chất, phép biện chứng khái niệm của Hêghen là phép biện chứng duy tâm. Do bản tính duy tâm nên phép biện chứng này đầy tính tư biện, không triệt để và chứa nhiều yếu tố thần bí. Hêghen bắt nó phải dừng lại trong hệ thống của mình và trong khuôn khổ Nhà nước Phổ…



  • Tư duy biện chứng

Hêghen hiểu sự phát triển của lôgích học nói chung, tư duy - đối tượng của nó nói riêng, là một quá trình biện chứng. Tương ứng với việc phân chia lịch sử phát triển của lôgích học – cũng chính là triết học ra làm 3 thời kỳ: thời kỳ trước Căntơ, thời kỳ Căntơ – Phíchtơ, thời kỳ hiện tại (Hêghen) là 3 giai đoạn phát triển của tư duy: giác tính, lý tính biện chứng, lý tính tư biện.

Giác tínhkiểu tư duy thông thường, mang nặng tính trực quan cảm tính, được sử dụng nhờ vào các phạm trù bất động, sơ cứng, dựa trên việc khẳng định tính tĩnh tại của thế giới...

Lý tính biện chứngkiểu tư duy dựa trên cơ sở phát triển của khái niệm, được sử dụng nhờ vào các khái niệm phạm trù uyển chuyển, thay đổi, dựa trên việc khẳng định mọi sự vật (cái hiện hữu) đều phải đứng trước “tòa án” của sự thay đổi.

Lý tính tư biệnkiểu tư duy dựa trên cơ sở thống nhất giác tính với lý tính biện chứng, được sử dụng nhờ vào việc xem xét sự vật trong sự thống nhất và đấu tranh của những cái đối lập; nó là kiểu tư duy biện chứng chín mùi.

c) Triết học tự nhiên

Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất. Hêghen không giải thích ý niệm tuyệt đối chuyển từ chính nó sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài thời gian, và giới tự nhiên cũng không có khởi đầu trong thời gian. Hêghen cho rằng, quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt đối đồng thời cũng là quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên diễn ra liên tục. Thế giới đã được tạo ra, hiện đang được tạo ra và sẽ vĩnh viễn được tạo ra.

Những hình thức chủ yếu của ý niệm tuyệt đối tồn tại dưới dạng giới tự nhiêncơ học, vật lý học, sinh thể học. Khi luận về cơ học, Hêghen trình bày những vấn đề về không gian, thời gian, vật chất, vận động, lực hấp dẫn vũ trụ… theo tinh thần duy tâm, thậm chí còn mang màu sắc siêu hình. Khi bàn về vật lý học, Hêghen trình bày các vấn đề về thiên thể, ánh sáng, nhiệt... Và khi nói đến sinh thể học, Hêghen trình bày các vấn đề về địa chất học, thực vật học, động vật học...

Hêghen cố gắng trình bày giới tự nhiên như một chỉnh thể thống nhất mà trong nó, mọi vật có liên hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, do coi giới tự nhiên sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, mà ông cho rằng, bản thân giới tự nhiên thụ động, không tự vận động, không biến đổi, không phát triển theo thời gian mà chỉ vận động trong không gian. Ở đây, nhiều chỗ nhà biện chứng lại tỏ ra tư biện và bất chấp khoa học; vì vậy, Triết học tự nhiên là bộ phận yếu nhất trong toàn bộ hệ thống triết học của ông.



d) Triết học tinh thần

Đây là phần thứ ba trong hệ thống Hêghen, tại đây, ông xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối cùng trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha hóa, quay về lại chính mình như thế nào. Triết học tinh thần bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách quanhọc thuyết về tinh thần tuyệt đối.



Tinh thần chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người (nhân loại học); sau đó, nó thể hiện trong ý thức (hiện tượng học) để phân biệt với cơ thể; và sau cùng, nó thể hiện trong tri thức (tâm lý học) - cái tinh thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó.

Tinh thần khách quan là sự phủ định biện chứng tinh thần chủ quan. Nó thể hiện tính tự do của ý niệm tuyệt đối trước hết trong pháp quyền; nó lấy tự do ý chí làm nền tảng, lấy ý niệm pháp quyền và việc thực hiện pháp quyền làm đối tượng. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể đạo đức thì tinh thần khách quan tự phát triển vào lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp quyền của hành vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi của các chủ thể làm cơ sở. Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong phong hóa. Phong hóa là sự thể hiện bản tính tự do của ý niệm tuyệt đối trong các hình thức thể hiện là gia đình, xã hội công dân và nhà nước, trong đó, nhà nước là hình thức cao nhất.

Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất của tinh thần chủ quan tinh thần khách quan. Nó thể hiện đầu tiên trong nghệ thuật, thông qua việc đề cao cái đẹp tinh thần - hình ảnh cảm tính của ý niệm tuyệt đối; sau đó, nó thể hiện trong tôn giáo, thông qua việc thống nhất niềm tin với lý tính - biểu tượng của ý niệm tuyệt đối; và cuối cùng, nó hoàn thiện chính mình trong hệ thống khái niệm trừu tượng của triết học. Theo Hêghen, nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà y niệm tuyệt đối sử dụng để tự khám phá ra chính mình, để rũ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình nơi trần gian mà quay về với mình, quay về với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ của nó, trong đó, triết học là quá trình tự nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối.

Hêghen cho rằng, triết học của ông - học thuyết về tinh thần tuyệt đối là sự tổng hợp toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đó, thuộc mọi lĩnh vực nghiên cứu hoạt động tinh thần của con người. Nó là khoa học của mọi khoa học. Trong triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã hoàn thành quá trình nhận thức của mình, đã khám phá ra chính mình, và quay trở về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối kết quả tối cao, toàn diện và triệt để của toàn bộ lịch sử thế giới.

Nếu Triết học tự nhiên có nhiều điểm yếu thì Triết học tinh thần là một thành tựu vĩ đại của triết học Hêghen. Xét về thực chất, đây là học thuyết duy tâm bàn về sự phát triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ, lý tính con người. Ở đây, ông đã lý giải tiến trình phát triển xã hội theo tinh thần duy tâm.

Xuất phát từ quan điểm: Mọi người sinh ra về bản tính vốn bất bình đẳng, ông cho rằng, mọi sự bất công, tệ nạn trong xã hội… đều là các hiện tượng tất yếu, hợp quy luật, xuất hiện một cách tự nhiên từ bản tính con người. Do vậy mà quá trình không ngừng nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa các giai - tầng, giữa cá nhân và xã hội… là động lực cơ bản thúc đẩy mọi sự phát triển của xã hội.

Hêghen coi nhà nước vừa là kết quả vừa là sự dung hòa của những mâu thuẫn xã hội. Theo ông, do sự khác biệt và bất bình đẳng giữa các giai - tầng trong xã hội mà những mâu thuẫn xã hội xuất hiện, đưa đến sự ra đời của nhà nước. Nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực hoạt động đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa... của xã hội. Nhà nước ra đời nhằm dung hòa những mâu thuẫn trong xã hội để định hướng phát triển cho xã hội. Nhờ có nhà nước mà mỗi quốc gia phát triển bình thường… Khi đề cao vai trò của nhà nước, Hêghen coi nhà nước là một giá trị tinh thần, và khẳng định nhà nướcsự thực hiện tự do, là sự ngao du của Thượng đế trong xã hội loài người, hay là hiện thân của ý niệm tuyệt đối nơi trần gian.

Do coi nhà nước vừa là kết quả vừa là sự dung hòa mâu thuẫn xã hội mà Hêghen vừa đề cao chiến tranh với tính cách là phương tiện giúp xã hội tránh được sự thối nát, vừa chống lại chiến tranh làm xáo trộn xã hội.

Hêghen coi lịch sử kết quả hoạt động của từng con người cụ thể, nhưng không phụ thuộc vào hành động, ý muốn của họ. Lịch sử là một tiến trình phát triển của hoạt động con người thống nhất trong mình cái chủ quan và cái khách quan. Hêghen vạch ra tiến trình phát triển của lịch sử luôn gắn liền với lợi ích của từng cá nhân, từng giai - tầng trong xã hội, nhưng đồng thời nó phát triển theo quy luật của riêng mình.

Hêghen coi con ngườisản phẩm của thời đại - lịch sử; ông khẳng định, không ai có thể thoát ra khỏi thời đại mà không bị thời đại phán xét, không có lực lượng xã hội nào làm đảo ngược được thời đại mà không phải trả giá đắt cho sự phiêu lưu của mình. Mặc dù đề cao vai trò của lý tính, nhưng ông cũng khẳng định, nếu không có sự say mê thì không có gì vĩ đại xảy ra trên thế giới này cả; và chỉ những người nào nhìn nhận thế giới một cách hợp lý, thì cả thế giới mới đánh giá về họ một cách hợp lý.

Khi dựa trên quan niệm về lịch sử con người, Hêghen xác định vai trò của vĩ nhân trong lịch sử (xã hội). Theo ông, vĩ nhânnhững người suy nghĩ và hiểu được những gì là cần thiết và những gì là hợp thời. Xuất phát từ luận điểm này, Hêghen đòi hỏi khi xem xét lịch sử, khi đánh giá cá nhân, thì các nhà sử học phải biết kết hợp tính đảng với tính khách quan trong xem xét.

Ngoài ra, Hêghen cũng thấy được tính chất xã hội, vai trò của lao động, của sự phân công lao động đối với sự phát triển của lịch sử và bản thân con người.

Hêghen khẳng định lịch sử toàn thế giới là lịch sử phát triển theo khuynh hướng tiến bộ. Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội là mức độ tự do. Còn tự do là sự nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ những quy luật tất yếu của thế giới, - hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi tự do của con người sự thể hiện sự hiểu biết và làm theo ý Thượng đế. Xã hội càng tiến bộ bao nhiêu thì con người càng tự do, nhân cách càng phát triển bấy nhiêu. Con người là chúa tể của số phận và sứ mệnh của chính mình…


  • Tóm lại, qua sự khảo sát tổng quát Hệ thống triết học Hêghen chúng ta nhận thấy:

Một là, thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung triết học Hêghen. Mọi sự vật, quá trình dù là vật chất hay tinh thần đều là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chi phối mọi sự sinh thành, tồn tại và tiêu vong của hết thảy mọi cái trong thế giới. Vật chất, giới tự nhiên chỉ là sự tự tha hóa, một sự tồn tại khác, một sản phẩm sơ cứng bất động của ý niệm tuyệt đối mà thôi. Đề cao cái tinh thần, khẳng định tính quyết định của nó trong việc đưa ra các phương thức giải quyết cho các vấn đề thuộc về lý luận cũng như thực tiễn là tư tưởng chủ đạo được trình bày trong toàn bộ nội dung triết học Hêghen.

Hai là, phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hêghen. Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến - mọi cái đều là hiện thân, là các giai đoạn khác nhau nhưng liên hệ lẫn nhau của ý niệm tuyệt đối -, và tư tưởng về sự phát triển - quá trình phủ định biện chứng của ý niệm tuyệt đối -… là những tư tưởng cơ bản xuyên suốt, là mạch suối ngầm thấm chảy qua toàn bộ hệ thống của Hêghen. Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấp lên cao, bằng cách chuyển hóa qua lại giữa lượng và chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các hình thức cụ thể của ý niệm tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của ý niệm tuyệt đối, Hêghen đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của phép biện chứng và các quy luật không cơ bản – các cặp phạm trù.

Ngoài việc phát hiện ra các quy luật biện chứng, Hêghen còn xây dựng các nguyên tắc của lôgích biện chứng, các quan điểm biện chứng về nhận thức, ông đã đặt nền móng cho sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích học và nhận thức luận. Theo Hêghen, nhận thức phải đi từ trừu tượng đến cụ thể, nhận thức lý thuyết phải thống nhất với hoạt động thực tiễn. Chân lý phải mang tính cụ thể, tính quá trình và là sự phù hợp của khái niệm với thực tiễn. Tuy nhiên, đối với Hêghen, nhận thức là khám phá ra ý niệm tuyệt đối chứ không phải khám phá ra giới tự nhiên vật chất; và thực tiễn không phải là hoạt động vật chất mà chỉ là những hoạt động tinh thần của chủ thể sáng tạo ra tư tưởng mà thôi.

Phép biện chứng của Hêghen không chỉ là lý luận biện chứng về sự phát triển của thế giới ý niệm, mà còn là phương pháp biện chứng nghiên cứu thế giới ý niệm. Thông qua phép biện chứng của ý niệm, Hêghen đã đoán được phép biện chứng của sự vật, vì vậy, nó là phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng của Hêghen, về thực chất, là tích cực và cách mạng, nhưng nó lại bị giam hãm trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của ông; vì vậy, trong triết học của Hêghen, bên cạnh những nội dung biện chứng, tiến bộ, vạch thời đại, khoa học và cách mạng lại có không ít quan điểm siêu hình, phản động, phản khoa học và bảo thủ, tư biện; nghĩa là trong nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Hêghen đã phủ nhận sự phát triển trong giới tự nhiên, ông bất chấp hay phủ nhận nhiều thành tựu của khoa học tự nhiên bấy giờ nếu chúng không dung hợp với ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi nhà nước Đức, văn minh Đức là đỉnh cao của hiện thân tinh thần tuyệt đối trên trần gian, là chuẩn mực cuối cùng mà mọi dân tộc trên thế giới phải vươn đến. Và sau cùng, trong triết học Đức - triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã khám phá ra chính mình từ cái không phải là mình để quay về với mình; do đó, tại đây, mọi sự phát triển tiếp tục đều chấm dứt… Dù có nhiều hạn chế không nhỏ nhưng thành tựu mà triết học Hêghen mang lại - phép biện chứng tư duy là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại. Triết học Hêghen là một cội nguồn của triết học Mác.

Cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của Hệ thống Hêghen là một yêu cầu cấp bách của triết học mà sau này Mác đã thực hiện. Khi cải tạo phép biện chứng duy tâm Hêghen theo tinh thần duy vật của triết học Phoiơbắc, Mác đã xây dựng phép biện chứng duy vật – phép biện chứng của sự vật - thế giới khách quan, mà phép biện chứng của ý niệm chỉ là hình ảnh biện chứng trong bộ óc con người phản ánh phép biện chứng của sự vật - thế giới khách quan.

Tóm lại, với một hệ thống triết học tương đối hoàn chỉnh, với tri thức bách khoa, kiến thức uyên bác và thiên tài của mình, Hêghen trở thành nhà triết học lớn nhất thời bấy giờ. Học thuyết của ông khép lại một giai đoạn phát triển triết học đầy sôi động, đồng thời mở ra một giai đoạn cách mạng mới trong lịch sử triết học - giai đoạn gắn tư tưởng triết học với thực tiễn cách mạng.



5. Lútvích Phơiơbách

Phoiơbắc (Ludwig Feuerbach, 1804-1872) sinh ra trong một gia đình luật sư nổi tiếng, đã từng tham gia phái Hêghen trẻ, là nhà triết học duy vật duy nhất trong nền triết học cổ điển Đức, bậc tiền bối của Mác. Các tác phẩm Phê phán triết học Hêghen, Bản chất của đạo cơ đốc, Luận cương sơ bộ về cải cách triết học, Cơ sở của triết học tương lai, Bản chất của tôn giáo… của ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII và làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học bấy giờ.

Phoiơbắc cho rằng, mình có sứ mạng phải xây dựng một nền triết học mới – triết học về chính con người để tạo cho con người một cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần gian. Xuất phát từ quan điểm này mà Phoiơbắc đã coi con ngườiđối tượng nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng, xưa nay triết học nghiên cứu quan hệ giữa tư duy và tồn tại, nhưng đây lại là vấn đề thuộc về bản chất của con người; bởi vì, chỉ có con người đang sống, đang tồn tại mới có tư duy. Ông luôn nhấn mạnh, chỉ khi xuất phát từ gốc độ đó thì vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại mới được giải quyết một cách đúng đắn và có ý nghĩa thật sự. Do khoa học nghiên cứu bản chất của con người là nhân bản học, và con người là đối tượng của triết học mới, nên triết học mới đó – triết học tương lai nhất thiết phải là triết học nhân bản. Như vậy, theo ông, nhân bản học phải là khoa học cơ sởchung nhất mà mọi ngành khoa học khác, kể cả triết học phải dựa vào. Triết học mới mà Phoiơbắc đã xây dựng là triết học duy vật nhân bản, mà nội dung của nó bao gồm những quan niệm chủ yếu sau:



a) Quan niệm về giới tự nhiên và con người

Dựa trên truyền thống duy vật, Phoiơbắc cho rằng: vật chất có trước ý thức; giới tự nhiên tồn tại vô cùng đa dạng, phong phú và tự nó; không gian, thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên; bản thân giới tự nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động, phát triển trong không gian, thời gian, theo các quy luật khách quan nội tại; trong những điều kiện nhất định, quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người; con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của chính mình – một đóa hoa rực rỡ của giới tự nhiên, để nhận thức giới tự nhiên, tức tất cả những gì không phải là siêu nhiên…

Phoiơbắc cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu của đời sống con người. Con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mọi nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, sinh đẻ... Còn những cái đó đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, đam mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi con người, mà xét đến cùng, chúng làm cho người này không giống người kia. Do đó, theo Phoiơbắc, con người vừa mang bản tính cá nhân, và con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng.

Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để rung động cảm xúc... Đó là con người đang tồn tại bằng xương, bằng thịt, đang sống, đang làm việc, đang yêu, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ không phải con người trong ý tưởng - con người trừu tượng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá nhân của mỗi con người, chứ không phải xuất phát từ Thượng đế.

Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với những người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi con người mà là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa hợp với mọi người, trong cộng đồng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành cho con người, tình yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng đồng của con người chứ không phải bắt nguồn từ Thượng đế.

Từ đây, Phoiơbắc coi bản chất con người là tổng thể các nhu cầu, khả năng, khát vọng, ham muốn… Bản chất đó chỉ thật sự sống động khi mỗi cá nhân con người được sống trong sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên và sự chan hòa với nhau trong cộng đồng xã hội.

Theo Phoiơbắc, con người thật sự luôn hành động một cách tự do theo tình cảm đam mê, theo nhu cầu lợi ích, theo tình yêu khát vọng… của mình. Nhưng cái tự do đó không tách ra khỏi sự bó buộc, không nằm ngoài mối quan hệ với các sự vật tự nhiên hay cộng đồng nhân loại. Trong hạnh phúc có cả tự do và tất yếu. Vươn đến hạnh phúc là biến hành động tất yếu thành hành động tự do. Con người chỉ đạt được tự do khi nhu cầu được đảm bảo, khả năng được thực hiện, khát vọng ham muốn được tuôn tràn…, nghĩa là bản chất người được thể hiện. Đời sống hạnh phúc chỉ có được khi hành động tự do của con người thống nhất với những điều kiện sống của họ. Vì vậy, muốn sống hạnh phúc, con người cần phải cải tạo điều kiện sống sao cho phù hợp với bản tính của mình.

Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng của con người, theo Phoiơbắc, là cơ sở của tính ích kỷ hợp lý, – thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng đồng xã hội. Tính ích kỷ hợp lý đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân con người phải phù hợp hài hòa với quyền lợi chung của cộng đồng xã hội. Phoiơbắc cho rằng, tình yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện vừa là mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó còn là động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi con người. Phoiơbắc quan niệm rằng: Chúng ta sẽ không thể là con người nếu không biết yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người. Tuy nhiên, trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì, tình yêu của người đàn ông dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với Phoiơbắc, con ngườitình yêu chỉ là một, chúng không thể tách rời nhau.

Nhìn chung, quan niệm của Phoiơbắc về con người thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản muốn khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi con người. Nó có ưu điểm là đã quan tâm đến con người (chủ yếu mặt tự nhiên - sinh học); song, nó còn có hạn chế là đã tuyệt đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất con người mà không chú ý mặt lịch sử - xã hội, không thấy điều kiện chính trị - xã hội mà con người phải sống trong đó. Quan niệm về con người của ông rất trừu tượng, bởi vì nó không mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc.

b) Quan niệm về tôn giáo

Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang đường mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Sự bất lực trong nhận thức, sự sợ hãi, đau khổ, khó khăn triền miên, niềm mơ ước khao khát vươn lên trong cuộc sống đầy đau khổ bất hạnh, đầy bế tắt buồn thương của con người đã sản sinh ra tôn giáo. Tôn giáosự tha hóa bản chất của con người. Còn Thượng đế chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước, khát vọngcon người muốn có. Vì vậy, giá trị, mơ ước, khát vọng của con người như thế nào thì Thượng đế như thế nấy. Thượng đế là nhân cách cá nhân được thần thánh hóa.

Như vậy, theo Phoiơbắc, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người; không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã sinh ra Thượng đế.

Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới hoang đường, tôn giáo làm tha hóa con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kìm hảm mà còn tước đi ở con người tính năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo – tín ngưỡng – thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản – tình yêu – con người.

Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo; tuy nhiên, càng phê phán tôn giáo ông càng thấy rằng nếu thiếu tôn giáo, con người sẽ khó sống được, bởi vì con người cần có niềm tin để an ủi mình (dù là giả tạo) trước cuộc đời đầy đau khổ. Vì vậy, ông ra sức xây dựng một thứ tôn giáo mới thay cho Cơ đốc giáo. Đó là Tôn giáo của tình yêu vĩnh cữu phổ quát giữa con người (trước hết là tình yêu nam nữ) dựa trên tính nhân bản mà trong đó vai trò Thượng đế được giao cho chính con người đảm trách. Theo ông, tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu cánh của con người để con người thật sự sống đúng như bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành thiên đàng trên mặt đất.

c) Quan niệm về nhận thức

Khi đứng vững trên quan điểm duy vật về khả năng con người nhận thức được và nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới, Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính lôgích trừu tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận thức. Chủ thể nhận thức cũng không phải là lý tính lôgích trừu tượng mà là con người sống động, tồn tại trong thực tế, có cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận xử lý tài liệu cảm tính để khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên, nhưng đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ khác nhau. Nếu một người không thể nhận thức được thế giới thì tất cả mọi thế hệ nối tiếp có thể nhận thức được thế giới khách quan vô tận.

Dù có quan điểm khả tri, nhưng Phoiơbắc chỉ coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người – chủ thể nhận thức. Trong lý luận nhận thức của mình, Phoiơbắc hoàn toàn không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Theo ông, thực tiễn mang tính thấp hèn, do đó, nó cần được loại ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học. Bản thân ông cũng không hiểu chính hoạt động khoa học cũng là hoạt động thực tiễn. Ông không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn là làm hoàn thiện con người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung. Vì không thấy trong thực tiễn động lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu.

Mặc dù triết học của Phoiơbắc đầy tính duy vật và nhân bản nhưng nó cũng không ít màu sắc siêu hình. Bởi vì, một mặt, do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ nhận luôn phép biện chứng; mặt khác, ông hiểu biện chứng rất hời hợt, - phép biện chứng không phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh

Trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiếm diện trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc tìm hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức và cuộc sống… Đặc biệt, trong việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán… Dù vậy, triết học của ông cũng đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật; ông phê phán triệt để chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo; ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật và nhân bản, nó là một cội nguồn tư tưởng của triết học Mác.

Triết học cổ điển Đức không chỉ là thành tựu to lớn của tư tưởng nhân loại mà nó còn là tiền đề lý luận của triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Phương pháp biện chứng duy vật - linh hồn của chủ nghĩa Mác là kết quả cải biến chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc và phát triển phép biện chứng của Hêghen.

Chương 7

TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
Triết học Phương Tây hiện đại đã hình thành ở các nước Phương Tây từ giữa thế kỷ XIX và phát triển rối mạnh mẽ cho đến ngày nay. Nó phản ánh hiện thực cuộc sống đầy sôi động và vô cùng phức tạp của xã hội Phương Tây tư bản chủ nghĩa trong quá trình chuyển mình từ giai đoạn tiền đế quốc chủ nghĩa sang đế quốc chủ nghĩ, mà trước hết là phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt giữa giai cấp vô sản – giai cấp ngày càng nhận thức rõ vai trò, sứ mạng lịch sử của mình, với giai cấp tư sản – giai cấp ngày càng trở nên thâm hiểm và phản động. Vì vậy, triết học Phương Tây hiện đại bao gồm hai dòng triết học xung đột mãnh liệt với nhau. Đó là: Triết học mácxít - cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, ý thức hệ của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động tiến bộ đang đấu tranh đòi cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa nhằm xây dựng chủ nghĩa cộng sản40; Và triết học ngoài mácxít Phương Tây hiện đại bao gồm nhiều trào lưu, khuynh hướng, trường phái, quan điểm lý luận… rất đa dạng, tuy nhiên chúng ít nhiều đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp tư sản và truyền thống của các dân tộc Phương Tây tư bản chủ nghĩa. Dòng triết học này đang được giới triết học thế giới và Việt Nam quan tâm, nhất là hiện nay, khi cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra phức tạp, khi mà nhu cầu đòi hỏi phải tiến hành đổi mới tư duy lý luận trở nên cấp bách.

Do nội dung cơ bản của triết học mácxít, tức triết học Mác - Lênin đã (sẽ) được giới thiệu trong chương trình Triết học (75 tiết); vì vậy trong phần này, chúng tôi chỉ giới thiệu sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của triết học mácxít. Kế đến, chúng tôi trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển một số trào lưu triết học Phương Tây ngoài mácxít hiện đại.



I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁCXÍT

Sự xuất hiện triết học mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX là một bước ngoặc trong lịch sử triết học. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo những di sản tư tưởng triết học của nhân loại, Mác và Ăngghen đã nâng triết học lên một vị thế mới. Triết học Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong triết học và trong khoa học.



A. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN TRIẾT HỌC MÁCXÍT

Mọi trường phái triết học đều ra đời dựa trên những tiền đề kinh tế xã hội nhất định. Triết học mácxít không nằm ngoài xu thế phát triển chung nói trên, nó cũng là sản phẩm của một thời đại lịch sử cụ thể.

1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Triết học Mác ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa phong kiến sụp đổ và chủ nghĩa tư bản lớn mạnh ở một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt đến trình độ khác về chất so với lịch sử trước đó. "Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại" 41.

Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và cùng với nó là giai cấp vô sản cách mạng, -giai cấp hiện thân của nền sản xuất mới, giai cấp trung tâm của thời đại.

Sản xuất hàng hóa và tính chất cạnh tranh tự phát của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không những không giúp nhà nước tư sản giải quyết được những mâu thuẫn nội tại vốn có, mà còn thúc đẩy các mâu thuẫn ấy phát triển ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản đã hình thành. Thời kỳ đầu, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản chỉ diễn ra một cách tự phát, với mục tiêu là đòi cải thiện điều kiện làm việc, tăng tiền lương, giảm giờ làm...

Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, sự hình thành và phát triển các trung tâm công nghiệp lớn đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh từ tự phát chuyển sang tự giác mà điển hình là cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) vào năm 1831. Phong trào cách mạng có tính chính trị ngày càng thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, mà điển hình là phong trào Hiến chương vào những năm 30 xảy ra tại Anh.

Nước Đức vào giai đoạn này, dù chủ nghĩa tư bản chưa phát triển nhanh như ở Anh và Pháp, nhưng lại là nơi hội tụ của nhiều mâu thuẫn. Giai cấp tư sản Đức non trẻ lẽ ra phải tập hợp mọi lực lượng để làm cuộc cách mạng tư sản chống lại giai cấp phong kiến, thì ngược lại, nó đi thỏa hiệp với tầng lớp quý tộc, chống lại giai cấp vô sản đang ngày càng lớn mạnh. Giai cấp vô sản Đức nói riêng, giai cấp vô sản trên toàn thế giới nói chung, đã dần dần nhận thức ra rằng, muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, họ cần phải có những mục tiêu chung và cần phải thống nhất mọi hành động nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chung đó. Cơ sở cho sự thống nhất những mục tiêu và hành động chung ấy, trước hết phải là thế giới quan duy vật khoa học.

Là người con của dân tộc Đức, Mác đã xuất hiện rất đúng lúc. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và sáng tạo những di sản tư tưởng triết học của loài người, biết phân tích đúng thực tiễn kết hợp với năng lực tư duy của một nhà bác học, Mác đã cùng với Ăngghen xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Triết học Mác là sản phẩm tất yếu nảy sinh từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận cách mạng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Nước Đức trở thành quê hương của chủ nghĩa Mác.

2. Tiền đề lý luận

Khi phân tích nguồn gốc của sự xuất hiện triết học Mác, các nhà tư tưởng luôn đánh giá cao vai trò của triết học cổ điển Đức. Cống hiến quan trọng của Mác không phải chỉ ở chỗ sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử -cơ sở của thế giới quan khoa học; mà còn ở chỗ, sàng lọc và kế thừa có phát triển những di sản tư tưởng của nhân loại, trong đó có triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

Phép biện chứng duy vật của Mác được hình thành dựa trên cơ sở chọn lọc có phê phán phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen -một trong những nhà triết học biện chứng duy tâm khách quan lớn nhất lịch sử triết học. Mác cho rằng: Dù triết học của Hêghen mang tính chất duy tâm thần bí, nhưng ông là người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có hệ thống các hình thức vận động chung của phép biện chứng. Rất tiếc, thay vì phải chứng minh đó là những nguyên lý, những quy luật được rút ra từ bản thân thế giới hiện thực, thì ngược lại, Hêghen lại coi đó là các qui luật của thế giới ý niệm (tinh thần) tồn tại ở bên ngoài thế giới hiện thực của con người.

Cùng với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, trong chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác còn có sự kế thừa và phát triển những quan điểm duy vật về tự nhiên của Phoiơbắc, -nhà dân chủ tư sản cấp tiến, đại biểu sau cùng của triết học cổ điển Đức. Phoiơbắc là người có công bảo vệ và phát triển quan điểm duy vật về tự nhiên, đấu tranh chống tôn giáo. Đặc điểm triết học duy vật của Phoiơbắc là lấy con người làm xuất phát điểm của triết học. Mặc dù vậy, ông cũng vẫn không vượt qua được những giới hạn của lịch sử. Khuyết điểm lớn nhất trong triết học Phoiơbắc là duy tâm về mặt xã hội và không nhận thấy được những hạt nhân tích cực và hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen. Bản thân con người mà ông chọn làm trung tâm nghiên cứu của triết học cũng chỉ là con người sinh học chứ không phải con người xã hội.

Mặc dù trong triết học của Hêghen và Phoiơbắc còn có những hạn chế nhất định, nhưng nhờ được Mác kế thừa và phát triển hợp lý mà phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen, chủ nghĩa duy vật về tự nhiên của Phoiơbắc đã trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác.

Ngoài phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen và chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc, quan niệm duy vật về lịch sử và quan niệm về chính trị xã hội của triết học Mác còn được hình thành dựa trên cơ sở phân tích và kế thừa có chọn lọc kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Đó là những giá trị quý báu góp phần làm phong phú kho tàng tư tưởng chung của nhân loại.

3. Tiền đề về khoa học tự nhiên

Cùng với những tiền đề về kinh tế - xã hội và lý luận, triết học Mác còn dựa trên một tiền đề vững chắc khác. Đó là tiền đề về khoa học tự nhiên, đặc biệt là dựa trên ba phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX.

Nền đại công nghiệp cơ khí, -sản phẩm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển của các ngành khoa học như toán học, sinh học, hóa học, cơ học, thiên văn học…, lẫn các ngành kỹ thuật. Còn sự phát triển của khoa học đã góp phần mang lại những luận cứ vững chắc để phê phán những hạn chế của hệ tư tưởng cũ nói chung, của những quan niệm triết học duy tâm, tôn giáo nói riêng. Nhưng sự phát triển của khoa học đòi hỏi phải có một hệ thống phương pháp tư duy mới thay thế cho phương pháp tư duy cũ, kém hiệu quả, mà trước hết là phương pháp siêu hình vốn đang rất thịnh hành thời bấy giờ. Lúc bấy giờ, trong khoa học tự nhiên có ba phát minh vĩ đại, có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đó là:

Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng được phát minh vào thời kỳ 1842-1845 bởi nhà vật lý người Đức Mayơ (R.Mayer). Định luật này đã chứng minh cho luận điểm cho rằng: Vận động của vật chất là phổ biến; các dạng vận động của vật chất đều có thể chuyển hóa lẫn nhau; mọi vật đều không tự sinh ra, không tự mất đi, mà chúng chỉ chuyển hóa từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác. Rõ ràng sự xuất hiện của phát minh này đã cung cấp cơ sở khoa học để bảo vệ vững chắc cho sự tồn tại của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.

Học thuyết về tế bào được phát minh vào những năm 30 của thế kỷ XIX. Nội dung của học thuyết này khẳng định: Sự sống là sản phẩm phát triển của bản thân giới tự nhiên; Mọi cơ thể dù là động vật hay thực vật đều được cấu tạo từ những đơn vị mang sự sống rất nhỏ gọi là tế bào; Quá trình không ngừng phân hóa và tăng trưởng của tế bào cũng là quá trình duy trì và phát triển của mỗi cơ thể sống, làm cho cơ thể ngày càng hoàn thiện... Như vậy, học thuyết tế bào đã góp phần quan trọng vào việc khẳng định cơ sở khoa học của sự thống nhất về mặt cấu tạo của các cơ thể động vật và thực vật, đồng thời đã góp phần chứng minh cho sự tồn tại và phát triển của sự sống.

Phát minh thứ ba có vai trò to lớn đối với quan niệm duy vật của Mác - Ăngghen, đó là Học thuyết tiến hóa của Đácuyn, nhà bác học vĩ đại người Anh. Đácuyn đã chứng minh được rằng, các loài đang tồn tại hiện nay được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng, cống hiến của Đácuyn đã góp phần xác định cơ sở khoa học của tính biến dị và di truyền giữa các loài, vạch trần sự xuyên tạc của những quan điểm duy tâm, tôn giáo và thần học xung quanh học thuyết về sự phát triển của thực vật và động vật.

Ngoài những phát minh nói trên, Mác và Ăngghen còn chú trọng đến hàng loạt các phát minh khác của khoa học lúc bấy giờ như định luật bảo toàn vật chất của Lômônôxốp, thuyết nguồn gốc vũ trụ của Cantơ, Định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Menđêlêép... Ăngghen chỉ ra rằng, triết học không thể giải thích được thế giới một cách khoa học nếu nó không biết tổng hợp và khái quát được những thành tựu mới nhất của khoa học. Có thể nói, thành tựu phát triển của mọi ngành khoa học chính là cơ sở giúp Mác, Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học của mình.

Tóm lại, khi sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác đã góp phần vạch ra những qui luật vận động chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Nhờ khắc phục được những thiếu sót cơ bản của triết học duy vật cũ, mà Triết học Mác đã trang bị cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động công cụ khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.

Sự xuất hiện triết học Mác là bước chuyển cách mạng trong lịch sử triết học, nó không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên mà là một hiện tượng hợp qui luật. Triết học Mác là kết quả nảy sinh tất yếu từ những tiền đề kinh tế - xã hội, từ sự kế thừa có chọn lọc những di sản văn hóa và khoa học của nhân loại, từ kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Triết học Mác thực sự là thế giới quan khoa học, là phương pháp luận cách mạng của giai cấp vô sản.


Каталог: file -> downloadfile1 -> 293
293 -> VĂn phòng chính phủ
293 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
293 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
293 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
293 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
293 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
293 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng
293 -> HÀ NỘI – 2006 BỘ XÂy dựng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Số 13 Tháng 3/2008 Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai Vũ Quang Việt

tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương