LỊch sử ĐOÀn thanh niên cộng sản hồ chí minh



tải về 1.58 Mb.
trang6/13
Chuyển đổi dữ liệu17.07.2016
Kích1.58 Mb.
#1784
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13
Chương IV
TUỔI TRỂ QUẢNG TRỊ TÍCH CỰC
THỰC HIỆN 2 NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC:
CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(1954 - 1975)

 

Hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 20-7-1954, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới với đặc điểm lớn là đất nước chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Từ đó tỉnh Quảng Trị chia cắt ra hai khu vực. Khu vực bờ Nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, cùng với các tỉnh, thành phố ở phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời do đối phương kiểm soát. Cách mạng ở đây từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phòng trở thành không có chính quyền, không có quân đội; vùng giải phóng bàn giao cho quân đội Liên hiệp Pháp tiếp quản, sau hai năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử; thống nhất nước nhà. Khu vực Vĩnh Linh và các tỉnh, thành phố ở phía Bắc vĩ tuyến 17 được hoàn toàn giải phóng trước vào thời kỳ khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lại đất nước sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ mà anh dũng với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, thôn xóm tiêu điều, xơ xác, ruộng đất nhiều nơi hoang hóa; đời sống nhân dân thiếu thốn mọi bề...



Tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước như hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam. Với đặc điểm ấy, tỉnh Quảng Trị lúc đó có thuận lợi hơn các tỉnh, thành phố ở miền Nam là nơi tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, có khu vực Vĩnh Linh - Quảng Bình là căn cứ địa hậu phương trực tiếp của Quảng Trị, song cũng gặp không ít tình hình gay go phức tạp: Với âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập một phòng tuyến ngay tại bờ Nam sông Bến Hải nhằm ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống khu vực Đông Nam châu á. Đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ, bàn đạp tiến công miền Bắc - tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa, hòng đè bẹp và đẩy lùi, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân và tuổi trẻ Việt Nam bắt đầu từ khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực và diễn ra qua năm giai đoạn... kéo dài gần 21 năm (1954 - 1975).
I- TUỔI TRẺ QUẢNG TRỊ VỚI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC TRONG NHỮNG NĂM 1954-1964

1. Đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, xây dựng lực lượng cách mạng tiến lên tấn công địch (1954-1964)

Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Quảng Trị và các đoàn thể cách mạng từ hoạt động công khai chuyển sang hoạt động bí mật, từ đấu tranh vũ trang là chủ yếu chuyển qua đấu tranh chính trị đơn thuần. Hệ thống tổ chức của Đoàn Thanh niên Cứu quốc lúc này không còn tồn tại, ở cơ sở, đoàn viên, thanh niên chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Đảng, thông qua tổ Đảng hoặc đảng viên, xây dựng, phát triển Đoàn theo hệ thống "rễ chuỗi"; một đảng viên chỉ đạo từ 3 đến 5 đoàn viên, mỗi đoàn viên nắm từ 3 đến 5 cốt cán, một cốt cán nắm từ 3 đến 5 cảm tình, một cảm tình quan hệ với 3 đến 5 thanh niên theo đơn tuyến, người nọ không biết người kia...


Khi bọn Mỹ - Diệm chủ trương đoàn ngũ hóa thanh, thiếu niên, áp đặt thanh, thiếu niên vào các tổ chức do chúng lập ra như: "Đảng cần lao nhân vị", "Phong trào cách mạng quốc gia", "Thanh niên cộng hòa ", "Thanh nữ cộng hòa", "Thiếu niên cộng hòa", "Hướng đạo sinh", "Thanh niên liên tôn chống cộng", ta cũng đưa đoàn viên, thanh niên tham gia các tổ chức này, gây cơ sở trong lòng địch, hạn chế việc thi hành các chính sách áp bức, bóc lột của địch.


Trong thời gian cuối năm 1954 đầu năm 1955, do tác động của trận Điện Biên Phủ lịch sử, tinh thần binh lính cũng như nhân viên ngụy quyền của thực dân Pháp đang bàng hoàng dao động, bộ máy thống trị chưa ổn định, mâu thuẫn giữa bọn tay sai Mỹ với các lực lượng thân Pháp đang diễn ra gay gắt. Tranh thủ cơ hội đó, được sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời của cấp ủy, các đảng viên, đoàn viên, thanh niên tập trung tuyên truyền thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Bác Hồ, tranh thủ lôi kéo những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm đứng về phía nhân dân, cùng nhân dân chống khủng bố trả thù những người kháng chiến cũ, chống chủ trương xáo cấy ruộng đất, chống dời chợ do nhân dân ta xây dựng trong kháng chiến chống Pháp, đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục hậu quả chiến tranh như tu sửa nhà cửa, giếng nước, đường sá, phục hồi các trường học, duy trì các lớp bình dân học vụ và phong trào ca hát, đấu tranh đòi bọn cầm quyền phải giải quyết nạn đói ở bờ Nam sông Bến Hải....
ở miền núi Hướng Hóa, sau vụ bọn Đại Việt thảm sát 94 đồng bào yêu nước (trong đó có 60 đoàn viên, thanh thiếu nhi) ở 2 thôn Tân Lập, Tam Hiệp (xã Hướng Điền), hàng ngàn đoàn viên, thanh niên các xã: Mều, A Túc, A Vao, A Xing, Kỳ Nơi... trang bị giáo, mác, tên nỏ dưới sự lãnh đạo của Đảng kéo về cùng tuổi trẻ các xã A Ngo, Tà Rụt giáp mặt đấu tranh với bọn Đại Việt phản động, vạch mặt bọn Đại Việt đã gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở Hướng Điền...

Sức mạnh đấu tranh của đồng bào các dân tộc Vân Kiều, Pacô không những ngăn chặn được âm mưu của bọn Đại Việt định tiếp tục giết hại đồng bào Trại Cá mà còn đẩy bọn chúng vào thế bị bao vây, cô lập, thiếu lương thực, thực phẩm, nội bộ mâu thuẫn, chém giết lẫn nhau, một số tên lẻn về hàng Diệm, một số khác theo Trần Bình chạy vào miền núi Thừa Thiên và tan rã...


Giữa năm 1955, phong trào đấu tranh chống địch bắt "Lập thẻ kiểm tra" nổ ra liên tiếp. Cùng lúc đó, trong quần chúng tuổi trẻ xuất hiện "Phong trào dân canh, chống cướp", "Phong trào dây, dùi" để chống bọn cảnh sát mật vụ của Diệm, khi bọn này đi rình bắt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên. Chẳng hạn như ở Triệu Phong, Gio Linh, khi phát hiện có bọn công an, dân vụ đi lùng sục, đoàn viên, thanh niên ở các phong trào nói trên vừa đánh mõ, gõ thùng thiếc, vừa hô "cướp, cướp" để báo cho cán bộ cách mạng đang ở trong xóm biết tìm cách lẩn tránh.
Trong cuộc đấu tranh chống thủ đoạn "Trưng cầu dân ý" của Mỹ - Diệm (ngày 23-10-1955) nhằm phế truất Bảo Đại, đưa Diệm lên ngôi Tổng thống và trong cuộc đấu tranh chống cuộc bầu cử Quốc hội bù nhìn (ngày 4-3-1956), các tầng lớp thanh niên ở Quảng Trị đều tẩy chay các cuộc bỏ phiếu bằng nhiều hình thức phong phú như không ghi tên vào danh sách cử tri, lẩn tránh không đi bỏ phiếu, xé gỡ truyền đơn, áp phích của địch, phá các buổi "học tập", khi buộc phải đến phòng bỏ phiếu thì họ xô bàn, đẩy ghế, cãi lộn với công an, mật thám hoặc nhét truyền đơn chống Diệm vào hòm phiếu, lợi dụng lúc có đông người tụ họp nói rõ âm mưu của Mỹ - Diệm tổ chức bầu cử riêng lẻ là để phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá Tổng tuyển cử cả nước vào ngày 20-7-1956.
ảnh hưởng của các phong trào đấu tranh nói trên rất lớn, nâng cao uy tín của cách mạng, làm giảm uy thế của chế độ ngụy.

Mỹ - Diệm đã cho tay chân theo dõi những người có thái độ, phản đối cuộc Trưng cầu dân ý và cuộc bầu cử quốc hội của chúng... Ta thiếu kế hoạch đề phòng nên để bộc lộ lực lượng, về sau Mỹ - Diệm đã thẳng tay đàn áp, tiến hành các đợt Tố cộng, diệt cộng khiến lực lượng của ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất.

Bằng quốc sách tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm chẳng những triệt phá cơ sở cách mạng tàn sát những người yêu nước, khủng bố những người kháng chiến cũ mà còn gây không khí sợ sệt, nghi kỵ, chia rẽ trong hàng ngũ nhân dân, trong các gia đình, nghĩa là làm cho vợ nghi chồng, cha nghi con, nhà này nghi nhà khác, tố cáo lẫn nhau...

Chiến dịch Tố cộng, diệt cộng của Mỹ - Diệm kéo dài, quyết liệt nhất là trong các năm 1956, 1957. ở Quảng Trị, hầu như không có ngày nào không xảy ra những vụ bắn, giết cán bộ cách mạng, những người yêu nước. Phong trào cách mạng Quảng Trị giảm sút, suy yếu. Phần lớn cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên ở xã, phường bị bắt, bị tù, hy sinh. Một số ít trụ vững, hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp, một số khác còn lại nằm im, chờ thời, không dám hoạt động mặc dù trong lòng rất yêu nước, yêu Đảng. Cá biệt có người không chịu nổi sự tra tấn, khủng bố của Mỹ - Diệm đã đầu hàng, đầu thú, khai báo, phản bội lại Đảng, can tâm làm tay sai cho địch.


Tuy nhiên, cùng với những hiện tượng tiêu cực không sao tránh khỏi trong giai đoạn cách mạng "trải qua thoái trào, nguy ngập..."(1) nhiều cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên trong tỉnh không may sa vào tay giặc, bị tra tấn, giam cầm ở Lao Xá (Quảng Trị), bị đày ra Côn Đảo... vẫn một lòng một dạ trung thành với Đảng, với dân tộc, giữ vững ý chí kiên cường bất khuất đến hơi thở cuối cùng, tiêu biểu là các đảng viên với tuổi đời còn trẻ như Nguyễn Chương (Hải Lăng), Mai Chiếm Cương, Nguyễn Bão (Cam Lộ - Đông Hà)... Các đồng chí này bị địch tra tấn dã man hàng chục ngày, nhưng trước sau như một, vẫn không khai báo, không xé cờ Tổ quốc, không xé ảnh Bác Hồ... Cuối năm 1954, ở huyện Gio Linh, khi kẻ địch xả súng bắn vào đoàn biểu tình của nhân dân các xã đấu tranh chống địch dồn dân lập vành đai trắng ở bờ Nam sông Bến Hải, đòi chúng phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ, người cầm cờ đi đầu hy sinh, em Trương Thị Con đã lập tức xông đến giương cao lá cờ Tổ quốc, dẫn đầu đoàn biểu tình tiến lên mặc cho đạn địch đang bắn thẳng về phía em(1).

Nhìn chung, trong các đợt Tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm đã huy động mọi lực lượng quân sự, mật vụ, hành chính, tình báo, thông tin, tuyên truyền, tâm lý, kinh tế, thực hành cuộc khủng bố, đàn áp vô cùng tàn bạo các lực lượng cách mạng và toàn thể nhân dân tỉnh Quảng Trị. Hàng trăm tấm gương bất khuất, hy sinh oanh liệt của đảng viên, đoàn viên và thanh thiếu nhi đã xuất hiện... Trong những giờ phút thử thách ác liệt nhất, cán bộ, nhân dân và tuổi trẻ Quảng Trị vẫn tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng và Bác Hồ...



Tháng 10-1957, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Trị được tổ chức. Sau khi tiếp thu bản Đề cương cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ soạn thảo, Hội nghị Tỉnh ủy nhận rõ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát-xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, ngoài con đường đó không có con đường nào khác"(1).
Được ánh sáng Đề cương soi sáng, sau khi liên hệ kiểm điểm tình hình từ cuối 1954 đến giữa năm 1957 và để phục hồi phong trào, tiếp tục đưa phong trào cách mạng ở địa phương tiến lên, Hội nghị Tỉnh ủy đề ra các nhiệm vụ chủ yếu:

  • Kiên trì giáo dục, phát động và tập hợp quần chúng, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng đời sống nêu cao tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau trong khó khăn hoạn nạn, tăng cường đoàn kết cùng nhau đấu tranh chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của Mỹ - Diệm.

  • Từ phong trào đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ, tiến lên xây dựng về tổ chức cách mạng. Đối tượng phát triển Đảng nhằm vào người mà gia đình và bản thân từng bị địch đàn áp. Chú trọng đối tượng nam nữ thanh niên. Đi đôi với công tác xây dựng Đảng, phải xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam...
    - Xây dựng căn cứ địa miền núi(2).

  • Nhờ kịp thời chuyển hướng nhiệm vụ cách mạng, thay đổi phương thức hoạt động, lực lượng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên bất chấp khó khăn, gian khổ, hy sinh, nêu cao quyết tâm bám dân, bám đất, bám cơ sở hoạt động. Kết quả sau một năm thực hiện Đề cương cách mạng miền Nam và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy (10-1957), một số đoàn viên, thanh niên cốt cán được kết nạp vào Đảng, nhiều thanh niên được kết nạp vào Đoàn. Cuối năm 1958, toàn tỉnh Quảng Trị đã phục hồi và xây dựng được 74 chi bộ Đảng, có 369 đảng viên (đa số đang ở tuổi thanh niên), 67 chi đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, có 320 đoàn viên, phục hồi, xây dựng được 1329 cơ sở (đại đa số với tuổi đời còn rất trẻ). Trong đó có một số thôn ở Gio Linh, Triệu Phong đã xây dựng được nhiều cơ sở nên ta đã nắm được từ 1-2 đến 3-4 số thanh niên và các tầng lớp ở trong thôn. Tại Hướng Hóa, trên cơ sở quần chúng các dân tộc đã được giác ngộ cách mạng, đoàn viên, thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã đẩy mạnh phong trào sản xuất, trồng sắn, trỉa lúa ba trăng, làm chòi bí mật cất giấu lương thực, giống má, nông cụ; vận động số đồng bào bị địch tập trung vào các ấp chiến lược, đấu tranh đòi trở về bản cũ làm ăn sinh sống. ở vùng tranh chấp, lợi dụng chủ trương của địch về "Lập ấp rào bản", đoàn viên, thanh niên cùng các tầng lớp khác ở miền núi tổ chức làm chông, gài bẫy quanh bản, quanh rẫy. Việc phát triển chông bẫy quanh rẫy... đã có tác dụng hạn chế được sự lùng sục của địch, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên đi lại hoạt động. Hai tuyến đường dây mang tên Thống Nhất, Lam Sơn của Trung ương, băng qua địa bàn Hướng Hóa, chủ yếu do hai đơn vị Quảng Trị, khu vực Vĩnh Linh phối hợp xây dựng từ các năm 1956, 1957, đến nay tiếp tục duy trì, phát triển. Để soi các tuyến đường dọc, ngang... lực lượng đoàn viên, thanh niên Hướng Hóa được huy động cùng với cán bộ ngành giao thông đã tìm cách xuyên rừng, mở đường. Khi địch phong tỏa gắt gao, đường của ta phải xuyên qua rừng cây rậm rạp, trong lau lách đầy rẫy sên vách, trên đá tai mèo sắc nhọn, đường bằng thang dây, có những đoạn đường bắt buộc mọi người qua lại phải đi không dấu, nói không nghe tiếng(1). Việc bảo vệ đường dây, người cán bộ giao thông có khi phải hy sinh cả tính mạng của mình, điển hình như anh Lâm Pàng, một đoàn viên, thanh niên dân tộc ít người. Trên đường làm nhiệm vụ bảo vệ đường dây, bị địch bắt, bị tra tấn, Lâm Pàng đã bị địch bỏ lên giàn bằng que sắt, rồi đốt nóng cho đến lúc thịt da anh chảy ra mỡ, anh vẫn nghiến răng chịu đựng, một lòng kiên quyết không khai báo làm lộ lực lượng đường dây, làm lộ các trạm giao thông liên lạc đóng giữa lòng dân(2). Cùng thời gian này, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hướng Hóa đã rút hơn 300 thiếu niên, nhi đồng con em đồng bào các dân tộc Vân Kiều, Pacô đưa ra miền Bắc học văn hóa, đào tạo lực lượng cán bộ tại chỗ của miền núi. Trong đó có nhiều em sau này trở thành cán bộ chính trị, cán bộ chuyên môn như Hồ Pờn (Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Hướng Hóa), Kô Xanh Pan (bác sĩ), Hồ Thị Mai (dược sĩ cao cấp), Hồ Cốp (kỹ sư lâm nghiệp)...


* * *

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của những năm qua và nghiên cứu kiến nghị khẩn thiết của nhiều cán bộ, đảng viên... tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, phương pháp cách mạng miền Nam là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang...

Nghị quyết 15 đến với quân dân và đoàn viên, thanh niên miền Nam nói chung, với Quảng Trị nói riêng như nắng hạn gặp mưa rào. Tháng 5-1959, Tỉnh ủy Quảng Trị họp, đề ra hai chủ trương lớn: Xây dựng căn cứ miền núi và thành lập lực lượng vũ trang cách mạng.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 15 và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy ((5-1959), Tỉnh ủy đã thành lập các đơn vị vũ trang của tỉnh, đồng thời tăng cường một số cán bộ từ miền Bắc vào và rút một số đoàn viên, thanh niên tại chỗ bổ sung cho các huyện, trước hết là Hướng Hóa. Đảng bộ Hướng Hóa lấy lực lượng đoàn viên, thanh niên làm nòng cốt, phát động đồng bào các dân tộc đẩy mạnh sản xuất, làm chòi bí mật cất giấu của cải, lương thực, tổ chức đoàn viên, thanh niên vào các tổ bí mật, mở rộng bố phòng chông bẫy. Tháng 4-1960, đội võ trang tuyên truyền tập trung của huyện Hướng Hóa được thành lập, gồm 32 cán bộ, chiến sĩ, (hầu hết là đảng viên trẻ và đoàn viên, thanh niên), với nhiệm vụ: Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Nhiệm vụ cụ thể do đội vạch ra là: Thường trực chiến đấu, tổ chức bao vây, uy hiếp đồn bốt địch, bố trí lực lượng bắn tỉa từng tên địch, ngăn chặn các cuộc càn của địch vào các khu căn cứ ở miền núi. Đồng thời chuẩn bị lực lượng vũ trang, khi có chủ trương của Tỉnh ủy sẽ tiến về vùng giáp ranh hỗ trợ đồng bào kinh phá ấp chiến lược của Mỹ - Diệm. Đội tổ chức sản xuất tự túc lương thực 100% và chủ trương bắt buộc mọi chiến sĩ trong đội phải thường xuyên học tập văn hóa, chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, kỹ thuật tác chiến... ở đồng bằng, nổi lên có cuộc đấu tranh của đoàn viên, thanh niên và các tầng lớp khác ở Gio Linh đòi địch phải phá các đoạn đường quân sự đắp ngang qua sông Kênh Hòm, cứu các cánh đồng lúa vùng đông Gio Linh khỏi bị ngập úng... Phối hợp với phong trào đấu tranh ở Gio Linh, đoàn viên, thanh niên và các tầng lớp khác thuộc vùng đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ đấu tranh đòi được lên rừng cắt tranh, đốn củi, kiếm sắn khoai giải quyết nạn thiếu đói; đòi bọn ngụy quyền cơ sở phải giảm bớt các khoản bắt dân đóng góp; đoàn viên, thanh niên học sinh cùng các tầng lớp khác nhất là ở thị xã Quảng Trị đấu tranh chống trò hề "Bầu cử Quốc hội khóa II" của Ngô Đình Diệm...

Ngày 13-4-1960, Tỉnh ủy mở Hội nghị. Về đánh giá phong trào, Tỉnh ủy nêu rõ: Trong năm qua, tình hình nhìn chung phát triển ngày càng bất lợi cho Mỹ - Diệm. Nghị quyết 15 của Trung ương như một luồng gió mới thổi bùng lên ở miền Nam một phong trào cách mạng sôi nổi. Với sức mạnh của chế độ mới, với bước trưởng thành ban đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xác định trách nhiệm là hậu phương lớn của cả nước, quân dân và đoàn viên, thanh niên miền Bắc đã đáp ứng tích cực những nhu cầu của cách mạng miền Nam.


Hội nghị Tỉnh ủy nhận định: "Rồi đây tình hình ở miền Nam càng chuyển biến có lợi cho ta thì Mỹ - Diệm càng tập trung lực lượng đối phó. Chúng quyết giữ Quảng Trị - vị trí đầu cầu của miền Nam. Việc phục hồi, xây dựng thực lực cách mạng ở nông thôn cũng như đô thị của tỉnh ta sẽ gặp nhiều khó khăn, gian khổ ác liệt hơn trước".

Về nội bộ quần chúng, Hội nghị Tỉnh ủy đánh giá: "Phong trào bước đầu được hồi phục. Quần chúng nhân dân, nhất là quần chúng cơ bản căm thù Mỹ - Diệm, thấy rõ dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ và bản chất cực kỳ phản động của bè lũ Ngô Đình Diệm, bước đầu thấy được đường lối của Đảng Lao động Việt Nam... Nội bộ nhân dân tin nhau hơn, không còn tình trạng nghi ngờ, chia rẽ như trong thời gian Mỹ - Diệm mở các chiến dịch Tố cộng, Diệt cộng (1956 - 1959)...

Vận dụng Nghị quyết Trung ương 15 vào đặc điểm địa phương, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Trị đề ra nhiệm vụ trước mắt: "Thiết thực củng cố cơ sở vững chắc làm chỗ đứng... xây dựng lại từng người, từng cơ sở quần chúng, đặc biệt là tập trung xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam ở từng làng, từng xã... Phải đào tạo một số quần chúng lâu nay đã có liên hệ với cách mạng thành cơ sở chính trị nòng cốt. Mỗi nòng cốt, đoàn viên, thanh niên lao động phải tích cực bắt rễ, xâu chuỗi xây dựng lực lượng cách mạng bằng con đường thông qua quan hệ bà con, bạn bè, nghề nghiệp, lợi dụng các hình thức hợp pháp, nhóm biến tướng như tổ đổi công, vần công, tổ sản xuất, đánh cá, xẻ gỗ, hội thể thao .. tập hợp quần chúng, giao cho đoàn viên, thanh niên lao động chịu trách nhiệm giáo dục thiếu niên, nhi đồng; chống thủ đoạn đầu độc, gieo rắc văn hóa nô dịch, đồi trụy của Mỹ - ngụy đối với thanh thiếu niên... Những nơi đã có cơ sở khá, đi đôi với việc củng cố, lãnh đạo quần chúng đấu tranh phải đặt vấn đề vận động những người trong ngụy quân, ngụy quyền..."(1) Hai tháng sau (6-1960), Tỉnh ủy họp ở Ba Lê - Dốc Miếu (Hướng Hóa) quyết định thành lập đại đội 55 với chức năng là bộ đội địa phương tỉnh. Cùng với cán bộ Chính trị, số cán bộ quân sự này hoạt động ở miền Tây tỉnh, làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa".(2)

Được sự cổ vũ của cao trào "Đồng khởi" ở đồng bằng Nam Bộ và miền núi khu 5, nắm được thế mạnh của cách mạng và thế yếu của địch ở miền núi, Tỉnh ủy Quảng Trị chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang tự vệ, nắm thời cơ phát động "Đồng khởi" miền núi Hướng Hóa.

Thực hiện chủ trương đó, phong trào đấu tranh của nhân dân và đoàn viên, thanh niên các dân tộc Vân Kiều, Pacô đã diễn ra mạnh mẽ, từ hình thức công khai hợp pháp tiến lên đấu tranh bất hợp pháp với địch bằng hình thức "Chạy làng" tức là một hình thức đấu tranh của đồng bào thoát khỏi các nơi gần đồn bốt, vị trí địch, để khỏi bị địch khống chế, kìm kẹp, bóc lột, họ kéo nhau đến ở một nơi khác xa địch. Cuộc "Nổi dậy" này đã được những người trong ngụy quyền cơ sở đồng tình, hưởng ứng, bỏ việc, theo dân, cùng với dân làm chông, gài bẫy. Hệ thống hầm chông, các loại bẫy từ đó trở đi được bố trí dày đặc ở khe suối, nương rẫy. Thanh niên và các tầng lớp khác ở đây đã dùng vũ khí thô sơ, ngăn chặn được các toán địch lùng sục lẻ tẻ...

Càng ngày càng bị phong trào du kích chiến tranh của quân dân và thanh niên Nam Hướng Hóa uy hiếp, địch buộc phải rút bỏ các đồn Xà Muồi, Ly Tông, Sa Trần... Các cuộc hành quân càn quét của địch hòng chiếm lại các vùng đã bị mất đều bị quân dân và thanh niên chặn đánh.

Kết quả đợt "Đồng khởi" Nam Hướng Hóa vào cuối năm 1960, một vùng rộng lớn được giải phóng gồm 7 xã của huyện Xà Muồi, 5 xã của Nam Hướng Hóa, 5 xã của quận Ba Lòng, một số thôn của xã Hải Phúc, hình thành vùng căn cứ địa liên hoàn, có ý nghĩa chiến lược không những đối với sự phát triển phong trào cách mạng trong tỉnh mà còn có ý nghĩa lớn lao trong việc mở rộng, bảo đảm hành lang vận chuyển tiếp tế sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam trong thời gian tới.

  

Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát-xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ bị động thay đổi chiến lược, chuyển sang dùng "Chiến tranh đặc biệt" để đối phó với cách mạng miền Nam. Đặc điểm của "Chiến tranh đặc biệt" là dùng quân đội ngụy tay sai làm lực lượng chủ yếu tiến hành chiến tranh. Biện pháp của chiến lược là hành quân càn quét và gom dân lập ấp chiến lược trên quy mô lớn theo kế hoạch Stalây Taylo, với chiến thuật thâm độc là "Tát nước bắt cá", tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Để thực hiện việc gom dân, quy khu, quy ấp, Mỹ - ngụy đã dùng chiến thuật bắn pháo, ném bom, rải chất độc hóa học vào các vùng chúng không kiểm soát được, làm khô trụi lá cây, phá ruộng vườn, tiêu diệt sự sống trên mặt đất để buộc nhân dân phải vào ấp chiến lược. Mỹ - Diệm coi việc lập ấp chiến lược là "Quốc sách" và là "xương sống" của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt".

Nhưng mưu mô, thủ đoạn của Mỹ - Diệm dù có thâm độc tàn bạo đến mấy vẫn không khuất phục được nhân dân ta. Phong trào cách mạng miền Nam vẫn giữ vững và phát triển. Đến cuối năm 1960, một nửa trong tổng số xã toàn miền Nam đã được giải phóng - một cao trào cách mạng thực sự xuất hiện....

Sự phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam đòi hỏi phải có một hình thức công khai tập hợp lực lượng cách mạng. Đáp ứng yêu cầu lịch sử đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960), ngày 20-12-1960: "Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập". Mặt trận đề ra tuyên ngôn và chương trình hành động 10 điểm với nội dung: "Phải hòa bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình thống nhất Tổ quốc!"(1) lời kêu gọi của Mặt trận có đoạn viết: "Tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy xiết chặt hàng ngũ để chiến

đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm"(2). Mặt trận quyết định chọn cờ nửa xanh nửa đỏ giữa có sao vàng năm cánh và bài "Giải phóng miền Nam" của Huỳnh Minh Siêng làm cờ và bài ca chính thức của Mặt trận. Mặt trận do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình và lòng mong đợi của nhân dân toàn miền Nam. Sau ngày thành lập Mặt trận, trên khắp các địa phương ở Quảng Trị, trong vùng giải phóng miền núi cũng như vùng còn bị địch kiểm soát, thanh niên và các tầng lớp khác đều tỏ thái độ nhiệt liệt chào mừng Mặt trận. Đầu năm 1961, ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị được thành lập. Mặt trận đã thực sự làm nhiệm vụ quản lý chính quyền với hệ thống từ xã ấp, buôn làng lên huyện, tỉnh...(1).

Ngày 9-1-1961, Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng thành lập, bao gồm Đoàn Thanh niên Lao động, Hội Liên hiệp Sinh viên giải phóng, Hội học sinh giải phóng. Trong đó Đoàn Thanh niên Lao động làm nòng cốt, lãnh đạo thanh niên trở thành lực lượng xung kích trong các cuộc đấu tranh chống Mỹ - ngụy.

Ngày 05-02-1961, Ngô Đình Diệm và Mỹ phối hợp mở cuộc càn lớn vào bắc Hướng Hóa, nhằm tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo của tỉnh, của huyện, ngăn chặn hành lang Bắc - Nam, dồn dân vào ấp chiến lược, bắt thanh niên đi lính, phá hoại lúa màu, kho tàng của ta.
Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, thanh niên và các tầng lớp khác thực hiện "Vườn không nhà trống" bằng cách đưa người già, phụ nữ, trẻ em tạm lánh qua bên kia biên giới Việt - Lào. Toàn bộ nam, nữ đoàn viên, thanh niên bám trụ địa bàn, cùng với lực lượng vũ trang cách mạng gài chông, đơm bẫy dùng cung nỏ kết hợp với một số vũ khí hiện đại phục kích đánh địch. Địch bị đánh bất ngờ phải bị động đối phó, bỏ dở trận càn.

Tháng 5-1961, một đội công tác của công an khu vực Vĩnh Linh cùng với trung đoàn 270 (khu vực Vĩnh Linh) đã phối hợp với quân dân và thanh niên 3 xã: Hướng Phùng, Hướng Việt, Hướng Lộc đấu tranh với địch bằng phương châm "Hai chân, ba mũi giáp công". Kết quả, ta đã diệt 60 tên địch, bắt sống và gọi hàng 125 tên, thu 65 súng các loại, vận động 260 thanh niên dân vệ mang súng về với cách mạng. Lực lượng chiếm đóng của địch ở Bắc đường 9 buộc phải co cụm vào một số căn cứ, vị trí. Sáu xã thuộc vùng Bắc Hướng Hóa được giải phóng.

Khu vực Nam - Bắc huyện Hướng Hóa được giải phóng, khu căn cứ địa của tỉnh được mở rộng, nối liền với vùng giải phóng miền núi Thừa Thiên, vùng giải phóng hạ Lào, đặc biệt thông với khu vực Vĩnh Linh - miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Con đường 559 - con đường được chính thức triển khai xây dựng ngày 19-05-1959, từ Khe Hó (Vĩnh Linh) chạy theo dãy Trường Sơn, ngang qua địa bàn Hướng Hóa - Quảng Trị đến tận phía Nam Việt Nam, từ chỗ chỉ là những đường mòn nhỏ hẹp dùng cho người đi bộ, gùi thồ, nay có điều kiện được mở rộng thành tuyến đường vận tải chiến lược mang tên Hồ Chí Minh.

Sau khi nghiên cứu Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (1-1961) "Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam", liên hệ tình hình địa phương, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quảng Trị lần thứ V (6-1961) nêu rõ: “Với âm mưu cố thủ Quảng Trị để làm vị trí chia cắt Bắc - Nam nước ta, càng ngày Mỹ - ngụy càng tăng cường lực lượng quân sự, mật thám, gián điệp đến đây càng đông; vừa dồn các đơn vị chính quy đến, vừa ráo riết củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang ở xã, phường, thôn, ấp, hòng biến lực lượng thanh niên thành công cụ chống lại cách mạng...” Đại hội nhấn mạnh: “Lực lượng đảng viên trẻ và Đoàn Thanh niên Lao động đã phát triển thêm nhiều so với năm 1958, nhưng trình độ chính trị, văn hóa còn thấp, lực lượng vũ trang cách mạng chưa được trang bị vũ khí đầy đủ nên chưa làm tốt nhiệm vụ hỗ trợ các cuộc đấu tranh chính trị, binh vận đã nổ ra...”

Trên cơ sở đánh giá đặc điểm tình hình địa phương, Đại hội Đảng bộ Quảng Trị đề ra phương hướng hoạt động là: Phát triển hướng tiến công từ rừng núi về nông thôn, đồng bằng, đánh phá ấp chiến lược, giành dân, giành quyền làm chủ, đưa phong trào cách mạng của địa phương tiến kịp phong trào khu 5 và toàn miền" . Về nhiệm vụ cụ thể, Đại hội quyết định: "Khẩn trương xây dựng và củng cố miền núi Hướng Hóa vững mạnh về mọi mặt, gấp rút xây dựng cơ sở ở nông thôn đồng bằng và đô thị. Hai nhiệm vụ đặt ra cho hai vùng (miền núi, đồng bằng) luôn luôn có mối quan hệ, hỗ trợ lẫn nhau một cách chặt chẽ, tạo thành phong trào cách mạng của toàn tỉnh. Công tác binh vận là nhiệm vụ quan trọng và được đặt ra một cách thường xuyên tại các đơn vị xã, phường thuộc vùng địch tạm chiếm".
Sau Đại hội tỉnh Đảng bộ, phong trào cách mạng phát triển mạnh, nhất là ở Hướng Hóa. Ngày 5-8-1961, đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh phục kích toán địch đang vận tải, tiếp tế cho đồn Trại Cá. Toán địch đã lọt vào trận địa phục kích của quân ta và chúng đã bị tiêu diệt, trong đó có tên đại đội trưởng đại đội bảo an, trưởng đồn Trại Cá, ta thu 5 súng, 1 máy phát điện 15 oát, một số đạn và lương thực, thực phẩm...

Đây là trận đầu của bộ đội địa phương tỉnh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thu thắng lợi, đã có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ quân dân và thanh niên các dân tộc Vân Kiều, Pacô hăng hái tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sản xuất, học tập văn hóa. Lực lượng vũ trang tổ chức bao vây, cô lập đồn bốt địch. Trước áp lực của quân dân và thanh niên ta, lực lượng địch đóng chốt ở làng Miệt, A Rồng, Nguồn Rào, La Ngà, Đá Bàn lần lượt rút chạy. Đầu tháng 10-1961, lực lượng đoàn viên, thanh niên du kích vùng Trại Cá chặn đánh một cánh quân của địch đi càn, diệt 20 tên, làm bị thương 24 tên, bọn địch buộc phải bỏ vị trí Trại Cá (ngày 15-10-1961).

ở đồng bằng, song song với việc đẩy mạnh chương trình "Bình định" dồn dân lập ấp chiến lược theo "Kế hoạch Stalay - Taylo", Ngô Đình Diệm ra lệnh "Tổng động binh", ráo riết bắt thanh niên đi lính. Chúng cho bọn tay chân ở cơ sở lập danh sách, bắt số thanh niên sinh trong các năm từ 1938 - 1943 phải vào lính. ở vùng Nam giới tuyến, chúng bắt binh lính phải đeo băng có chữ "sát cộng" vào ngực áo hoặc trên mũ. Chúng tuyên bố bắt toàn bộ thanh niên vào lính, bắt phụ nữ (chưa chồng) đi học cứu thương, chuẩn bị ra tiền tuyến, trong dịp kỷ niệm cái gọi là "Quốc khánh của Diệm" (26-10), Diệm đến La Vang tập hợp 200 thanh niên đưa vào lính. Tính riêng trong đợt từ tháng 7-1961 đến tháng 12-1961 Mỹ - Diệm đã bắt 1.070 thanh niên ở vùng đồng bằng Quảng Trị vào lính. Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của cán bộ, đảng viên đứng chân hoạt động ở các địa bàn, đông đảo thanh niên vùng lên chống bắt lính, đôn quân, đồng thời chọn một số thanh niên đưa vào các sắc lính của Mỹ - Diệm như dân vệ, bảo an... để kịp nắm tình hình, giúp ta có chủ trương đối phó, chuẩn bị binh biến khi có thời cơ đến.

Ngày 01-01-1962, trước yêu cầu mới của cách mạng, tiếng nói của Đảng phải được thường xuyên xâm nhập vào quần chúng, làm cho quần chúng không những chỉ biết có Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam mà còn thấy rằng cách mạng miền Nam do Đảng lãnh đạo, nhằm thực hiện lý tưởng của Đảng. Vì vậy, Đảng bộ miền Nam phải có danh nghĩa công khai để tham gia và lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo cách mạng miền Nam, làm thất bại sự xuyên tạc của Mỹ - Diệm.

Căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn cách mạng, “Trung ương Đảng đã quyết định Đảng bộ miền Nam lấy tên Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam và Đoàn Thanh niên Lao động - một tổ chức quần chúng cơ bản của Đảng"(1) ở miền Nam từ đây (01-01-1962) được mang tên là "Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam"(2). Việc Đảng bộ miền Nam lấy tên một Đảng riêng là một sách lược có ý nghĩa chính trị quan trọng, có tác dụng cổ vũ tinh thần cách mạng, thanh niên, học sinh, sinh viên. ở Quảng Trị, từ đầu năm 1962 trở đi "số thanh niên chống quân dịch, trở về tham gia giải phóng quân ngày càng đông"(1). Đối với nữ thanh niên, ngoài việc tham gia du kích, tham gia đội quân tóc dài, đấu tranh chính trị và binh vận có hiệu quả, còn là lực lượng trụ cột trong sản xuất nông nghiệp, dự trữ lương thực, thực phẩm để làm hậu cần tại chỗ cho cán bộ, bộ đội đứng chân hoạt động. ở Hướng Hóa ngoài việc đẩy mạnh sản xuất tự túc, đóng góp lương thực cho cách mạng, huyện Hướng Hóa đã huy động 500 thanh niên tham gia vào đội vận chuyển liên tỉnh Trị - Thiên và hàng ngàn đoàn viên, thanh niên khác thay nhau đi dân công hết đợt này đến đợt khác, mỗi đợt từ 15 ngày đến 1 tháng, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa từ trục hành lang chiến lược Bắc - Nam đưa về các kho của địa phương Quảng Trị...
Về công tác văn hóa, giáo dục, y tế, từ sau ngày miền núi cơ bản được giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hướng Hóa đã tập trung chỉ đạo, động viên đảng viên, đoàn viên, thanh niên vận động đồng bào các dân tộc tổ chức xây dựng nếp sống mới. "Đầu năm 1962, đội văn hóa miền Tây được thành lập gồm 30 thanh, thiếu niên có năng khiếu ca hát, múa. Các tiết mục biểu diễn ban đầu của đội gồm các bài ca cách mạng, các điệu múa sạp, múa trống, múa gậy,... đã thu hút đồng bào các dân tộc ở các bản làng đến xem, từ đó khôi phục lại phong trào văn hóa, văn nghệ ở miền núi sau mấy năm chiến tranh bị mai một. Một số lớp thanh toán nạn mù chữ được mở ở một số nơi có điều kiện (chủ yếu có đội ngũ giáo viên). Được sự giúp đỡ của tỉnh, huyện đã mở trường Văn hóa dân tộc, với đối tượng chiêu sinh là chi ủy viên, đảng viên trẻ, đoàn viên, thanh niên, cán bộ cốt cán của xã. Trạm y tế của đường dây Lam Sơn được chuyển giao cho tỉnh và được tỉnh chuyển thành bệnh viện Vân Đình. Bệnh viện Vân Đình với nhiệm vụ: Vừa điều trị cho cán bộ, đồng bào, vừa mở lớp đào tạo y tá, hộ sinh cung cấp cho các cơ quan đơn vị bộ đội, các bệnh xá: Tà Rụt, Tam Thanh, Trại Cá... Từ bác sĩ, y sĩ đến y tá, hộ lý đều ở lứa tuổi thanh niên nên rất hăng hái với công việc được giao. Họ đã làm nòng cốt trong việc xây dựng phát động phong trào vệ sinh, phòng bệnh ở miền núi, vận động đồng bào dân tộc bỏ dần lối sống chữa bệnh bằng thầy lang ..

Cuối năm 1962, Thường vụ Tỉnh ủy họp. Sau khi quán triệt Nghị quyết của Trung ương cục miền Nam, Hội nghị Thường vụ chủ trương trước mắt tập trung thực hiện các nhiệm vụ lớn: Tích cực phá ấp chiến lược ở đồng bằng; ra sức xây dựng căn cứ địa miền núi; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng cả ba thứ quân; củng cố, xây dựng, phát triển Đảng và Đoàn.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy, đoàn viên, thanh niên ở các cơ sở thuộc vùng đồng bằng tham gia các đội vũ trang tuyên truyền, rải truyền đơn của Mặt trận tỉnh, phá chòi thông tin của địch, xé ảnh, cờ của Diệm, đi đầu trong các vụ diệt ác, phá kìm, phá ấp chiến lược ở Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh... ở quận Trung Lương, trước áp lực hoạt động của quân dân và thanh niên, tất cả 19 thôn ở đây, đều không còn chính quyền tay sai của Mỹ - Diệm vì bọn chúng lo sợ, tạm lánh đi nơi khác. ở Triệu Phong, mỗi tuần cứ đến ngày chủ nhật, thanh niên học sinh ở các thôn Linh Yên, Long Quang, Vân Hòa... tìm đánh bọn cường hào, ác ôn tay sai của Mỹ - Diệm...

Phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị cùng với phong trào đấu tranh ở nông thôn và những mũi tấn công liên tiếp của các lực lượng vũ trang cách mạng ở Nam Bộ, Tây Nguyên, miền Tây Trị Thiên... đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chính quyền Diệm - Nhu, thúc đẩy mâu thuẫn trong nội bộ ngụy quyền Sài Gòn lên tới đỉnh điểm. Các tướng lĩnh chóp bu trong quân đội ngụy bắt đầu vận động, lôi kéo các phần tử không ăn cánh với Diệm - Nhu lập ra "Hội đồng quân nhân cách mạng", bàn mưu tính kế lật đổ tập đoàn thống trị Diệm - Nhu. Chính quyền Ngô Đình Diệm đứng trước nguy cơ của những cuộc đảo chính, đã toan tính và chuẩn bị làm một cuộc phản đảo chính để duy trì chế độ độc tài gia đình trị. Đế quốc Mỹ đã nhiều lần ép Ngô Đình Diệm làm cải tổ chính quyền, dàn xếp các phe phái, song Ngô Đình Diệm không chịu. Diệm một mặt vẫn duy trì chế độ độc tài; mặt khác tăng cường các cuộc đàn áp làm cho tình hình càng căng thẳng rối ren. Trước tình hình đó, Oasinhtơn và tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn bí mật lựa chọn phương án để "thay ngựa giữa dòng".

Ngày 01-01-1963, Mỹ ủng hộ nhóm tướng lĩnh do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính, bắn chết anh em Diệm - Nhu, lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. "Cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu kéo theo sự sụp đổ của nền "Đệ nhất cộng hòa " với học thuyết "Cần lao nhân vị " do chúng đẻ ra. Lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ đã từ bỏ một hình thức chính quyền thực dân mới điển hình do chúng xây dựng. Và trái với ý muốn của Mỹ, từ cuối năm 1963, ngụy quyền và ngụy quân ở miền Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng chính trị triền miên..."(1).

Ngay sau khi biết tin chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị bọn đảo chính lật đổ, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị họp, nhận định: "Chủ trương của bọn đảo chính, tay sai mới của Mỹ về cơ bản không khác gì chủ trương của Ngô Đình Diệm trước đây. Bọn tay sai mới này cũng sẽ đấu đá lẫn nhau, uy thế của chính quyền Sài Gòn sẽ sa sút, tranh thủ thời cơ đó, ta sẽ phát động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, đẩy mạnh xây dựng các khu căn cứ cách mạng, khẩn trương xây dựng thực lực, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh tiến lên một bước mới”(2). Thực hiện chủ trương của Thường vụ Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang tỉnh được bố trí về các địa bàn thuộc vùng đồng bằng hoạt động, hỗ trợ phong trào phá ấp chiến lược.


Với lòng căm thù cao độ chế độ độc tài Diệm - Nhu, bị kìm kẹp trong các ấp chiến lược - trại tập trung trá hình, khi có thời cơ thuận lợi, tuổi trẻ cùng các tầng lớp khác dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam, tuổi trẻ khắp nơi vùng lên phá ấp chiến lược bằng mọi hình thức. ở Hải Lăng, lợi dụng lúc bọn địch ở cơ sở đang hoang mang, ngày 03-11-1963, được sự hỗ trợ của một trung đội thuộc C55, đơn vị H99 do Nguyễn Xuân Lâm chỉ huy tiến về phá ấp chiến lược Trường Thọ giữa ban ngày, tiếp đến phá ấp chiến lược Phú Long, đánh trụ sở xã Hải Phú thu thắng lợi. ở Gio Linh, lực lượng vũ trang huyện thọc sâu diệt cụm công an phòng nhì gồm 11 tên ở xã Gio Hải.

Ngoài các hình thức đấu tranh nói trên, thanh niên cùng các tầng lớp nhân dân ở các xã Cam Thanh, Cam Giang... (Cam Lộ) lợi dụng chủ trương "chống tham nhũng", "thanh trừng nội bộ " của bọn đảo chính để loại một số tên ác ôn, tay sai đắc lực của Mỹ - ngụy ra khỏi bộ máy thống trị ở cơ sở, đưa một số người có xu hướng tiến bộ vào thay thế...


Phối hợp với mũi đấu tranh chính trị, được lực lượng vũ trang của tỉnh hỗ trợ, đội công tác ở các xã tích cực diệt ác, trừ gian, phá ấp chiến lược. Tính riêng trong 2 tháng 11 và 12-1963, vùng đồng bằng của tỉnh đã phá được 50 ấp chiến lược.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa mặt trận đấu tranh vũ trang, hỗ trợ đắc lực cho phong trào phá ấp chiến lược của Mỹ - ngụy, Trung ương cục miền Nam quyết định phát động trên toàn miền Nam phong trào "Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công". Hưởng ứng phong trào đó, đêm 8 rạng ngày 09-02-1964, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Quảng Trị, được sự giúp đỡ của một số thanh niên ở cơ sở như Phan Thanh Chung (Thiêm) đã tiêu diệt quận lỵ Ba Lòng chỉ trong 25 phút(1).

Tin chiến thắng Ba Lòng lan truyền nhanh chóng khắp mọi nơi, quân dân và thanh niên Quảng Trị vô cùng phấn khởi, còn bọn ngụy quân, ngụy quyền thì hoang mang, dao động... Để khuếch trương ảnh hưởng chiến thắng, ủy ban Mặt trận tỉnh đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Trấm. Cuộc mít tinh thu hút gần 3.000 thanh niên và các tầng lớp khác ở Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị đến dự mừng quận lỵ Ba Lòng được giải phóng. Tại cuộc mít tinh, vị đại diện ủy ban Mặt trận tỉnh đã tranh thủ truyền đạt đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng, chương trình hành động của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Những ngày giáp Tết Quý Mão, đâu đâu nam nữ thanh niên, các cụ, các mẹ cũng sôi nổi bàn tán về chiến thắng của ta ở Ba Lòng. Nhiều người ở đồng bằng, đô thị, có cả một số người ở thành phố Huế đã bằng mọi cách lên Ba Lòng tìm người thân hoặc gửi thư nhắn tin cho chồng, con tập kết nhờ Mặt trận chuyển hộ.(2)

Để đối phó với tình hình đang chuyển biến bất lợi, Mỹ - ngụy đã ra lệnh báo động, rải quân về đóng chốt bảo vệ thị xã tỉnh lỵ, bảo vệ các trục đường giao thông huyết mạch, tăng cường kiểm soát, ngăn chặn việc đi lại của nhân dân, nhất là trong ngày mừng xuân, đón Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc.

Được cán bộ, đoàn viên, thanh niên, các chị, các mẹ ở cơ sở tuyên truyền giải thích chủ trương ngừng bắn trong Tết của Mặt trận, các đại đội ngụy quân đi làm nhiệm vụ đã được các sĩ quan chỉ huy của họ cho tự do thoải mái... Không khí đón Tết, vui xuân khác với các Tết của các năm trước đó, thanh niên, thiếu niên cùng với các tầng lớp khác ở cơ sở, ngay cả các cơ sở ven thị xã, được đón một số cán bộ, chiến sĩ giải phóng về chung vui hoan hỉ. Đêm 30 Tết, bà con nhân dân, nhất là lớp trẻ tập trung tại các gia đình có radio đón giao thừa, nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ.

ở Hướng Hóa, sau các cuộc Hội nghị liên hoan chiến sĩ sản xuất và giết giặc (2-1963), phong trào cách mạng phát triển mạnh, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên sát dân, có kế hoạch hướng dẫn sản xuất và bố trí cách ăn ở có vệ sinh và phù hợp với thời chiến. Đổi công tương trợ do đảng viên, đoàn viên làm "đầu tàu" đã trở thành phong trào quần chúng. Các thôn bản đều có phương án tác chiến, thanh niên và các tầng lớp khác ở cơ sở tích cực lập làng chiến đấu, thay nhau canh gác, bố phòng. Chớp thời cơ thuận lợi sau chiến thắng Ba Lòng, Mặt trận huyện chủ trương đẩy mạnh phong trào "Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công" đã phát động thanh niên và các tầng lớp khác ở dọc đường 9 đồng loạt nổi dậy phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ở 22 ấp. Ngày 5-4-1964, thanh niên du kích Hồ Thắng ở xã A Ngo (Ba Đăng) đã dùng súng trường bắn rơi một chiếc máy bay L19, giết một phi công Mỹ và bắt sống tên Thomsom. Bị mất chiếc máy bay và hai tên trung tá Mỹ ở miền núi Hướng Hóa là một điều bất ngờ đối với bè lũ Mỹ - ngụy. Mỹ - ngụy không tin do ta bắn hạ mà chúng cứ tưởng máy bay của chúng bị tai nạn do máy móc của máy bay hư hỏng nên chúng cho máy bay rải truyền đơn xuống vùng núi Hướng Hóa với nội dung: Ai chỉ cho chúng tìm ra xác máy bay và 2 tên Mỹ thì sẽ được trọng thưởng. Nhặt được truyền đơn, đồng bào các dân tộc nói với nhau: "Người dân tộc mình không tham của, không cần đến phần thưởng của thằng Mỹ". Ngày 19-4-1964, địch mở trận càn với lực lượng 3 tiểu đoàn, 30 chiếc máy bay trực thăng đổ bộ xuống vùng Tà Rụt, Húc Nghì với mục đích chính là tìm xác máy bay và 2 tên sĩ quan Mỹ. Cuộc hành quân đó đã bị tuổi trẻ trong lực lượng du kích Hướng Hóa bám đánh bằng mọi vũ khí thô sơ, hiện đại. Trận càn của Mỹ - ngụy kéo dài trong 3 ngày vẫn không thu được kết quả gì lại bị tiêu hao sức người, sức của nên buộc chúng phải rút quân về Đông Hà, hậu cứ La Vang.
Ngày 22-11-1963, Tổng thống Mỹ Kennơdi bị ám sát. Tổng thống Mỹ Giônxơn lên thay, tuyên bố tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 22-01-1964, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ họp, quyết định "Trước mắt, tập trung vào 3 vấn đề chính". Một là, mở rộng quyền hạn của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Hai là, đẩy mạnh các hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn sự thâm nhập của quân đội miền Bắc qua đất Lào. Ba là, tăng thêm lực lượng quân đội Mỹ vào miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho quân đội ngụy và khi cần thiết có thể hoạt động trực tiếp chống miền Bắc Việt Nam"(1).
Thực hiện quyết định trên, đế quốc Mỹ tăng cường lực lượng cố vấn Mỹ và lực lượng yểm trợ quân sự Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Được Mỹ trợ giúp tích cực, ngày 13-2-1964, Nguyễn Khánh (Thủ tướng ngụy quyền miền Nam Việt Nam) trắng trợn ra sắc luật 93: "Đặt cộng sản và lực lượng trung lập ra ngoài vòng pháp luật " và phát động "Bắc tiến ", hô hào tiến công ra miền Bắc.

Trước tình hình đế quốc Mỹ gia tăng can thiệp và đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Đảng (khóa 3) ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, vạch rõ: "Chúng ta cần và có khả năng kiềm chế và thắng địch trong "Chiến tranh đặc biệt”, đồng thời phải luôn luôn cảnh giác và tích cực chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó, nếu đế quốc Mỹ mạo hiểm mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam thành "Chiến tranh cục bộ".”

Sau khi tiếp thu Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và Nghị quyết của Khu ủy khu V về việc "Chuẩn bị tiến lên đồng khởi giành lại nông thôn đồng bằng", căn cứ vào tình hình địa phương, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Trị mở rộng tại Ro Ró (Hướng Hóa) vào ngày 21-04-1964, quyết định: "Phát động phong trào đồng khởi nông thôn đồng bằng”'(1). Hội nghị coi việc: "Khẩn trương chuẩn bị thực lực cách mạng, phát động đồng khởi nông thôn đồng bằng là nhiệm vụ trung tâm cấp bách và sống còn của toàn Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh".
Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm cấp bách nói trên có hiệu quả, Tỉnh ủy chủ trương tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị học tập tình hình và nhiệm vụ mới, học tập bài bản phát động quần chúng đồng khởi và kinh nghiệm của các tỉnh ở khu V.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn trở ngại do địch càn quét, đánh phá, lực lượng đoàn viên, thanh niên nhân dân cách mạng ở các huyện đồng bằng trong tỉnh lúc này có 115 đoàn viên và hàng ngàn thanh niên tích cực ở trong các lực lượng nòng cốt trung kiên, ban cán sự thôn, tự vệ bí mật, binh vận, phụ nữ giải phóng, nông dân giải phóng, lực lượng vũ trang cơ sở, đội công tác xã đã bằng mọi cách tham gia các cuộc Hội nghị học tập, nghe cán bộ, đảng viên truyền đạt chủ trương của Tỉnh ủy.

Qua đợt sinh hoạt chính trị, đoàn viên, thanh niên ở các huyện đồng bằng trong tỉnh đã nắm được nội dung và các biện pháp chủ yếu về: Phát động đồng khởi giành lại nông thôn đồng bằng là khởi nghĩa nông thôn, giành lại chính quyền về tay nhân dân, đưa quần chúng đứng lên đấu tranh với địch theo phương châm hai chân (quân sự, chính trị) và ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận); khởi nghĩa là sự nghiệp của quần chúng; cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải tin tưởng vào khả năng bạo lực cách mạng của quần chúng...
Sau đợt sinh hoạt chính trị, đoàn viên, thanh niên ở các cơ sở dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, sự hướng dẫn động viên của chi đoàn đã nêu cao quyết tâm bám dân, bám địa bàn hoạt động, góp phần đắc lực cùng các đội công tác xây dựng thực lực cách mạng, chú trọng công tác binh vận...

Trước khi ra quân, các đội công tác ở các mũi tổ chức phổ biến "Lời kêu gọi của Tỉnh ủy gửi toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên toàn tỉnh". Lời kêu gọi của Hội nghị Tỉnh ủy phổ biến đến đâu, không khí chuẩn bị cho cuộc đồng khởi dấy lên mạnh mẽ ở đó, với khí thế như những ngày tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Đêm 25-6-1964, Ban Binh vận tỉnh phối hợp với số thanh niên nghĩa binh làm nội ứng trung đội tổng vệ số 18 Bà Thành (quận Ba Lòng) thành công, toàn bộ nghĩa binh trẻ thuộc trung đội tổng vệ số 18 đã mang vũ khí về với cách mạng và đã trở thành thành viên của Mặt trận tỉnh. Thanh niên cùng với các tầng lớp khác ở xã Ba Thành nhân cơ hội nổi dậy phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ... Cùng đêm, chi đoàn thanh niên ở đội 10 đặc công tỉnh, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng đã phối hợp với đại đội 1 phân khu Trị Thiên đánh chiếm vị trí Đầu Mầu. Việc đánh Đầu Mầu nhằm thu hút địch vào phòng thủ vùng này, đồng thời chặn con đường yết hầu nối tiếp các vị trí dọc đường 9, tạo điều kiện cho các nơi khác nổi dậy. Thắng lợi của vụ binh biến trung đội 18 và trận tiêu diệt vị trí Đầu Mầu không những làm chấn động hàng ngũ địch đóng chốt ở các lô cốt, vị trí mà còn có tác động cổ vũ mạnh mẽ quân dân và thanh niên Quảng Trị tự tin, phấn khởi, hăng hái bước vào cuộc đồng khởi nông thôn đồng bằng sắp tới.

Tại Cùa (Cam Lộ), nơi được chọn làm khởi điểm của cuộc đồng khởi, sau khi nghe đồng chí Vũ Soạn thay mặt Thường vụ Tỉnh ủy đọc bản mệnh lệnh số 1: "Nay ra lệnh cho các cấp, các ngành và toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong tỉnh mở màn đợt phát động quần chúng phá thế kìm kẹp giành lại nông thôn đồng bằng vào ngày 5-7-1964. Tỉnh ủy khẩn thiết kêu gọi cán bộ, đảng viên, thanh niên... hãy sẵn sàng hy sinh tất cả, giành thắng lợi lớn nhất". Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê San (trong Ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh), đội công tác với lực lượng nòng cốt là các đoàn viên, thanh niên nhân dân cách mạng đã huy động toàn bộ thanh niên và đông đảo các tầng lớp khác ở các thôn Mai Lộc, Mai Đàn... tự trang bị bằng các loại vũ khí tự tạo đi lùng bắt ác ôn, tề vệ, bọn địch bị đánh bất ngờ, tháo chạy, một số tên bị ta bắt. Phong trào từ hai thôn Mai Lộc, Mai Đàn lan nhanh ra cả vùng Cùa.


Sáng ngày 9-7-1964, địch tổ chức lực lượng phản kích ở tiểu đoàn, lực lượng vũ trang của ta tuy ít, song với tinh thần chiến đấu anh dũng của đảng viên, đoàn viên, thanh niên, được sự hỗ trợ của thanh niên và các tầng lớp khác ở Thượng Nghĩa, nên sau một ngày chiến đấu đã gây cho địch nhiều thiệt hại (gần 100 tên chết), buộc chúng phải rút khỏi vùng Cùa. Chính quyền tự quản của xã, của thôn được thành lập, hàng trăm đoàn viên, thanh niên được rút ra thành lập một trung đội bộ đội địa phương huyện, hai trung đội du kích cho 2 xã Cam Chính, Cam Nghĩa, 15 thanh niên bổ sung vào bộ đội địa phương tỉnh, một số khác bổ sung vào lực lượng đạo lộ huyện Hải Lăng...

Tại Hải Lăng, đêm 05-7-1964, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, đội công tác xã Hải Lâm đã huy động thanh niên và các tầng lớp khác ở thôn Thượng Nguyên nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch, thành lập chính quyền tự quản. Cùng đêm, đội công tác xã Hải Phú dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Huyện ủy, được sự hỗ trợ của 1 tiểu đội bộ đội chủ lực đã phát động thanh niên và các tầng lớp khác ở thôn Long Hưng Phường nổi dậy phá kìm, thành lập chính quyền tự quản. Bọn địch ở quận lỵ Hải Lăng đánh hơi biết được, sáng 06-07-1964, chúng cho 1 đại đội về bao vây, với ý đồ bắt sống toàn bộ lực lượng của ta, 9 chiến sĩ (có 7 chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang của tỉnh, 2 du kích xã) đều đang độ tuổi thanh niên ở lại bám trụ chiến đấu. "Suốt ngày 06-7-1964, địch liên tục phản công với lực lượng trên một tiểu đoàn, 5 xe bọc thép M113 (lực lượng này do chúng điều từ La Vang, thị xã Quảng Trị, Đông Hà vào tiếp viện) được trang bị vũ khí hiện đại và có máy bay yểm trợ. Song đều bị 9 chiến sĩ ta đánh trả quyết liệt. Mãi đến tối, do hết đạn, 9 chiến sĩ ta dùng lưỡi lê báng súng đánh địch. Tám chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh, chỉ còn chiến sĩ đoàn viên Phạm Cao trở về; địch chết 54 tên, 22 tên khác bị thương.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch tại thôn Long Hưng Phường là chiến công đầu của phong trào du kích chiến tranh trong thời kỳ chống Mỹ của quê hương Quảng Trị. Cuộc chiến đấu đã gây chấn động dư luận, nhân dân hết lời ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của 9 dũng sĩ, còn kẻ địch thì vô cùng khiếp sợ...

Tại Triệu Phong, dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Huyện ủy, chi bộ Vân An đã sử dụng tổ thanh niên tự vệ bí mật làm nòng cốt, huy động đông đảo thanh niên tự trang bị các loại vũ khí tự tạo, làm nhiệm vụ canh gác; đồng thời vận động các gia đình trong thôn nấu khoảng 300 vắt cơm nói là để tiếp tế cho bộ đội ta đang bố trí trận địa xung quanh thôn, nhưng thực ra lúc đó ở vùng Lương - Lễ không có một đơn vị bộ đội nào của ta cả. Việc nghi binh này đã có tác dụng hù dọa bọn tay sai phản động của Mỹ - ngụy đang trà trộn trong dân; mặt khác, gây khí thế cho tuổi trẻ và các tầng lớp khác trước khi đi vào dự cuộc mít tinh do ta tổ chức tại thôn, tuyên bố xóa bỏ ngụy quyền, thành lập chính quyền tự quản...


Từ các nơi được chọn làm điểm mở đầu của tỉnh, của huyện nói trên, phong trào đồng khởi nhanh chóng phát triển ra diện rộng, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị ở thị xã Quảng Trị.

Ngày 25-8-1964, thanh niên, học sinh và giáo viên ở các trường công, trường tư cùng với đông đảo thanh niên và các tầng lớp khác ở các xã vùng ven thị đã tổ chức một cuộc biểu tình đông khoảng một vạn người tuần hành qua các đường phố trong thị xã hô vang các khẩu hiệu: "Đả đảo đế quốc Mỹ", " Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam", "Nguyễn Khánh từ chức", xóa bỏ "Hiến chương Vũng Tàu phát-xít"....

Sáng ngày hôm sau, khoảng 300 thanh niên, học sinh và giáo viên của các trường trong thị xã lại tiếp tục biểu tình giương cao khẩu hiệu: "Mỹ không được can thiệp vào nội bộ người Việt Nam"....

Khi được tin Mỹ - ngụy xử bắn Nguyễn Văn Trỗi - người chiến sĩ biệt động Sài Gòn đặt mìn ở cầu Công Lý giết hụt tên Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Mắcnamara vào ngày 15-10-1964, thanh niên, học sinh cùng các thầy giáo, cô giáo và đại diện các tầng lớp khác ở nhiều nơi trong tỉnh nhất là ở thị xã Quảng Trị đã tổ chức truy điệu anh hùng Nguyễn Văn Trỗi - người đã biến pháp trường thành nơi lên án tội ác của bọn đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam.


Tiếp tục phối hợp với phong trào đồng khởi nông thôn đồng bằng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thị ủy, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng thị xã cùng với các đoàn thể khác ở thị xã Quảng Trị như "Hội Phụ nữ giải phóng", "Hội Lao động giải phóng" đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước lên một bước mới. Phong trào đấu tranh sôi nổi nhất là trong thanh niên, học sinh, giáo chức ở thị xã Quảng Trị. Phần lớn học sinh học ở trường Nguyễn Hoàng... (thị xã Quảng Trị) có cha mẹ, gia đình ở nông thôn, sau khi được nghe phổ biến chủ trương của Mặt trận về việc giải quyết ruộng đất cho nông dân một cách hợp tình, hợp lý, phù hợp với tình hình đặc điểm của cách mạng miền Nam, họ càng tin tưởng ở đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng, họ càng hăng hái đi đầu trong các cuộc biểu tình, mít tinh chống Mỹ - ngụy, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ.

Ngày 04-01-1965, một cuộc biểu tình lớn với trên 1.000 thanh niên, học sinh trường Nguyễn Hoàng đã kêu gọi toàn thể học sinh bãi khóa và xuống đường biểu tình đấu tranh chống chế độ độc tài phát-xít Khánh - Hương.

Ngày 07-01-1965, thanh niên, học sinh mở Đại hội bầu ban lãnh đạo đấu tranh.
Ngày 8-01-1965, các trường trung học, tiểu học trong thị xã Quảng Trị bãi khóa, tuyệt thực đấu tranh tại trường. Ngày 9-01-1965, hơn 5.000 thanh niên và các tầng lớp khác ở nội thị cùng với thanh niên, học sinh các trường biểu tình kéo đến bao vây dinh Tỉnh trưởng, đòi lật đổ Chính phủ Trần Văn Hương, đòi thực hiện quyền tự do dân chủ. Ngày 11-01-1965, một cuộc biểu tình khác lại nổ ra với hơn 5.000 thanh niên và các tầng lớp khác có trang bị gậy gộc, dao rựa và ná cao su kéo đến tập trung dọc đường Trần Hưng Đạo, theo sau đoàn biểu tình đi bộ là cả một đoàn xe 112 chiếc gồm ôtô, xe máy, xích lô, xe ba gác... Đoàn biểu tình vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu: "Đả đảo Chính phủ Trần Văn Hương", "Taylo cút về nước", "Người Hoa Kỳ không được can thiệp vào nội bộ của người Việt Nam". Đoàn biểu tình kéo đến đâu, bao vây cảnh cáo bọn tay sai đắc lực của Mỹ - ngụy đến đó. Thanh niên, thiếu niên học sinh đã ném đá và dùng ná cao su bắn đá vào nhà bọn cố vấn Mỹ ở, làm chúng hốt hoảng, đóng sập các cửa phòng lại.
Từ ngày 7 đến ngày 12-01-1965, thị xã Quảng Trị thực hiện bãi khóa, bãi thị, hàng ngàn thanh niên và các tầng lớp khác thay nhau tuyệt thực đấu tranh đòi lật đổ Trần Văn Hương.
Ngày 15-01-1965, thanh niên, học sinh thị xã tập trung tại trường Nguyễn Hoàng bàn kế hoạch đấu tranh mới. Ngày 16-01-1965, ban lãnh đạo đấu tranh của thanh niên, học sinh toàn tỉnh ra tuyên bố kêu gọi đồng bào đô thị bất hợp tác với Mỹ trong 48 giờ. Trong thời gian đó, thanh niên, học sinh các trường phân công nhau đi kiểm soát các phòng bưu điện, không cho nhân viên bưu điện chuyển thư cho bọn Mỹ, không cho các quán ăn, tiệm nhảy tiếp xúc với bọn Mỹ...

Chiều 25-01-1965, một chiếc ôtô có gắn loa phóng thanh chạy khắp các đường phố trong thị xã loan tin thắng lợi của các cuộc đấu tranh vừa qua, đồng thời kêu gọi anh em trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta đòi tự do dân chủ, đòi thủ tiêu chế độ độc tài phát-xít Trần Văn Hương, đòi người Mỹ không được can thiệp vào nội bộ của người Việt Nam.

Trải qua đấu tranh trực diện với địch, lập trường và trình độ nhận thức về địch của nhân dân, nhất là tuổi trẻ đô thị được nâng lên, trong đó có nhiều thanh niên như Nguyễn Văn Trác (giáo viên), Phan Văn Thịnh (học sinh)... được các tổ chức cơ sở Đảng giao nhiệm vụ hoạt động ở nội thị. ở trường Nguyễn Hoàng, noi gương lớp thanh niên đàn anh đi trước như Bùi Từ (Thu Lan) Tùng Lâm, Trương Hữu Quốc... tự nguyện thoát ly gia đình lên đường chống Mỹ, nhiều thanh niên trong học sinh, trong giáo viên tự nguyện nhận nhiệm vụ hoạt động cách mạng. Cùng thời gian này, Thị ủy đã rút thanh niên ở thị xã, thành lập trung đội bộ đội địa phương thị xã Quảng Trị gồm 30 cán bộ, chiến sĩ.

Trong dịp Tết Nguyên đán (1965), hàng vạn đoàn viên, thanh niên tích cực làm nòng cốt trong việc vận động thanh niên và các tầng lớp khác ở vùng tạm chiếm kể cả trong nội thị, ra vùng giải phóng xem triển lãm bằng hình ảnh về thành tựu 10 năm xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thành tích chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam Việt Nam, tố cáo tội ác đẫm máu của Mỹ - ngụy qua các chiến dịch: "Tố cộng", "Diệt cộng", dùng "Luật 10-59", "Kế hoạch Stalay-Taylo"... tại Nhan Biều do ủy ban Mặt trận tỉnh tổ chức, tại Thượng Nguyên do ủy ban Mặt trận huyện Hải Lăng tổ chức.... Cùng với việc xem triển lãm, các đêm mồng một, mồng hai, mồng ba Tết hàng vạn thanh niên, thiếu niên, nhi đồng còn được xem phim "Việt Nam trên đường thắng lợi" do đội chiếu bóng của khu vực Vĩnh Linh tổ chức, xem các tiết mục ca múa nhạc do đoàn văn công Tổng cục Chính trị biểu diễn tại các xã thuộc vùng giáp ranh: Hải Trường, Hải Lâm, Hải Lệ, Triệu Thượng, Triệu ái, Cùa...


Kết quả phong trào đồng khởi nông thôn đồng bằng Quảng Trị cuối năm 1964, đầu năm 1965, quân dân và thanh niên đã phá ấp chiến lược, đập tan ách kìm kẹp của địch ở 240 thôn/398 thôn, với gần 13 vạn dân giành quyền làm chủ theo các mức độ khác nhau, ta làm rã ngũ gần 2.000 lính chiến đấu, lính bảo an, lính cộng hòa... đồng thời đẩy mạnh thêm một bước phát triển chiến tranh nhân dân, xây dựng làng chiến đấu, rút 1.700 thanh niên bổ sung vào lực lượng vũ trang của tỉnh và các huyện, rút 2000 thanh niên nam và nữ ra huấn luyện, bổ sung vào lực lượng du kích xã. Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng được thành lập, là thành viên trong Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh.

Thắng lợi của phong trào đồng khởi ở Quảng Trị không những giúp cho các cơ sở của Đảng, Đoàn và các đoàn thể khác có điều kiện phát triển, lớn mạnh mà còn hình thành được thế liên hoàn giữa 3 vùng, tạo điều kiện để xây dựng thế và lực mới, sẵn sàng góp phần cùng toàn miền và cả nước đối phó với âm mưu và hành động mới của đế quốc Mỹ.


2. Tuổi trẻ khu vực Vĩnh Linh trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng Vĩnh Linh thành tiền đồn miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1954-1964)

Ngày 2-9-1954, trước cuộc mít tinh có gần ba vạn người dự (tổ chức tại sân vận động Trạng Cù) để kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 mừng quê hương được giải phóng, sau khi điểm lại thành tích trong 9 năm kháng chiến mà quân dân và thanh niên cả nước nói chung, ở Quảng Trị, Vĩnh Linh nói riêng đã giành được, đồng chí Trương Đình Dương, Chủ tịch ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Vĩnh Linh đã công bố một số chủ trương chính sách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với vùng mới giải phóng. Cuối cùng đồng chí thay mặt Huyện ủy và ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện kêu gọi quân dân và thanh niên trong huyện phát huy thắng lợi rực rỡ đã giành được, ra sức tăng gia sản xuất và tiết kiệm, nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, sớm ổn định cuộc sống của nhân dân; đồng thời nhắc nhở cán bộ đảng viên, đoàn viên, thanh niên và các tầng lớp khác không mất cảnh giác với mọi âm mưu thủ đoạn mới của địch(1) đang lợi dụng tình hình chưa ổn định dọc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) để cài người phá hoại cách mạng.


Hưởng ứng lời kêu gọi của Huyện ủy và ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và Liên đoàn Thanh niên Việt Nam huyện Vĩnh Linh đã phát động toàn thể đoàn viên, thanh niên tập trung sức lực thực hiện nhiệm vụ trung tâm cấp bách: Hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng ổn định nơi ăn, ở, đoàn viên, thanh niên ở một số cơ quan huyện chưa kịp làm trụ sở thì mượn nhà của dân để ở và làm việc; đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, phục hồi các ngành nghề thủ công truyền thống, chú trọng xây dựng các mặt văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, đồng thời tích cực tham gia cùng các tầng lớp khác vạch trần những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ cưỡng ép đồng bào theo đạo thiên chúa ở An Ninh, Di Loan, Phước Sơn... di cư vào Nam đập tan những hành động thô bạo vi phạm Hiệp định Giơnevơ của địch...

Cùng thời gian này, dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của chi bộ, chi đoàn cơ sở, đoàn viên, thanh niên đã cùng với các tầng lớp khác tổ chức tốt việc đón tiếp hàng vạn cán bộ chiến sĩ, thanh thiếu niên từ miền Nam ra tập kết tại quê hương Vĩnh Linh hoặc đang trên đường ra các tỉnh phía Bắc, ghé lại nghỉ ngơi dưỡng sức...

Về lực lượng vũ trang, ngoài việc tham gia củng cố, xây dựng E270 và xã đội dân quân tự vệ ở các xã, lực lượng tự vệ ở các cơ quan cấp huyện, trường học, bệnh viện... Đoàn Thanh niên Cứu quốc của huyện còn đóng góp lực lượng thành lập hai đại đội công an giới tuyến (vào cuối 1954), đủ sức kịp thời đối phó với mọi mưu mô và hành động chống phá của Mỹ - Diệm.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng số 16-NQ-TW, ngày 28-5-1955, Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh được thành lập gồm 3 ủy viên(1) do đồng chí Lê Thanh Liêm, nguyên ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị làm Bí thư Đảng ủy; ngày 16-6-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết số 551-TTg thành lập đặc khu Vĩnh Linh: "Khu vực Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị từ nay được tổ chức thành một đơn vị hành chính riêng, ngang với một tỉnh, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Trung ương"(1). Với vị trí đặc biệt là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là nơi trực tiếp đấu tranh với địch để bảo vệ khu phi quân sự, bảo vệ pháp lý Hiệp định Giơnevơ, là bàn đạp phục vụ phong trào cách mạng miền Nam, là cửa khẩu quan hệ giữa 2 miền Nam - Bắc Việt Nam... quân dân và thanh niên khu vực Vĩnh Linh trước mắt phải tập trung làm 2 nhiệm vụ: "Ra sức củng cố và xây dựng khu vực Vĩnh Linh về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội, chủ yếu là nâng cao mức sống của nhân dân, làm nổi bật tính chất hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đối với miền Nam; kiên quyết đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ quy chế khu phi quân sự, thực hiện quan hệ Bắc - Nam(2).

Từ ngày 11 đến ngày 15-9-1955, Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh mở Hội nghị quán triệt Chỉ thị Nghị quyết giảm tô đợt 8 và chuẩn bị tiến hành cải cách ruộng đất đợt 5 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy khu vực, Khu Đoàn Thanh niên Cứu quốc Vĩnh Linh do “đồng chí Võ Văn Thoại làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Lương làm Phó Bí thư"(3) đã hướng toàn bộ hoạt động của mình vào cuộc cải cách ruộng đất.

Sau khi tổ chức cho toàn thể đoàn viên, thanh niên học tập luật cải cách ruộng đất, Đoàn Thanh niên Cứu quốc ở các cơ sở đã tổ chức các đội thanh niên xung kích, các tổ thông tin tuyên truyền phục vụ theo yêu cầu của các đội cải cách ruộng đất. Đồng thời làm nòng cốt trong các đội tự vệ, bảo vệ các cuộc đấu tranh của nông dân, giữ gìn trật tự, an ninh thôn xóm. Sau ba tháng hoàn thành cuộc vận động giảm tô đợt 8, giai cấp nông dân toàn khu vực bước vào thực hiện cuộc cải cách ruộng đất.

Cuộc cải cách ruộng đất trên miền Bắc nói chung, ở khu vực Vĩnh Linh nói riêng tuy có phạm một số sai lầm, song có sự chăm lo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh như đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh - ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng vào khu vực Vĩnh Linh trực tiếp chỉ đạo công tác sửa sai cải cách ruộng đất nên kết quả công tác sửa sai cải cách ruộng đất ở khu vực Vĩnh Linh đã kết thúc nhanh, gọn, thực sự mang lại quyền lợi chính đáng cho nông dân. Trải qua thử thách và rèn luyện trong cuộc đấu tranh đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên ở khu vực Vĩnh Linh đã phát triển và ngày càng lớn mạnh.

Ngày 8-10-1956, Đại hội Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khai mạc tại Nhà hát lớn Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã được Bác Hồ đến thăm và huấn thị với nội dung: "Thanh niên cần phải có tinh thần gan dạ, sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn gian khổ để tiến mãi không ngừng". Đồng chí Phạm Ngọc Thạch được Đại hội bầu làm Chủ tịch Hội. Nhằm khẳng định vai trò của Đoàn trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 19-10-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.

Năm 1956, Trung ương Đoàn điều động đồng chí Võ Văn Thoại lên Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Lương được cử làm Bí thư khu Đoàn khu vực Vĩnh Linh.


Thông qua việc học tập đổi tên Đoàn, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực đã giáo dục, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đoàn viên lên một bước, nhiều thanh niên được kết nạp vào Đoàn và một số đoàn viên, thanh niên lao động ưu tú đã được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam...

Từ ngày 25-10 đến ngày 4-11-1956, Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ II họp, Đại hội đã khẳng định những cống hiến xuất sắc của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và 2 năm khôi phục kinh tế, văn hóa, giáo dục. Đại hội khẳng định nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới là: "Động viên mọi người, mọi tầng lớp thanh niên đem hết sức lực, trí tuệ của mình vào công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, tham gia tích cực vào công cuộc củng cố miền Bắc, tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà"(1). Đại hội ra Nghị quyết riêng về công tác thiếu niên, nhi đồng và quyết định đổi tên Đội thiếu nhi Tháng Tám thành Đội thiếu nhi Tiền phong Việt Nam bao gồm hai lứa tuổi thiếu niên và nhi đồng(1). Đại hội được Bác Hồ đến thăm và Chỉ thị: "Muốn Đoàn củng cố và phát triển thì tất cả đoàn viên phải gương mẫu"(2). Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn gồm 30 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư thứ nhất.

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Lao động khu vực Vĩnh Linh đã phát động toàn thể đoàn viên, thanh niên trong khu vực: "Ra sức thi đua phục hồi kinh tế, nhằm làm cho kinh tế giàu mạnh, quân đội hùng mạnh, chính trị văn hóa mạnh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...".
Kết quả tính đến cuối năm 1957, đoàn viên, thanh niên đã đóng hàng triệu ngày công cùng với các tầng lớp trong khu vực khai hoang phục hóa được 9.600 ha đất gieo trồng, đắp các đập giữ nước: Bến Tranh, Bến Tắm, Ba Ra - Ga Tạm, Ba Ra - Mỹ Tá - Ba Ra - Tiên Lai, Cầu Trìa, Mo Nham, Tùng Luật, Cổ Trai, đê ngăn mặn Di Loan, đào 450 con mương lớn nhỏ. Đoàn đã động viên thanh niên cùng với gia đình phát triển chăn nuôi trâu bò, lợn; tìm kiếm và tận dụng các nguồn phân bón tại chỗ như phân xanh, phân bắc, phân bùn; một số đoàn viên, thanh niên bước đầu đi vào khoa học kỹ thuật, áp dụng những phương pháp và biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và chăn nuôi như ủ chua thức ăn cho lợn, ngâm ủ lúa giống trong nước ("hai sôi ba lạnh") sử dụng thuốc trừ sâu, cấy lúa nhỏ dành dày vừa phải...
Nhờ đẩy mạnh khai hoang, phục hóa, chú trọng công tác thủy lợi, làm phân bón, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khu vực Vĩnh Linh đã biến 9.648 mẫu ruộng một vụ-năm, lên 2 vụ/năm, đưa năng suất lúa từ 12,38 tạ/ha/năm 1955 lên 15,01 tạ/ha - năm 1957, đưa đàn trâu bò từ 11.478 con - năm 1955 lên 15.517 con - năm 1957. Trong ngư nghiệp, được Trung ương đầu tư hỗ trợ, ngư dân khu vực đã đưa số thuyền đánh bắt lớn nhỏ từ 178 chiếc (cuối 1954) lên 327 chiếc (cuối năm 1957), đưa tổng sản lượng hải sản từ 688 tấn - năm 1995 lên 920 tấn - năm 1957. Song song với khôi phục, phát triển sản xuất nông nghiệp, đoàn viên, thanh niên còn đi đầu trong phong trào vận động nhân dân trồng cây gây rừng ở các vùng đất trống, trên các tuyến đê, đặc biệt là trồng hàng vạn bụi tre dọc theo giới tuyến. Việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mở mang ngành nghề; việc khẩn trương khôi phục, xây dựng các tuyến đường, bảo đảm giao thông, thông suốt giữa các vùng cũng được các tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam ở cơ sở coi trọng, thường xuyên động viên, cổ vũ đoàn viên, thanh niên đóng góp sức lực, trí tuệ. Kết quả đến năm 1957, khu vực Vĩnh Linh đã khôi phục, xây dựng được các cơ sở rèn, mộc, gạch, vôi, xí nghiệp chế biến bột sắn... làm được các con đường: Từ cầu Hồ Xá qua Gia Phúc, từ Bến Tắm qua Huỳnh Hạ, từ Di Loan đi Hiền Lương, từ Lâm Cao đi chợ Kênh... thu hút hàng vạn đoàn viên, thanh niên, lao động (nguyên là cán bộ, chiến sĩ) ở miền Nam ra tập kết có việc làm...

Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (khóa II) chủ trương: "Phải tổ chức hết thảy mọi đoàn viên và thanh niên nông thôn học tập đường lối hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng". Thực hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy khu vực, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực đã động viên đoàn viên, thanh niên ở cơ sở nông thôn tích cực tham gia các lớp huấn luyện và phổ biến 5 nguyên tắc tổ đổi công. Đoàn còn tổ chức nhiều hình thức hoạt động phong phú trong công tác tuyên truyền vận động đoàn viên, thanh niên, nông dân lao động vào tổ đổi công... Kết quả: Năm 1957, toàn khu vực đã có 1.087 tổ đổi công, với 6.888 gia đình tham gia. Riêng ở miền núi, trong 6 xã đã xây dựng được 90 tổ đổi công, gồm 328 gia đình tham gia. Để rút kinh nghiệm đưa nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, khu vực Vĩnh Linh đã tổ chức làm thí điểm 2 hợp tác xã: Vĩnh Kim, Vĩnh Hòa.

Nhận rõ mục tiêu trước mắt của đế quốc Mỹ là phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại công cuộc thống nhất đất nước Việt Nam và thực hiện lời dạy của Bác Hồ "...Nếu kẻ địch có hành động liều lĩnh gì thì Vĩnh Linh, Quảng Bình phải đương đầu với chúng trước hết và phải bảo đảm đánh thắng chúng trước hết..."(1) đoàn viên, thanh niên khu vực hăng hái tòng quân. Ngoài việc đóng góp lực lượng xây dựng trung đoàn bộ đội chủ lực, xây dựng một tiểu đoàn phòng không phối hợp, một tiểu đoàn công an vũ trang bảo vệ giới tuyến, một đại đội bảo vệ bờ biển, đoàn viên, thanh niên còn là lực lượng chủ yếu trong đội ngũ dân quân tự vệ của khu vực, đưa lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở cơ sở từ con số 1.731 chiến sĩ năm 1955, lên con số 3.684 cán bộ chiến sĩ năm 1957, trong đó có một số trung đội ở 6 xã thuộc khu phi quân sự (Bắc) được huấn luyện chu đáo và trang bị đầy đủ vũ khí với danh nghĩa là các tổ "Nhân viên hành chính", làm lực lượng xung kích, bảo vệ giới tuyến.
Về giáo dục, toàn khu vực có một trường cấp II (9 lớp), có 412 học sinh, tất cả các địa bàn (kể cả miền núi) đều có trường cấp I, thu hút toàn bộ thiếu niên, nhi đồng đến trường học tập và sinh hoạt trong các Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam do Đoàn trường tổ chức... Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: "Muốn xứng đáng vai trò người chủ thì phải học tập", được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của ủy ban Nhân dân các cấp, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực đã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn huyện tổ chức các lớp học bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, thu hút toàn bộ đoàn viên, thanh niên đang ở trình độ lớp I, lớp II... tham gia học tập; lực lượng đoàn viên, thanh niên lao động ở các trường (gồm giáo viên cấp 1, giáo viên cấp 2 và một số học sinh cấp 2) lúc này tuy còn mỏng, nhưng hoạt động của Đoàn trường rất sôi nổi và có hiệu quả rõ rệt.
Song song với phong trào thi đua khôi phục và phát triển kinh tế... dưới sự chỉ đạo của cấp ủy các cấp, tổ chức Đoàn ở các cơ sở đã phát động đoàn viên, thanh niên tham gia các phong trào đấu tranh chính trị đòi Mỹ - Diệm phải thực hiện Hiệp định Giơnevơ, mở hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Phong trào đấu tranh chính trị của quân dân và thanh niên khu vực diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú như tổ chức những đoàn đến trực tiếp trụ sở của ủy ban Quốc tế đòi phải buộc chính quyền miền Nam nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ, gửi thư từ, bưu thiếp cho người quen thân, bà con ở bờ Nam sông Bến Hải, phối hợp cùng đồng bào bờ Nam sông Bến Hải đấu tranh đòi Mỹ - Diệm không được phá Chợ Bạn (chợ do ta mới lập trong kháng chiến chống Pháp). Phong trào đấu tranh chính trị nổi lên mạnh mẽ nhất là từ khi Chính phủ ta ra tuyên bố "Sẵn sàng mở Hội nghị hiệp thương với nhà đương cục ở miền Nam bắt đầu từ ngày 20-7-1955 để bàn tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc vào ngày 20-7-1956".

Trước thái độ ngang ngược của Mỹ - Diệm xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ, Đoàn Thanh niên Lao động và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khu vực đã phát động đoàn viên, thanh niên tỏ rõ thái độ phẫn nộ, tích cực tham gia các cuộc biểu tình, mít tinh, lấy chữ ký phản đối Mỹ-Diệm, đòi hiệp thương Tổng tuyển cử kéo dài hết đợt này đến đợt khác. Mặt khác, dựa vào điều 9 của Hiệp định Giơnevơ, đoàn viên, thanh niên cùng với các tầng lớp khác trong khu vực đấu tranh với đối phương, đòi đối phương phải bảo đảm sự đi lại của nhân dân ở hai miền Bắc - Nam sông Bến Hải qua các "Cửa khẩu": Thủy Ba, Hiền Lương, Mũi Si...


Ngày 13-12-1958, sau khi quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14, Hội nghị Đảng ủy đề ra phương hướng hoạt động (1958 - 1960) là: "Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh".

Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy khu vực, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực đã mở đợt học tập các Nghị quyết của Đảng, nhằm làm cho mọi đoàn viên, thanh niên nhận rõ ý nghĩa quan trọng và tính chất quyết định của kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) đối với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà; nhận rõ mục tiêu phấn đấu và vị trí của Đoàn trong giai đoạn cách mạng mới, xác định được trách nhiệm của người cán bộ Đoàn, của người đoàn viên và thanh niên.


Với khẩu hiệu hành động "Thanh niên hãy vì kế hoạch 3 năm mà phấn đấu ", được sự chỉ đạo của các chi bộ Đảng, các chi đoàn thanh niên lao động ở nông thôn đã phát động phong trào "Gánh phân chống Mỹ". Song song với phong trào làm phân, đoàn viên, thanh niên đã chú trọng chọn giống lúa có năng suất cao, rắc mạ thưa, làm cỏ, bón phân cho lúa đúng kỹ thuật. Nổi lên trong phong trào này là các chi đoàn ở các xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Kim đã làm sào ruộng thí nghiệm, kết quả thu hoạch đạt từ 36 tạ đến 40 tạ/ha/vụ. Vụ Đông Xuân từ năm 1958 - 1959, hạn hán xảy ra gay gắt. Nông dân bi quan, một số nông dân bỏ ruộng, đi làm nghề phụ, song đoàn viên, thanh niên ở đó vẫn kiên trì chống hạn, với khẩu hiệu "Quyết không để một sào ruộng bị khô, một cây lúa bị cháy", đoàn viên, thanh niên cùng với các tầng lớp khác ngày đêm tìm cách chống hạn. Các chi đoàn thanh niên lao động của các xã: Vĩnh Giang, Vĩnh Sơn, Vĩnh Lâm đã động viên toàn bộ đoàn viên, thanh niên đào mương dẫn nước, kịp thời cứu được các cánh đồng lúa bị hạn. ở Vĩnh Thủy, nông dân bỏ đi làm tranh, củi, đi đánh cá. Trước tình hình đó, chi đoàn nêu khẩu hiệu: "Đoàn viên, thanh niên quyết tâm bám ruộng, chống hạn đến cùng". Phân đoàn Lai Xá có sáng kiến tổ chức "Đội thanh niên xung phong", 5 ngày đêm liền đào mương chống hạn, đưa nước về tưới khắp đồng làng, lúa trở lại xanh tươi...

ở thị trấn Hồ Xá, đoàn viên, thanh niên được tổ chức học tập thấy rõ chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tiểu thương và thợ thủ công nghiệp của Đảng, họ đã vận động gia đình và nhân dân đô thị chấp hành chính sách của Đảng, ổn định giá cả thị trường. Cùng thời gian này, đoàn viên, thanh niên ở Hồ Xá còn có phong trào đóng góp sức lực xây dựng sân vận động, nhà hát nhân dân, đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa...

ở các trường phổ thông cấp I, cấp II, sau khi tham gia cuộc chỉnh huấn chính trị, đoàn viên, thanh niên trong giáo viên và học sinh tích cực hưởng ứng phong trào giảng dạy và học tập tốt, chú trọng kết hợp học tập với thực tế lao động và cuộc sống. Đoàn viên, thanh niên ở các cơ quan, công trường phấn đấu hoàn thành tốt công tác chuyên môn và các mặt hoạt động của Đoàn trong xã hội.

Nhận rõ con đường đổi công, hợp tác là con đường duy nhất đúng, đưa nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội, 100% đoàn viên và 90% thanh niên ở nông thôn Vĩnh Linh đã vào tổ đổi công, trong các tổ đổi công đều có nhóm thanh niên hoạt động. Phong trào tổ đổi công lên cao, cộng với trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nông dân ở nhiều nơi đưa đơn xin thành lập hợp tác xã.

Về công tác thiếu niên, nhi đồng: Trải qua các cuộc vận động: "Đội chúng em 17 tuổi", phong trào "Kế hoạch nhỏ”... đã có tác dụng giáo dục cho mọi thiếu niên, nhi đồng trong khu vực về truyền thống của Đội Thiếu niên Tiền phong về ý thức lao động... Ngoài học tập, tổ chức sinh hoạt Đội, các em còn tích cực tham gia làm phân xanh, lập sa bàn vận động bà con nông dân cấy lúa đúng kỹ thuật, tham gia công tác thanh toán nạn mù chữ... Trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đưa nông dân và nông thôn các tỉnh, thành phố miền Bắc đi vào con đường làm ăn tập thể, thiếu niên, nhi đồng các địa phương không những là lực lượng đông đảo, tham gia tuyên truyền, vận động gia đình và bà con trong thôn xóm với nhiều hình thức như tổ chức các buổi cổ động, phát loa truyền thanh, kẻ vẽ khẩu hiệu tuyên truyền... Các em còn tổ chức các hợp tác xã Măng non, vừa tạo điều kiện đóng góp phần công sức phù hợp với lứa tuổi cho các hợp tác xã sản xuất, vừa là việc làm có ý nghĩa giáo dục đối với chính các em về tính tập thể, về ý thức lao động, tiết kiệm... Tiêu biểu như Hợp tác xã Măng non Duy Viên (huyện Vĩnh Linh).

Ngày 21-5-1959, thi hành Nghị quyết tổ chức của Trung ương Đoàn, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Lao động khu vực Vĩnh Linh chính thức thành lập gồm 21 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Lương - đảng ủy viên Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh, trực tiếp làm Bí thư khu Đoàn Vĩnh Linh.

Sau khi thành lập, khu Đoàn họp đề ra phương hướng hoạt động. Trước mắt tiến hành cuộc vận động kiện toàn tổ chức Đoàn, bằng cách tổ chức học tập 5 tiêu chuẩn của đoàn viên, thanh niên lao động, nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và ý thức Đoàn trong toàn thể đoàn viên và thanh niên. Công tác phát triển đoàn viên của khu Đoàn từ đó trở đi được chú trọng đúng mực, nhất là ở trường học và các xã mới thành lập chi đoàn. Qua cuộc vận động kiện toàn tổ chức Đoàn đã khắc phục được tư tưởng hẹp hòi, đóng cửa... Chú trọng lớp thiếu niên đã đến tuổi 16, triệt để chống tư tưởng coi khinh nữ thanh niên. Trên cơ sở đó, lực lượng của Đoàn Thanh niên Lao động khu vực lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng. Tính đến cuối năm 1959, toàn khu vực có 2.816 đoàn viên, thanh niên lao động, 6.266 hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.

  

Tháng 9-1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp. Đại hội quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, quyết định phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Về tổ chức Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội III của Đảng chỉ rõ: "Thanh niên ta đã nêu cao tinh thần hy sinh anh dũng trong kháng chiến và trong lao động hòa bình. Thanh niên lại là lớp người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội... Đảng ta phải hết sức chú trọng giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng mang hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền Nam".(1)

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III được triệu tập vào tháng 3-1961. Đại hội xác định nhiệm vụ của Đoàn trong nhiệm kỳ tới là: “Đoàn kết thanh niên, tổ chức mọi lực lượng, giáo dục thanh niên trong cả nước tiến lên dưới ngọn cờ của Đảng, cống hiến hết sức mình phấn đấu hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ lịch sử mà Đảng đã đề ra"(2).

Đại hội đã phát động phong trào "Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất". Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn gồm 17 ủy viên, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư Thứ nhất. Sau Đại hội một thời gian ngắn, đồng chí Nguyễn Lam được Đảng điều đi làm nhiệm vụ mới, đồng chí Vũ Quang được cử làm Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III, dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy khu vực, Ban Chấp hành khu Đoàn đã triệu tập Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Lao động khu vực Vĩnh Linh vào tháng 6-1961(1). Sau khi kiểm điểm, đánh giá tình hình hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên ở khu vực trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên Lao động khu vực là: “Tổ chức, giáo dục động viên tuổi trẻ phát huy vai trò và tác dụng của mình đi đầu thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất”. Qua đó mà "Nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, giáo dục thanh, thiếu niên ý thức đối với kế hoạch Nhà nước, giáo dục tinh thần xung phong, tự nguyện, tự giác trong bất cứ công việc gì mà mình đang làm, nâng cao tinh thần trách nhiệm của thanh niên đối với việc thực hiện kế hoạch 5 năm".

Đại hội Đoàn khu vực Vĩnh Linh đã bầu Ban Chấp hành khu Đoàn gồm 25 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Lương được bầu làm Bí thư khu Đoàn.

Đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của tuổi trẻ trong thời kỳ mới, ngay sau Đại hội Đoàn, khắp trên các mặt trận sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng đều dấy lên phong trào đoàn viên, thanh niên đăng ký xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất.



Đánh giá kết quả sau hai năm thực hiện phong trào xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, Đại hội đại biểu Đoàn toàn khu vực Vĩnh Linh lần thứ II (8-1963) nêu rõ: “Hai năm qua, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khu vực lần thứ II và Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III với sự nỗ lực phấn đấu cao của cán bộ Đoàn, đoàn viên và thanh niên trên khắp các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng đã đưa hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên khu vực có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, tiến bộ, góp phần đắc lực của tuổi trẻ vào việc hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng bộ khu vực đã vạch ra”.
Trong quá trình phấn đấu, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực đã biết nắm chắc nhiệm vụ trung tâm cấp bách của Đảng và đã tập trung chỉ đạo vào các khâu yếu nhất, khó khăn nhất, kịp thời động viên đoàn viên, thanh niên vượt mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có thể nói mọi hoạt động của Đoàn lúc này đều nhằm giải quyết những yêu cầu, khắc phục được tình trạng hoạt động của Đoàn tách rời, không ăn khớp kế hoạch hợp tác xã trước đó đã mắc phải. Đồng thời với việc phấn đấu thực hiện kế hoạch Nhà nước, Đoàn đã chăm lo đến việc bồi dưỡng giáo dục đoàn viên, thanh niên nhằm làm cho nhiều đoàn viên, thanh niên trở thành con người mới, con người lao động có văn hóa, am hiểu khoa học kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng đời sống, có đủ nghị lực và sức khỏe để sẵn sàng đón nhận và thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân cần đến. Kết quả qua hai năm phấn đấu, rèn luyện, nhiều đoàn viên được xã viên bầu vào Ban Quản trị, đội trưởng, đội phó, hầu hết cán bộ kỹ thuật ở các hợp tác xã đều là đoàn viên, thanh niên. Và tất cả đoàn viên, thanh niên ở các đội sản xuất đều đi đầu trong việc đăng ký ngày công, làm thêm ngày, thêm giờ để giải quyết khó khăn về nhân lực cho hợp tác xã, bảo đảm cày cấy, thu hoạch lúa, hoa màu kịp thời vụ. Đi đôi với lao động sản xuất, xây dựng hợp tác xã, đoàn viên, thanh niên cũng là lực lượng chủ yếu góp phần to lớn vào việc bảo vệ sản xuất, bảo vệ trị an, sẵn sàng phá tan mọi âm mưu và hành động khiêu khích, phá hoại của bè lũ Mỹ - Diệm, giữ gìn an toàn khu giới tuyến.
Với thành tích nói trên, trong năm 1961 - năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Đoàn Thanh niên Lao động và phong trào thanh niên khu vực Vĩnh Linh vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (một trong hai Huân chương cao nhất mà Đảng và Nhà nước dành cho phong trào miền Bắc trong năm 1961).
Về mặt thiếu sót, nhược điểm và tồn tại, Đại hội Đoàn Thanh niên Lao động khu vực lần thứ II chỉ rõ: "Trong lao động sản xuất, đoàn viên, thanh niên khu vực tỏ ra hăng say, chẳng nề hà việc gì, nhưng còn làm việc theo lối thụ động, trình độ hiểu biết về kỹ thuật còn thấp kém, bỏ sức ra thì nhiều, nhưng kết quả thu lại thì ít, giá trị thấp, trong quản lý kinh tế, quản lý hợp tác xã, vai trò đoàn viên, thanh niên còn hạn chế. Cán bộ Đoàn chưa hiểu biết về quản lý kinh tế, quản lý hợp tác xã, tư tưởng ỷ lại, bàng quan, chỉ đâu đánh đó còn khá phổ biến, chỉ biết thừa hành mà chưa chủ động đóng góp ý kiến cho hợp tác xã, cho xí nghiệp trong việc xây dựng phương hướng, vạch kế hoạch sản xuất. Trong công tác xây dựng Đoàn, việc xây dựng lập trường giai cấp vô sản, xác định vị trí chiến đấu cho mỗi đoàn viên, thanh niên làm chưa nhiều, chưa thường xuyên; một số đoàn viên, thanh niên có trình độ văn hóa cấp II, cấp III muốn thoát ly nông thôn...

Về phương hướng hoạt động sắp tới, Đại hội Đoàn khu vực lần thứ II vạch rõ: "Đứng vững trên vị trí chiến đấu, anh dũng vượt mọi khó khăn, quyết tâm phấn đấu cho kế hoạch 5 năm đại thắng", Đoàn phải giáo dục và tổ chức đoàn viên, thanh niên thành một đội quân lao động dũng cảm, sáng tạo, với tinh thần sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì và đi bất cứ đâu khi Đảng và nhân dân cần đến. Đoàn phải giáo dục cho đoàn viên, thanh niên tư tưởng khắc phục khó khăn, chiến thắng gian khổ, có ý thức tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Động viên toàn Đoàn và các lực lượng thanh niên ở các đội sản xuất tích cực tham gia thực hiện hai cuộc vận động lớn: "Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc".

Đoàn viên, thanh niên phải ra sức học tập, nắm vững khoa học kỹ thuật, tích cực và chuẩn bị đi đầu trong việc áp dụng và phổ biến khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm "Thâm canh tăng năng suất và tăng năng suất lao động".

Trong quá trình phấn đấu thực hiện nhiệm vụ nói trên, Đoàn Thanh niên Lao động khu vực phải quán triệt nhiệm vụ chủ yếu của mình là: "Giúp Đảng bộ đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trong khu vực có lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có ước mơ và có chí khí, có sức khỏe, sẵn sàng đem hết tài năng và sức lực của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước".


Song song với việc ra sức phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, khu Đoàn phải luôn luôn coi trọng công tác trị an, đấu tranh chính trị ở khu vực giới tuyến, tăng cường quốc phòng. Cụ thể Đoàn phải động viên toàn thể đoàn viên, thanh niên tham gia xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng hậu bị vững mạnh cả về tư tưởng và tổ chức, trong học tập và huấn luyện quân sự. Trong công tác bảo vệ trị an, canh gác tuần tiễu, đoàn viên và thanh niên phải là những người đi đầu; khi có biệt kích, đoàn viên, thanh niên coi đó là công tác đột xuất của mình, cùng với lực lượng dân quân tự vệ chấp hành mệnh lệnh của cấp trên một cách vô điều kiện: "Hành động nhanh chóng, kịp thời truy kích biệt kích". Trong công tác phòng thủ: "Đoàn viên, thanh niên phải giúp đỡ gia đình và nhân dân đào hầm trú ẩn để đề phòng pháo của địch ở bờ Nam bắn ra..."

Kết quả thực hiện kế hoạch Nhà nước của quân dân và thanh niên khu vực Vĩnh Linh (tính đến năm 1964) là: Tổng diện tích gieo trồng toàn khu vực đạt 16.824ha/năm, tăng gấp hai lần so với năm 1955. Tổng sản lượng lương thực đạt 23.297 tấn (bình quân lương thực đầu người đạt 370kg - năm 1964). Diện tích trồng cây công nghiệp so với năm 1960, tăng 100%; chăn nuôi trâu bò đạt 104% kế hoạch. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp địa phương so với năm 1960 tăng 42%, thủ công nghiệp tăng 8%. Ngành thương nghiệp đã mở được nhiều cửa hàng tập trung và lưu động, đáp ứng nhu cầu của quân dân và thanh niên khu vực...

Sản xuất kinh tế phát triển đã tác động tích cực đến phong trào văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, an ninh quốc phòng.

  

Trước âm mưu mới của Mỹ và bè lũ tay sai tung gián điệp biệt kích ra phá hoại miền Bắc, phá hoại khu vực Vĩnh Linh, ngày 26-3-1964, Đảng ủy khu vực mở Hội nghị bàn về công tác tư tưởng. Hội nghị đề ra phương hướng: “Phải làm cho toàn Đảng bộ và toàn dân trong khu vực nhận thức sâu sắc về quan điểm, đường lối cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, củng cố quan điểm lập trường cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức làm chủ của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên... nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị đối phó với địch. Đảng viên, đoàn viên, thanh niên lao động phải làm nòng cốt trong các lực lượng vũ trang của khu vực, nhất là trong lực lượng dân quân tự vệ”.
Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội. Hội nghị khẳng định quyết tâm chiến đấu chiến thắng của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Nếu chúng liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại". Phát biểu tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa III, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: "Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước". Người kêu gọi quân dân và thanh niên miền Bắc: "Hãy đẩy mạnh phong trào thi đua mỗi người làm việc bằng hai, kiên quyết vượt mọi khó khăn, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam"(1).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, đoàn viên, thanh niên hoạt động trên mọi lĩnh vực đã dấy lên phong trào thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".

Để cứu vãn tình thế ngày càng thất bại thảm hại trên chiến trường miền Nam, ngày 4-8-1964, đế quốc Mỹ dựng lên " Sự kiện vịnh Bắc bộ" vu cáo ta tấn công tàu của chúng trên hải phận quốc tế để kiếm cớ "Đánh trả". Ngày 5-8-1964, chúng cho máy bay ném bom bắn phá nhiều địa điểm trên miền Bắc nước ta. Ngày 8-8-1964, máy bay Mỹ đánh phá đảo Cồn Cỏ...


Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (8-1964) về việc: "Tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu của địch khiêu khích và bắn phá miền Bắc", Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh mở Hội nghị cán bộ. Sau khi quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, Hội nghị khẳng định: “Đế quốc Mỹ đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của cả loài người, phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chúng”. Hội nghị đã bàn các biện pháp triển khai công tác, phòng thủ toàn diện.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ khu vực, khu Đoàn Thanh niên Lao động đã giao nhiệm vụ cho đoàn viên và vận động thanh niên toàn khu vực đi đầu trong việc chuyển hướng phát triển kinh tế từ thời bình sang thời chiến, chuyển dần các cơ sở sản xuất đóng tại thị trấn Hồ Xá về các vùng nông thôn, rừng núi, chuyển bớt một số cơ quan hành chính, sự nghiệp về các vùng lân cận thị trấn... Đoàn viên thanh niên cùng với gia đình và nhân dân địa phương đào hầm phòng tránh phi pháo, đào công sự chiến đấu, cùng với lực lượng dân quân tự vệ sẵn sàng đánh địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng biển và mặt đất của khu vực.

Tuổi trẻ khu vực Vĩnh Linh cùng với các tầng lớp khác dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cùng với quân dân và thanh niên miền Bắc bước vào thời kỳ mới xây dựng và bảo vệ miền Bắc, bảo vệ hậu cứ của tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng.

Tóm lại, sau 10 năm không ngừng phấn đấu của quân dân và thanh niên Vĩnh Linh "Các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng đều có những tiến bộ, nổi bật là trên mặt trận sản xuất nông nghiệp". Tuy đời sống vật chất (ăn, ở, mặc) của các tầng lớp nhân dân trong khu vực nhìn chung còn thấp, song về mặt văn hóa - xã hội, trong giai đoạn 1961 - 1964 khu vực Vĩnh Linh đã đạt được những thành tựu lớn lao. Đó là việc tạo nên sự bình đẳng xã hội, trong việc cung cấp những dịch vụ cơ bản trên diện rộng và cố gắng thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa nông thôn và đô thị... Kết quả đó là nền tảng, là động lực của phong trào thi đua kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân và thanh niên khu vực Vĩnh Linh trong thời gian tới.




Каталог: Chuyende
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Chuyende -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam huyện nam đÔng độc lập Tự do Hạnh phúc
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Chuyende -> ĐỀ CƯƠng ôn tập thi tốt nghiệp môn tiếng anh năm học 2012- 2013
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Chuyende -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố ĐÀ NẴng độc lập Tự do Hạnh phúc
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴNG
Chuyende -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴNG
Chuyende -> Căn cứ Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013

tải về 1.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương