Đối với súc vật còn sống


Bài 4 BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA Ở GIA SÚC NHAI LẠI (Monieziosis)



tải về 0.95 Mb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.95 Mb.
#19059
1   2   3   4   5   6

Bài 4 BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA Ở GIA SÚC NHAI LẠI
(Monieziosis)

Bệnh sán dây Moniezia thường gặp ở súc vật nhai lại, đặc biệt là súc vật nhai lại còn non. Bệnh xảy ra chủ yếu do hai loài sán dây thuộc lớp Cestoda ký sinh ở ruột non. Súc vật nhai lại bị bệnh sán dây thì gầy yếu, thiếu máu, suy nhược và dễ chết nếu nhiễm nặng. Những súc vật nhiễm sán thường sinh trưởng kém, còi cọc, chậm lớn và sức đề kháng giảm sút, dễ mắc các bệnh khác.

1. Đặc ĐIỂM SINH HỌC CỦA SÁN DÂY MONIEZIA

1.1 Vị trí của sán dây Moniezia trong hệ thống phân loại động vật học

Trong hệ thống phân loại động vật học, theo Phan Thế Việt và cs (1977), sán dây Moniezia có vị trí như sau:

Lớp sán dây Cestoda Rudolphi, 1808

Phân lớp Eucestoda Southwell, 1930

Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900

Phân bộ Anoplocephalata Skrjabin, 1933

Họ Anoplocephalidae Cholodkowski, 1902

Phân họ Anoplocephalinae Blanchard, 1891 Giống Moniezia Blanchard, 1891

Loài Moniezia expansa (Rudolphi, 1810) Blanchard, 1891


Loài Moniezia benedeni (Moniez, 1879) Blanchard, 1891

Những nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, giun sán ký sinh ở động vật Việt Nam rất phong phú. Riêng sán dây (Cestoda Rudolphi, 1808) là một trong bốn lớp giun sán ký sinh đã phát hiện được 148 loài (Nguyễn Thị Kỳ, 1994).

Việc nghiên cứu sán dây ở Việt Nam được bắt đầu từ hơn 1 thế kỷ nay. Năm 1870, Can de J. lần đầu tiên mô tả loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm thấy ở người Nam Bộ (Việt Nam). Sau đó 10 năm mới xuất hiện các công trình nghiên cứu lẻ tẻ về một vài loài sán dây gây bệnh cho người. Từ đó, việc nghiên cứu về thành phần sán dây ở người được chú ý hơn, rồi mở rộng phạm vi nghiên cứu sang một số động vật nuôi và một số động vật hoang dã.

Tổng hợp có hệ thống về sán dây ở gia súc nhai lại Việt Nam, Drozdz J. và


Malcrewski A . (1971) cho biết, trong họ Anoplocephalidae Cholodkowski, 1902 có
giống Moniezia Blanchard, 1891 gây bệnh cho dê, cừu, hiếm hơn ở bò, trâu và các thú
nhai lại khác. Giống Moniezia có hai loài: M. expansa (Rudolphi, 1810) và M.
benedeni (Moniez, 1879) phân bố rộng khắp các vùng. Ngoài ra, họ Avitellinidae

63



Spassky, 1950 có loài Avitellina centripunctata (Rivolta, 1870) ký sinh ở ký chủ cuối cùng là bò, trâu, dê, cừu và các loài nhai lai khác.

Soulsby E. J. L. (1982) đã xác nhận các loài sán dây phổ biến ở dê, cừu và một số thú nhai lại là M. expansa, M. benedeni, A. centnpunctata.

Nhiều tác giả khác, khi đề cập về thành phần sán dây ký sinh ở loài nhai lại cũng
đều có ý kiến thống nhất với các tác giả trên (Nguyễn Thị Kỳ, 1994; Nguyễn Thị Lê và
cs, 1996; Johannes Kaufmann, 1996; Urquhart G. M. và cs, 1996; Phạm Văn Khuê và
cs, 1996).

Đào Hữu Thanh và Lê Sinh Ngoạn (1980), Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1975), Nguyễn Thế Hùng (1994, 1996), Nguyễn Thị Kim Lan (1997) cũng xác nhận 2 loài sán dây thuộc giống Moniezia ký sinh ở dê và các thú nhai lại khác. Nguyễn Thị Kim Lan (2000) cho biết, loài M. expansa phổ biến hơn so với loài M. benedeni (hệ số thường gặp loài M. expansa là 100, trong khi loài M. benedeni là 75).

Nhìn chung, so với các nhóm giun, sán khác thì sán dây ít được nghiên cứu hơn,
nên những hiểu biết về thành phần sán dây còn chưa được đầy đủ (Nguyễn Thị Kỳ, 1
994).

1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây Moniezia

Sán dây Moniezia có hình dải băng màu trắng. Cơ thể dài, dẹp chia thành ba phần: đầu (phần đầu có các giác bám), cổ (là những đất sán nối tiếp sau đầu, có khả năng sinh ra các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đất cổ chưa hình thành rõ), thân (gồm những đất sau cổ, có hình dạng và cấu tạo khác nhau).

Thân sán dây lại gồm ba loại đốt: những đốt chưa thành thục về sinh dục (ở gần


cổ), cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ, chỉ thấy cơ quan sinh dục đực. Những
đốt thành thục về sinh dục (ở giữa thân), cơ quan sinh dục trong những đốt sán này đã
phát triển đầy đủ, có đủ cả cơ quan sinh dục đực và cái, có hệ bài tiết, cấu tạo mỗi đốt

64



tương tự như mỗi cơ thể sán lá, nhưng khác sán lá là không có hệ tiêu hoá. Những đốt già (ở cuối thân sán), bên trong đất sán chứa đầy tử cung với vô số trứng sán dây. Ở những đốt già, cơ quan sinh dục đực bị thoái hoá. Những đốt già thường xuyên được rời khỏi cơ thể sán và theo phân ra ngoài.

Sán dây Moniezia được bao bọc bằng lớp da cơ gồm các lớp: cuticun, màng bazan và lớp dưới cuticun, tiếp theo là lớp cơ.

Ở lớp cuticun bên ngoài có nhiều lỗ thoát nhỏ, lớp cơ gồm nhiều bó cơ vòng và cơ dọc. Bên trong lớp cơ là các khí quan của sán.

Sán dây Moniezia cũng giống các sán dây khác ở đặc điểm không có hệ tiêu hoá, sán lấy thức ăn bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.


Hệ thần kinh của sán gồm các hạch phân bố ở đầu, nối với 2 dây thần kinh chạy qua các đốt sán về cuối thân.

Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp tiêu giảm. Hô hấp theo kiểu yếm khí.

Hệ bài tiết gồm 2 ống chính từ đầu sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra, ở mỗi đốt sán còn có những ống ngang nối liền với 2 ống chính.

Hệ sinh dục có trong mỗi đất sán. Cơ quan sinh dục đực gồm nhiều tinh hoàn,
mỗi tinh hoàn được nối với ống dẫn tinh riêng, các ống này đổ vào ống dẫn tinh chung
và thông với túi sinh sản. Phần cuối của ống dẫn tinh trong túi sinh sản là dương vật
thông với bên ngoài qua lỗ sinh dục đực. Cơ quan sinh dục cái gồm Ootype (ngã tư
sinh dục). Ootype thông với tử cung, buồng trứng, tuyến noãn hoàng, tuyến Mehlis,
âm đạo. Phần cuối của âm đạo là lỗ sinh dục cái thông với bên ngoài và ở cạnh lỗ sinh
dục đực.

Sán dây Moniezia thuộc bộ Cyclophyllidea nên có đặc điểm: tử cung phân nhánh, không có lỗ thông với bên ngoài. Tuyến noãn hoàng tập trung, có hình khối. Trứng nằm trong tử cung. Sán Moniezia không đẻ trứng mà đốt sán già sẽ tách khỏi thân và theo phân ra ngoài.

Hình thái của M. expansa và M. benedeni có những đặc điểm riêng:
65


- M. expansa: dài 1 - 5m, chỗ rộng nhất có thể tới 1,6 cm. Đầu sán hơi tròn, có 4
giác bám hình bầu dục hơi tròn. Chiều rộng đất sán lớn gấp khoảng 4 lần chiều dài đốt
sán. Mỗi đất có cả cơ quan sinh dục đực và cái. Cơ quan sinh dục đực gồm nhiều tinh
hoàn (300 - 400 cái) hình cầu nhỏ ở giữa đốt sán. Mỗi tinh hoàn có ống dẫn tinh riêng,
hợp thành ống chung thông với túi dương vật hình lê và lỗ sinh dục đực. Cơ quan sinh
dục cái kép, gồm buồng trứng phân thuỳ hình quạt, tuyến dinh dưỡng, tử cung và âm
đạo, âm đạo có lỗ thông ra cạnh bên đất sán. Phần sau mỗi đốt sán có tuyến gian đốt
hình hoa thị xếp thành hàng ngang. Đất sán già có tử cung hình túi chứa đầy trứng sán.
Trứng của M. expansa hình ba cạnh hoặc bốn cạnh hơi tròn, trong có ấu trùng 6 móc.
âu trùng 6 móc được bao bọc trong cơ quan hình lê. Kích thước trứng khoảng 0,05 x
0,06 mm.

- M. benedeni: sán dài 2 - 4 m, đất sán rộng hơn một chút so với đất của

M.expansa. Đầu có 4 giác bám tròn, sâu. Nhìn chung, hình thái của sán dây M. benedeni tương đối giống M. expansa. Có một điểm quan trọng để phân biệt hai loài là sự sắp xếp của tuyến gian đốt. Ở loài này, tuyến gian đất có dạng vạch, nằm tập trung ở giữa đốt sán.

Trứng sán cũng có hình ba cạnh hoặc bốn cạnh hơi tròn, trong có ấu trùng 6 móc. Kích thước trứng khoảng 0,063 x 0,086 mm.

Theo Nguyễn Thế Hùng (1996), dê ở trung tâm nghiên cứu dê thỏ Sơn Tây cũng bị nhiễm sán dây Moniezia với tỷ lệ khá cao.

Nghiên cứu về bệnh sán dây Moniezia ở đàn dê của 4 tỉnh miền núi phía Bắc (Thái Nguyên, Bắc Kim, Tuyên Quang, Cao Bằng), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1997 - 2000), đã mổ khám 748 dê địa phương, phát hiện dê ở 4 tỉnh trên bị nhiễm cả 2 loài sán dây M.expansa và M. benedeni. Tuy nhiên, tác giả cho biết, sán có chiều dài cơ thể ngắn hơn, đặc biệt là chiều rộng đốt sán nhỏ hơn nhiều so với các tài liệu kinh điển mô tả (chiều rộng đất sán chỉ đạt tới gần 1 cm).

66


1.3. Chu kỳ sinh học của sán dây Moniezia

M. expansa và M. benedeni là hai loài sán dây ký sinh ở ruột non của súc vật


nhai lại (dê, cừu, trâu, bò, hươu và những dã thú nhai lại khác). Súc vật nhai lại là vật
chủ cuối cùng của sán, giúp sán hoàn thành vòng đời và ký sinh ở giai đoạn thành
thục. Để hoàn thành vòng đời, sán dây Moniezia cần vật chủ trung gian là nhiều loài
nhện đất thuộc họ Oribatidae như: Galumna cunarginata, G. obvius, G. nigara,
Scheloribates taevigatus, S. latipes... (Trịnh Văn Thịnh, 1963; Phan Địch Lân và

Nguyễn Thị Kim Lan, 2002).

Vòng đời của sán dây Moniezia diễn ra như sau:

Đất sán già rụng, theo phân dê, cừu, bò, trâu ra ngoài (sán dây Moniezia thuộc họ Anoplocephalidae, bộ Cyclophyllidea nên không đẻ trứng). Đất sán phân huỷ ở ngoại cảnh. giải phóng nhiều trứng sán. Trứng sán dây phát tán ở trong đất, được các loài nhện đất họ Oribatidae ăn phải. Vào đường tiêu hoá của nhện đất, trứng nở thành ấu trùng 6 móc, rồi phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh (Cysticercoid) trong cơ thể nhện đất. Thời gian từ khi nhện đất nua trứng sán đến khi phát triển thành Cysticercoid cần khoảng 120 - 180 ngày .

Nhiều tác giả cho biết, có 28 loài nhện đất thuộc họ Oribatidae, nhưng phổ biến là hai loài: Scheloribates laevigatus và S. latipes là ký chủ trung gian của sán dây Moniezia. Thời gian nhện đất phát triển từ ấu trùng thành trưởng thành rất ngắn, thời gian sống của chúng lại dài (14 - 19 tháng). Vì vậy, ấu trùng gây bệnh cũng tồn tại lâu trong thiên nhiên.

Nhện đất có đặc điểm là ưa sống trên đất bỏ hoang, số lượng rất lớn, mỗi mét


vuông có thể có từ vài nghìn đến hàng chục nghìn con. Nếu đồng cỏ được cải tạo luôn
thì số lượng nhện đất giảm. Nhện đất sống ở môi trường có nhiệt độ, ẩm độ nhất định.
Nếu quá lạnh hoặc quá nóng thì nhện đất di chuyển đi chỗ khác. Khi nóng (300C, ánh
sáng mạnh) và khô, chúng từ thân cây, cỏ bò xuống rễ, có khi xuống sâu 4 - 5 cm. Khi
trời mưa, đất ẩm ướt và ít ánh sáng mặt trời, chúng lại bò từ dưới đất lên cây cỏ.
Thường thì chúng hoạt động vào sáng sớm, buổi chiều và tối. Giữa trưa ánh sáng
mạnh, ít thấy nhện đất. Nhện đất họ Oribatidae có kích thước nhỏ, thân phủ lớp kinh
cứng, màu nâu đỏ.

Ký chủ cuối cùng là dê, cừu, bò... . ăn cỏ, cây có lăn nhện đất. Vào đường tiêu

hoá, nhện đất được tiêu hoá nhờ enzym trong đường tiêu hoá gia súc nhai lại, ấu trùng
được giải phóng ra, bám vào niêm mạc ruột non, thẩm thấu dinh dưỡng qua bề mặt cơ
thể, phát triển thành sán dây trưởng thành. Thời gian từ lúc súc vật nhai lại nuốt phải
nhện đất mang ấu trùng gây bệnh, đến khi phát triển thành sán dây trưởng thành dài
ngắn tuỳ loài sán: M. expansa cần khoảng 37 - 40 ngày, M. benedeni cần khoảng 50
ngày.

67


Theo Drozdz J. và Malcrewski A. (1971), Trịnh Văn Thịnh (1978), 24 - 48 giờ


sau khi trứng sán dây Moniezia được nhện đất nuốt, đã thấy ấu trùng trong xoang cơ
thể nhện. Thời gian ấu trùng phát triển trong cơ thể nhện đất khoảng 120 - 180 ngày,
thời gian Moniezia phát triển thành trưởng thành ở cơ thể loài nhai lại khoảng 1 tháng.
Sán dây trưởng thành sống trong cơ thể ký chủ khoảng 75 ngày, trường hợp lâu nhất
tới 5 - 6 tháng.

Sengbusch H. G. (1977) cho rằng, những đốt sán và trứng sán được thải theo


phân của động vật nhiễm sán. Những đốt này có thể bị chim ăn và chim trở thành
nguồn gieo rắc căn bệnh. Cysticercoid phát triển trong ký chủ trung gian xấp xỉ 4
tháng.

Thời gian phát triển thành ấu trùng gây nhiễm Cysticercoid ở trong cơ thể nhện đất - ký chủ trung gian có thể ngắn hơn (l - 4 tháng) (Urquhart và cs, 1996).

2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC CỦA BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA

Sự phát sinh và phát triển của bệnh do Moniezia gây ra phụ thuộc vào các yếu tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ, tuổi súc vật nhai lại và sức đề kháng của mầm bệnh ở ngoài tự nhiên.

- Yếu tố thời tiết khí hậu và mùa vụ

Điều kiện khí hậu ôn hoà, thời tiết ẩm ướt là điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại và


phát triển của các loài nhện đất họ Oribatidae. Như đã trình bày ở trên, điều kiện nhiệt

độ lừ 300C trở lên, ánh sáng mạnh, thời tiết khô hanh là điều kiện bất lợi cho hoạt động của nhện đất - vật chủ trung gian của sán dây Moniezia.

Thời tiết khí hậu quyết định tính đặc trưng của các yếu tố mùa vụ. Mùa xuân và
68


mùa hè là các mùa ấm, ẩm ướt, mưa nhiều. Vì vậy, vào mùa xuân và mùa hè, nhện đất có điều kiện sống, phát triển nhanh về số lượng. Đồng thời, vào những mùa này, nhện đất trưởng thành cũng có điều kiện thuận lợi hơn để di chuyển từ dưới đất lên thân cây, cỏ. Súc vật nhai lại chăn thả vào những thời điểm này dễ cảm nhiễm sán dây Moniezia do ăn cỏ cây có lẫn nhện đất mang Cysticercoid.

Nghiên cứu về dịch tễ học của bệnh do hai loài sán dây thuộc giống Moniezia, họ Anoplocephalidae gây ra, Sengbusch H. G. (1977) cho biết, bệnh có tính chất mùa vụ rõ rệt. Tỷ lệ nhiễm Moniezia tăng lên vào mùa hè và giảm đi vào mùa đông. Tác giả giải thích, nguyên nhân là do nhện đất - ký chủ trung gian của Moniezia ở trên đồng cỏ phát triển nhiều hơn trong mùa hè, và giảm đi ở mùa đông.

Nguyễn Thế Hùng (1994) cũng xác nhận quy luật mùa vụ khi điều tra tình hình nhiễm giun sán ở đàn dê của Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ Sơn Tây và nông trường Đồng Mô: tỷ lệ nhiễm ở vụ Hè - Thu cao hơn vụ Đông - Xuân.

Nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây Moniezia ở đàn dê địa phương của tỉnh Bắc Thái (cũ), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998) thấy, tỷ lệ nhiễm Moniezia ở dê trong vụ Đông - Xuân là 12,3 - 15,4%; trong khi tỷ lệ nhiễm trong vụ Đông - Xuân là 20,8 - 28,8%, cường độ nhiễm trong vụ Hè - Thu cũng nặng hơn vụ Đông - Xuân. Theo dõi lặp lại hai lần và xử lý thống kê, tác giả khẳng định, sự sai khác về tỷ lệ nhiễm này là rõ rệt.

- Yếu tố tuổi vật chủ cuối cùng

Bệnh do Moniezia gây ra thấy nhiều ở động vật nhai lại non. Hetherington L. (1 995) cho rằng, bệnh do Moniezia gây ra ở dê là bệnh ký sinh trùng nặng và gây tác hại lớn nhất đối với dê non, ở dê trưởng thành ít mắc bệnh hơn.

Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) cho biết, ở bò, bệnh do Moniezia ít thấy lưu hành, chỉ thấy ở bê 3 - 4 tháng tuổi, hiếm thấy ở bê từ 8 tháng tuổi trở lên.

Theo Urquhart và cs (1996), thường thấy gia súc nhai lại non nhiễm nhiều và


nặng trong mùa hè đầu tiên của chúng trên đồng cỏ. Dê, cừu non nhiễm Moniezia rất
sớm và có thể thải những đất sán già ở trong phân khi chúng mới được 6 tuần tuổi. Sự
cảm nhiễm ở súc vật già ít thấy và thường nhẹ. Bê dưới 1 năm tuổi cũng bị bệnh.

- Yếu tố lây truyền bệnh

Nhện đất Oribatidae - vật chủ trung gian chính là yếu tố làm lây truyền bệnh từ
súc vật bệnh sang súc vật khoẻ. tình hình nhiễm sán dây Moniezia hoàn toàn phụ thuộc
vào sự phân bố và khả năng sinh sống của nhện đất trên đồng cỏ, bãi chăn. Nhện đất
phân bố rộng khắp các vùng, chúng đặc biệt thích hợp với những khu vực đồi, bãi bỏ
hoang lâu ngày không canh tác. Ngoài khả năng sinh sản lớn thì thời gian mà ấu trùng
phát triển thành nhện trưởng thành tương đối ngắn. Đó là nguyên nhân làm cho số
lượng nhện đất tăng lên rất nhanh. Phạm Văn Khuê và cs (1996) cho biết, ở nhiệt độ
69


200C, ẩm độ 100%, thời gian hoàn thành vòng đời của nhện đất là 47 - 109 ngày. Nhện trưởng thành sống thời gian dài ở ngoài tự nhiên (14 - 19 tháng). Điều kiện thuận lợi cho nhện đất hoạt động là nhiệt độ 18 - 250C, độ ẩm cao và ánh sáng yếu.

- Sức đề kháng của trứng Moniezia

Đốt sán già theo phân gia súc ra ngoài bị phân huỷ, giải phóng ra nhiều trứng

sán.


Khi trứng sán dây ở trong nước hoặc ở chuồng gia súc ẩm ướt, trong 10 - 15 ngày có 30 - 40% số trứng bị chết, sau 40 - 50 ngày có 93 - 99% chết. Ở nơi khô ráo, trong 6 giờ có tới 30 - 35% số trứng chết. Đất sán ở nơi khô ráo thì trứng trong đốt bị chết 50% trong 10 ngày đêm và chết hết sau 60 ngày. Ở trong phân khô tự nhiên, sau 10 ngày có đến 98% số trứng sán bị chết.

- Tình hình nhiễm sán dây Moniezia

Theo kết quả điều tra của Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1975), đàn dê của
trại X (Nam Hà) nhiễm 5 loại giun sán (sán lá gan, sán lá dạ cỏ, sán dây, giun xoăn và
giun tóc) Trong đó, đáng chú ý là tình trạng nhiễm sán dây: dê đực giống nhiễm 40%,
dê cái hậu bị nhiễm 66,6%, dê dưới 1 năm tuổi nhiễm 80%; cường độ nhiễm từ 5 - 14
sán dây/dê.

Điều tra trên đàn dê của Ba Sao (Ninh Bình), Đào Hữu Thanh và Lê Sinh Ngoạn


(1980) thấy, đê nhiễm giun sán với tỷ lệ cao, trong đó, nhiễm sán dây Moniezia đến
88%.

Rao J. R. và Deorani V. P. S. (1988) cho biết, xét nghiệm phân trâu, bò, dê ở huyện Port Blair (ấn Độ), thấy bò nhiễm sán dây Moniezia là 2,1%, dê là 3%.

Kiểm tra ký sinh trùng ngẫu nhiên 4 năm 1 lần trên 3613 súc vật nhai lại, gồm 503 cừu và 3110 dê ở Karanchi, kết quả phát hiện được nhiều loài giun, sán, trong đó có sán dây Moniezia sp. (Bilquees, 1988).

Xét nghiệm các mẫu phân của bò, trâu, dê, cừu ở thung lũng Kangra - ấn Độ, kết quả là trong số 1194 gia súc có 1017 con nhiễm từ một đến nhiều loại ký sinh trùng (85%). Riêng tỷ lệ nhiễm sán dây Moniezia thì bò nhiễm 1%, trâu 0,7%, không thấy dê và cừu nhiễm (Krishna L. và cs, 1989).

Thu thập mẫu phân dê của 5 trại nuôi dê ở những khu vực khác nhau của Costa
Rích, người ta đã tìm thấy trứng của 5 loài giun tròn và rất nhiều đất sán dây Moniezia.
Mặc dù chưa thấy triệu chứng ỉa chảy, nhưng số dê gầy yếu rất nhiều (Alvarado R. và
cs, 1990).

Nghiên cứu về tình hình nhiễm giun sán của dê và cừu ở huyện Filiano, tỉnh Potenza (Ý) Quesada A. và cs (1990) cho biết, kiểm tra phân của 20 đàn dê, cừu thì cả 20 dàn đều nhiễm ký sinh trùng đường ruột, trong đó có 11 đàn nhiễm sán dây Moniezia với cường độ nhiễm từ nhẹ đến nặng.

70


Nguyễn Thế Hùng (1994) đã điều tra thấy, dê tại Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ
Sơn Tây và nông trường Đồng Mô nhiễm 4 loại giun sán (sán lá gan, sán lá dạ cỏ, giun
xoăn dạ múi khế và sán dây). Dê nhiễm sán dây Moniezia với tỷ lệ tương đối cao
(50,66%).

Qua xét nghiệm 666 mẫu phân và mổ khám 27 dê thuộc 3 giống (Bách Thảo, ấn Độ và dê cỏ) ở một số cơ sở nuôi dê, Nguyễn Thế Hùng (1996) cho biết, dê nhiễm hai loài sán dây M. expansa và M. benedeni. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở dê cỏ (5 1 %), sau đó đến dê Bách Thảo (28%) và dê ấn Độ (13%). Dê 4 - 7 tháng tuổi nhiễm nặng nhất (43,7%), thấp nhất là dê trên 12 tháng tuổi (8%).

Mổ khám 748 dê trưởng thành ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam (Thái Nguyên, Bắc Kim, Tuyên Quang, Cao Bằng), Nguyễn Thị Kim Lan (2000) thấy, tỷ lệ nhiễm sán dây M. expansa là 3,1% (cường độ nhiễm từ 1 - 10 sán/dê), M. benedeni là 2% (cường độ nhiễm 1 - 3 sán/dê). Tác giả cũng xét nghiệm phân dê các lứa tuổi nuôi tại 4 tỉnh trên, kết quả thấy tỷ lệ nhiễm Moniezia sp biến động từ 10% - 19,55%. Trong đó, dê địa phương nuôi ở tỉnh Thái Nguyên nhiễm nhiều nhất, rồi đến Bắc Kim, Cao Bằng, thấp nhất là ở Tuyên Quang.

3. ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG CỦA BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA

3.1. Đặc điểm gây bệnh của Moniezia

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), trong quá trình ký sinh, sán dây


Moniezia gây những tác hại lớn cho súc vật nhai lại, biểu hiện ở những tác động sau:

- Tác động của chất độc: trong quá trình sống, sán sinh ra các chất độc. Chất độc kích thích trực tiếp đến ruột, hạch lâm ba, màng treo ruột, thận... gây nên những tổn thương, làm cho súc vật rối loạn tiêu hoá, giảm khả năng thải trừ chất cặn bã của quá trình đồng hoá. Súc vật non chậm lớn, sức đề kháng giảm sút, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm mãn tính và các bệnh ký sinh trùng khác. Độc tố của sán còn đầu độc thần kinh ký chủ, làm cho ký chủ có triệu chứng thần kinh.

- Tác động cơ giới: đầu sán dây Moniezia có 4 giác bám rất khoẻ. Sán dùng 4
giác bám này bám chặt vào niêm mạc ruột, gây tổn thương, xuất huyết ở niêm mạc
ruột. Sán có kích thước lớn (dài 1 - 5m, chiều rộng có thể dài tới 1,6 cho nên chỉ vài
con sán đã có thể gây tắc mật trong ruột. Tuy nhiên, một vật chủ có thể bị vài chục con
sán ký sinh, chúng tập trung ở ruột non, làm ruột phình to, tắc hoặc lồng ruột, có khi
vỡ ruột.

- Tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ: sán dây Moniezia lấy dinh dưỡng là dưỡng chấp ở ruột non ký chủ bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể. Người ta đã nghiên cứu và thấy rằng, một ngày đêm mỗi sán dài thêm 8 cái. Như vậy, chúng phải lấy rất nhiều chất dinh dưỡng của vật chủ.

Nhận xét về vai trò gây bệnh của những sán dây thuộc giống Moniezia, nhiều tác
71


giả cho rằng, chúng là một trong những ký sinh vật gây bệnh nhiều nhất ở loài nhai lại. Ở một số nước, chúng được coi như loại ký sinh vật gây bệnh nặng nhất và gây tỷ lệ chết cao nhất ở gia súc bệnh, đặc biệt ở gia súc non (Hetherington L., 1995).

Theo Kates K. C. và cs (1951), trường hợp nhiễm nặng Moniezia, ruột non có rất


nhiều sán, sán gây tổn thương ở ruột, làm con vật rối loạn tiêu hoá (ỉa chảy và mất
nước), có thể gây tắc ruột non. Sự nhiễm Moniezia được coi là hiện tượng bệnh lý
nặng ở cừu non. Sán gây ảnh hưởng xấu tới sản xuất thịt và lông của cừu làm nhiều
con chết.

3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh sán dây ~toniez.ra

Biểu hiện lâm sàng nặng hay nhẹ phụ thuộc vào mức độ nhiễm. Súc vật ăn ít,
khát nước, phân từ bình thường chuyển sang nhão rồi lỏng, có lẫn máu và chất nhầy,
trong phân có lẫn những đốt sán. Một số trường hợp thân nhiệt tăng, hay nằm, lười vận
động. Con vật gầy yếu dần, lông xù và mất độ bóng. Thiếu máu do thiếu dinh dưỡng
thể hiện rất rõ ở màu sắc nhợt nhạt, xanh tái của niêm mạc. Một số trường hợp súc vật
nhai lại bị bệnh thể hiện triệu chứng thần kinh (run rẩy, lảo đảo, xoay tròn, đầu lúc
lắc... .).

Theo Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1975), dê ở trại X (Nam Hà) bị bệnh sán dây Moniezia rất nặng, 80 - 90% dê chết ở lứa tuổi dưới 1 năm. Dê chết trong tình trạng gầy sút rõ rệt, bụng ỏng, ỉa chảy, phân dính bê bết. Về cuối bí ỉa, ỉa ra bọt, co rặn đau đớn và chết. Một số con có biểu hiện đi vòng quanh.

Nguyễn Thế Hùng (1996) cũng nhận xét tương tự về triệu chứng của dê bị bệnh sán dây Moniezia.

Theo dõi 32 dê lứa tuổi 4 - 12 tháng nhiễm sán dây Moniezia với cường độ


nhiễm nặng và rất nặng (qua xét nghiệm phân), Nguyễn Thị Kim Lan (2000) cho biết,
100% số dê theo dõi có triệu chứng gầy yếu, cơ thể suy nhược nặng do mất dinh
dưỡng; 53,12% số dê bị thiếu máu, niêm mạc mắt nhợt nhạt, mắt lờ đờ; 100% số dê có
biểu hiện rối loạn tiêu hoá, trong đó có 71,87% ỉa chảy nặng, phân dính bê bết ở vùng
dưới hậu môn, đuôi và khoeo chân và 28,13% ỉa phân nhão không thành viên; 100%
số dê theo dõi thấy có nhiều đốt sán trong phân, có thể thấy cả đoạn sán dây lủng lẳng
ở hậu môn; 12,5% có triệu chứng thần kinh (run rẩy, đầu hay ngoảnh lại sau, đi xoay
vòng quanh đầu).

3.3. Bệnh tích do sán dây Moniezia gây ra

Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), bệnh
tích thể hiện rõ ở súc vật nhai lại còn non (dê, cừu non và bê). Ở súc vật trưởng thành
và đã già bệnh tích không rõ. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình trạng nhiễm sán
dây Moniezia (gia súc non nhiễm nhiều và nặng, trong khi những con trưởng thành
nhiễm ít hơn và nhẹ hơn). Các tác giả đều thống nhất, bệnh tích thấy rõ nhất ở ruột
non. Ruột non viêm cataz, niêm mạc có thể có những điểm xuất huyết, trong ruột non

72



chứa nhiều sán, có khi tắc ruột. Ngoài ra, có thể thấy hiện tượng tích nước ở lồng ngực, bụng và bao tim.

Nguyễn Thị Kim Lan (1998, 2000) đã mổ khám 748 dê 1 - 4 năm tuổi, thấy 38 dê nhiễm sán dây Moniezia, trong 38 dê này có 7 dê có bệnh tích rõ rệt (5 - 10 sán dây/dê). Tác giả đã quan sát và mô tả những bệnh tích đại thể lặp đi lặp lại ở những dê mổ khám như sau: nhìn bên ngoài ruột non cũng thấy nhiều sán dây màu trắng đục nằm dọc chiều dài của ruột, có cảm giác như xếp kín lòng ruột (vì thành ruột non của dê rất mỏng nên có thể nhìn thấy từ bên ngoài). Niêm mạc ruột non viêm cataz, có nhiều điểm xuất huyết, nhất là ở chỗ niêm mạc mà đầu sán dây bám vào. Xung quanh những chỗ đó, niêm mạc ruột hơi sùi lên và đỏ hơn những vùng khác. Có nhiều chất nhầy màu nâu phủ trên niêm mạc ruột non.

Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) một lần nữa mô tả bệnh tích
của dê bị bệnh sán dây Moniezia - một trong những bệnh ký sinh trùng đáng chú ý ở
đàn dê

Biến đổi vi thể ở ruột non do sán dây Moniezia dưới kính hiển vi được Nguyễn Thị Kim Lan (2000) ghi lại như sau: ở độ phóng đại 10 x 15, lông nhung ruột bị tổn thương, đỉnh lông nhung tù, một số chùn lại, một số lông nhung bị đứt nát


Mao quản trong các lông nhung ruột bị xung huyết do tác động cơ học và độc tố của sán dây (hình 87).

73



Ở độ phóng đại 15 x 40, thấy sự tăng sinh của nhiều tế bào viêm, đặc biệt là tương bào (plasmocyte) ở hạ niêm mạc ruột non (hình 88).

Tác giả giải thích, khi súc vật nhai lại bị sán dây Moniezia ký sinh với số lượng nhiều, sán chèn ép, dùng giác bám vào niêm mạc ruột, đồng thời tiết độc tố. Hậu quả của tác động cơ học và độc tố đã gây tổn thương lông nhung ở ruột. Độc tố còn tác động vào thành mao quản trong các lông nhung, làm giãn mao quản, máu dồn đến nhiều gây hiện tượng xung huyết. Khi ruột non viêm cataz do tác động của sán dây, các tế bào viêm, đặc biệt là tương bào xuất hiện ở lớp hạ niêm mạc ruột non. Điều này chứng tỏ có quá trình viêm mãn tính ở niêm mạc ruột.

4. CHẨN ĐOÁN BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA

Để chẩn đoán bệnh do sán dây Moniezia gây ra, có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng, kết hợp với xét nghiệm phân tìm đốt sán. Những triệu chứng đáng chú ý là: gày yếu suy nhược, thiếu máu, tiêu chảy, phân có nhiều đốt sán.

Nếu số lượng đất sán trong phân nhiều thì có thể trực tiếp tìm đất sán trong phân. Trường hợp súc vật nhiễm nhẹ, chỉ có ít đốt sán thì xét nghiệm phân tìm đốt sán và mảnh đốt sán bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943), cho cặn lên giấy tìm đốt và mảnh đốt sán. Có thể dùng phương pháp Fullebom tìm trứng sán khi đốt sán già vỡ ra (Mckenna P. B., 1981, Han sen J., 1994). Trứng sán dây Moniezia hình ba cạnh hoặc bốn cạnh hơi tròn, trong có ấu trùng 6 móc bao bọc trong có hình lê. Cần chú ý là, có khi trong ruột có sán dây ký sinh nhưng không tìm thấy trứng vì tử cung của sán dây Moniezia khép kín, không theo phân ra ngoài.

Khi sán dây chưa thành thục, đốt sán già chưa thải theo phân, có thể điều trị để chẩn đoán (gọi là chẩn đoán bằng điều trị). Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), có thể dùng dung dịch sulfat đồng 1%, liều 2 - 2,5 ml/kgTT cho con vật uống, sau 7 -


10 giờ sán bị tẩy ra.

Cũng bằng phương pháp điều trị để chẩn đoán bệnh do Moniezia gây ra ở dê, Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) cho biết, có thể dùng thuốc Niclosamid - Tetramisol B liều 1 viên (5000 mới cho 75 - 80 kgTT dê, sau 8 - 10 giờ nếu có thì sán sẽ bị tẩy ra theo phân.

74


Đối với súc vật chết, mổ khám kiểm tra bệnh tích và tìm sán dây ở ruột non.

5. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA Ở SÚC VẬT NHAI LẠI

5.1. Điều trị bệnh

Điều trị bệnh sán dây Moniezia có thể dùng các thuốc sau:

- Dung dịch sulfat đồng 1%. Cho uống theo liều lượng từ 15 ml đến 150 ml tuỳ theo tuổi và loại vật chủ.

Đối với bê: dùng liều chung là 2 - 3 ml/kgTT Bê 3 - 6 tháng tuổi: 120 - 1 50 ml

Đối với dê: dùng liều chung là 1 ,5 - 2 ml/kgTT Dê trưởng thành: không quá 60 ml

Đối với cừu:

Cừu 1 - 15 tháng tuổi : 15 - 20 ml
Cừu 3 - 6 tháng tuổi: 80 - 100 ml
Cừu trưởng thành : 120 - 150 ml

Dung dịch sulfat đồng 1% dùng tẩy sán dây Moniezia có ưu điểm: hiệu quả cao, giá thành hạ, dễ áp dụng. Khi pha dung dịch sulfat đồng 1% cần chú ý: pha bằng nước cất hoặc nước mưa sạch, không dùng dụng cụ kim loại. Có thể dùng đồ thuỷ tinh, đồ gỗ, pha xong dùng ngay. Cho uống qua ống cao su, một đầu gắn với phễu để đổ thuốc vào, không để thuốc lọt vào khí quản. Nếu súc vật trúng độc, cho ăn 1 - 3 quả trứng gà sống hoặc uống 5 - 10 gam Oxyt magie (MgO).

- Niclosamid

Niclosamid là dẫn chất của Salicylanilid. Thuốc có dạng bột kết tinh màu vàng nhạt, không hoà tan trong nước. Thuốc không hấp thu qua niêm mạc đường tiêu hoá nên dùng để tẩy giun, sán đường tiêu hoá rất tốt.

Niclosamid được bào chế ở dạng bột, viên nén, viên nhộng, cốm và nhũ tương.

Thuốc Niclosamid được chỉ định dùng điều trị bệnh sán dây Moniezia, thuốc có hiệu lực rất cao.

Liều lượng: cho gia súc nhai lại uống một trong các dạng bào chế ở trên với liều 70 - 80 mg/kgTT. Tốt nhất là chế thuốc thành dạng nhũ tương rồi cho uống ngay.

- Niclosamid - Tetramisol B

Niclosamid - Tetramisol B là một biệt dược kết hợp hai loại thuốc trị ký sinh trùng đường tiêu hoá, có tác dụng tốt với sán dây và các loài giun tròn.

Thuốc được bào chế dưới dạng viên to, màu vàng nhạt. Mỗi viên có:


75

Niclosamid tinh khiết : 4 gam

Tetramisol hydroclorua : 940 mg

Tá dược VĐ

Thuốc Niclosamid - Tetramisol B có phổ hoạt lực rộng với nhiều loài sán dây và


giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá và đường hô hấp. Thuốc được chỉ định dùng điều
trị bênh sán dây Moniezia, các bệnh giun tròn đường tiêu hoá và bệnh giun phổi.

Liều lượng: 1 viên/ 75 - 80 kgTT. Cho uống.

- Albendazole

Albendazole là dẫn xuất của Imidazole, thuộc nhóm Benzimidazole.

Thuốc ở dạng bột màu trắng, không tan trong nước, được bào chế dưới dạng nhũ tương dầu, có khả năng dung nạp tốt ở nhiều loại gia súc.

Albendazole có tác dụng tẩy sán dây Moniezia, giun phổi và các giun xoăn dạ dày - ruột.

Liều lượng: 5 - 10 mg/kgTT. Cho uống dạng nhũ tương dầu Albendazole. Chế phẩm của Albendazole là Vermitan 20% (20% Albendazole)
Liều lượng: 25 - 35 mg/kgTT. Trộn thức ăn cho ăn.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng thuốc điều trị bệnh sán dây Momezia ở dê và bê.

Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1975) đã điều trị bệnh sán dây cho dê bằng dung dịch gồm: Sulfat đồng (lo gam) + nước cất (1000 ml + HCl (l - 4 ml). Cho uống 2 - 3 ml/kgTT, dùng tối đa 60 ml/dê. Hiệu lực tẩy sán dây đạt 80%.

Mishareva T. E. (1977) đã dùng Sulfat đồng phối hợp với Phenothiazine và muối ăn theo tỷ lệ l: l0: 100, dùng hàng ngày cho dê để phòng bệnh Moniezia. Tác giả còn cho biết những thuốc có hiệu lực trong điều trị bệnh do Moniezia là: Albendazole (l0 mg/kgTT), Fenbendazole (5mg/kgTT), Cambendazole (20 mg/kgTT), Oxyfendazole (5 mg/kgTT), Praziquantel (15 mg/kgTT), Resorantel (65 mg/kgTT), Bithionol (200 mg/kgTT), Niclosamid (75 - 150 mg/kgTT).

Đào Hữu Thanh và Lê Sinh Ngoạn (1980) đã dùng một số thuốc tẩy giun sán, trong đó có thuốc Niclomison để tẩy sán dây và giun tròn cho dê.

Misra S. C. và cs (1989) đã dùng thuốc Albendazole liều 7,5 mg/kgTT dùng tẩy


sán dây Moniezia cho bê và 5 mở!kim tẩy sán dây cho dê. Sau khi tẩy, theo dõi đến
ngày thứ 50 thấy phân vẫn âm tính với Moniezia. Thuốc không có tác dụng phụ.

Nguyễn Thế Hùng (1996) đã dùng Niclosamid - Tetramisol B tẩy sán dây cho dê thấy có kết quả tốt.


76


Sử dụng thuốc Oxfendazole, Vermitan, Niclosamid - Tetramisol B tẩy sán dây Moniezia cho dê ở tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) cho biết, Oxfendazole liều 5 mg/kgTT (cho uống) có hiệu lực tẩy Moniezia thấp (70%), ngoài ra còn làm cho 5% số dê dùng thuốc có phản ứng phụ. Thuốc Vermitan 20%, liều 35 mg/kgTT (cho uống) có hiệu lực tẩy Moniezia đạt 90% và an toàn 100%. Thuốc Niclosamid - Tetramisol B, liều 66 mg/kgTT (cho uống) đạt hiệu lực 100% với Moniezia và an toàn 100% với dê được dùng thuốc.

5.2. Phòng bệnh

Phòng bệnh Moniezia cho súc vật nhai lại bằng phương pháp phòng trừ tổng hợp bao gồm:

- Tẩy sán dây cho súc vật trước khi sán thành thục bằng một trong các loại thuốc trên. Đối với những đàn gia súc chăn thả trên bãi chăn đã có mầm bệnh thì sau khi chăn thả 30 - 35 ngày phải dùng thuốc tẩy và không để chậm quá sau ngày thứ 50. Tẩy 1 lần có thể không hết sán dây, vì vậy sau 10 - 15 ngày có thể tẩy lại lần 2 (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).

- Giữ vệ sinh bãi chăn, thu gom phân súc vật nhai lại để ủ diệt trứng sán dây; cải
tạo đất, trồng cấy những loại cỏ làm thức ăn cho gia súc, cải tạo đồng cỏ tự nhiên...
nhằm tiêu diệt mầm bệnh và khống chế ký chủ trung gian. Không chăn thả gia súc nhai
lại lúc sáng sớm, chiều tối và những ngày ẩm ướt (Phan Địch Lân và Nguyễn Thị Kim
Lan, 2002).

- Thực hiện những biện pháp phòng chống bệnh sán dây cho tất cả các súc vật nhai lại như trâu, bò, dê, cừu trưởng thành, vì chúng có thể truyền bệnh lẫn nhau và truyền bệnh cho gia súc non.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1963), Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), trong suốt thời gian chăn thả có thể cho gia súc uống thuốc phòng bệnh sán dây như: cho uống Sulfat đồng với muối ăn theo tỷ lệ 1 : 100, hoặc Sulfat đồng với Phenothiazine và muối ăn, theo tỷ lệ l: 5: 100. Nếu thời tiết nóng bức thì sau vài tháng uống thuốc lại dừng khoảng 2 - 4 tuần, rồi lại cho uống tiếp.

Đối với bệnh sán dây Moniezia, các tác giả đều thống nhất rằng, việc dùng thuốc phòng bệnh là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để tiêu diệt sán dây ngay từ khi chúng xâm nhập vào ký chủ, hoặc khi sán còn chưa đạt đến giai đoạn trưởng thành, chưa có đốt sán già thải theo phân nên chưa có khả năng phát tán mầm bệnh ra môi trường bên ngoài (Trịnh Văn Thịnh, 1963, 1978; Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Soulsby, 1982, Han sen, 1994; Urquhart, 1996; Kaufmann, 1996…)

Cũng đồng quan điểm này, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã dùng thuốc Vermitan
(chứa 20% Albendazole) để cùng lúc phòng bệnh sán dây Moniezia và các giun sán
đường tiêu hoá khác cho dê. Tác giả đã bố trí thử nghiệm thuốc phòng bệnh cho lô thí
nghiệm, lô đối chứng không dùng thuốc phòng. Sau 1 tháng, 2 tháng và 3 tháng thí

77



nghiệm, xét nghiệm phân dê ở cả 2 lô thí nghiệm và đối chứng để xác định tỷ lệ nhiễm giun, sán. Kết quả cho thấy, sau 1 tháng thí nghiệm, dê ở lô thí nghiệm không nhiễm Moniezia, trong khi lô đối chứng nhiễm 11,43%. Sau 2 tháng, lô thí nghiệm nhiễm Moniezia là 8,57%, lô đối chứng nhiễm 20%. Sau 3 tháng, lô thí nghiệm nhiễm 1 1,43%, lô đối chứng nhiễm 25,71%. Từ thí nghiệm này, tác giả có nhận xét rằng, thuốc Vermitan 20%, liều 35 mg/kgTT đã có tác dụng tẩy phòng sán dây và một số loại giun sán đường tiêu hoá khác ở dê.

Từ kết quả nghiên cứu phòng trị bệnh giun sán đường tiêu hoá cho dê, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã đề xuất quy trình phòng chống tổng hợp bệnh giun sán đường tiêu hoá dê, trong đó có phòng chống bệnh sán dây Moniezia, gồm những biện pháp sau: Một là, tẩy sán dây ở đường tiêu hoá dê

Để tẩy sán dây có hiệu quả, cần phải chọn thuốc tẩy đạt các yêu cầu: hiệu quả
cao, ít độc không nguy hiểm, phổ rộng (đa giá trữ, thuận tiện khi sử dụng và rẻ tiền.
Tuy nhiên, trên thị trường hiện nay chưa có loại thuốc nào đạt được tất cả các yêu cầu
trên. Vì vậy tuỳ điều kiện của từng địa phương mà lựa chọn thuốc cho phù hợp.

Tác giả khuyến cáo rằng, trước hết, phải ưu tiên tẩy cho những con bị nhiễm


nặng hoặc có biểu hiện lâm sàng của bệnh sán dây. Sau đó, định kỳ tẩy sán dây cho cả
đàn dê khi kiểm tra phân thấy có 30% số dê trong đàn nhiễm hoặc có triệu chứng lâm
sàng, đặc biệt đối với dê dưới 1 năm tuổi. Để giảm bớt thời gian, nhân lực và tác động
không tốt đối với dê, nên chọn thuốc tẩy được nhiều loại giun sán như thuốc Vemlitan
20% hoặc các chế phẩm của Albendazole, cũng có thể kết hợp sử dụng hai thuốc
Niclosamid Tetramisol B và Dertil để tẩy dự phòng giun sán cho dê và các gia súc nhai
lại khác. Khi tẩy, nhất thiết phải nhốt dê lại trong chuồng 3 - 5 ngày, dọn sạch phân
chuồng, tập trung ủ kỹ để tránh mầm bệnh vương vãi ra môi trường, bãi chăn thả.

Hai là, xử lý phân để diệt trứng và đôi sán dây

Hàng ngày dọn sạch phân ở chuồng nuôi dê, đồng thời thu gom phân trên đồng
cỏ, bãi chăn, tập trung vào một nơi, vun thành đống, đắp đất kín dầy 20 - 30 cm, để sau
3 - 4 tuần nhiệt độ đông ủ tăng lên, có tác dụng diệt được trứng và ấu trùng giun sán.
Có thể trộn thêm tro bếp, vôi bột và lá xanh vào phân để tăng thêm nhiệt độ của đống

ủ. Hoặc đào hai hố ủ phân ở cạnh nhau, phía sau chuồng nuôi, hàng ngày gom phân vào một hố, khi đầy trát kín miệng hố bằng bùn hoặc đắp đất, sau 3 - 4 tuần nhiệt độ hố ủ tăng lên trên 500C sẽ diệt được trứng và ấu trùng giun sán.

Ba là, vệ sinh chuồng nuôi dê

Chuồng nuôi dê phải giữ khô ráo, sạch sẽ, vì dây là nơi dê thường xuyên tiếp xúc với mầm bệnh giun sán do chính nó thải ra.

Bốn là, cải tạo đồng cỏ, bãi chăn thả để hạn chế sự phát triển của ký chủ trung

gian
78


Đồng cỏ, bãi chăn phải khô ráo, thường xuyên cầy lật đất, phơi nắng để diệt nhện đất - ký chủ trung gian của sán dây Moniezia. Không để tình trạng đồng cỏ, bãi chăn bỏ hoang hoá lâu ngày, có thể trồng lại những loại cỏ làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Năm là, tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng dê, đặc biệt là dê 4 - 7 tháng tuổi để nâng cao sức đề kháng với bệnh tật, trong đó có bệnh sán dây Moniezia

Đề cập đến vấn đề phòng bệnh sán dây Moniezia ở bò sữa, Phạm Sỹ Lăng, Lê


Văn Tạo và Bạch Đăng Phong (2002) cho rằng, có thể cho bò ăn đá liếm có thuốc
phòng nhiễm sán dây, giữ gìn chuồng trại và bãi chăn thả bò, đồng thời nuôi dưỡng và
chăm sóc tốt đàn bò, nhất là bê non để nâng cao sức đề kháng với mầm bệnh sán dây

Moniezia.

79



TÀI LIỆU THAM KHẢO (BỆNH SÁN DÂY MONIEZIA) * Tiếng Việt

1. Nguyễn Thế Hùng (1994), ‘‘Tình hình nhiễm giun sán ở dê", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập I, số 5.

2. Nguyễn Thế Hùng (1996), ‘‘Bệnh sán dây ở dê và biện pháp phòng trị ", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập III, số 3, Tr. 54 - 56.

3. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 86 - 91.

4. Nguyễn Thị Kỳ (1994), Sán dây (Cestoda) ký sinh ở động vật nuôi Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản khoa học & kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 11 - 15.

5. Nguyễn Thị Kim Lan (1997), "Bệnh sán dây ở dê và biện pháp phòng in ", Tạp chí khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, Tập I, số 2.

6. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1997), "Tình hình nhiễm giun sán đường tiêu hoá ở đàn dê tỉnh Bắc Thái " Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập IV, số 1 .

7. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998), "Biến động nhiễm giun sán đường tiêu hoá ở đàn dê Bắc Thái theo tuổi, mùa vụ và tính biệt", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập V, số 1 .

8. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998), "Những nhận xét về bệnh tích đại thể và một số chỉ tiêu huyết học của dê nhiễm giun sán đường tiêu hoá", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập V, số 9. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), "Hiệu quả của việc dùng thuốc tẩy phòng bệnh giun sán đường tiêu hoá cho dê địa phương ở miền núi ", Tạp chí khoa học và công nghiệp - chuyên đề canh tác lâu bền trên đất dốc, ĐH Thái Nguyên, tập 4, số 12.

10. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), "Phát hiện bệnh giun sán đường tiêu hoá dê và dùng thuốc điều trị ", Tạp chí khoa học và công nghiệp - chuyên đề canh tác lâu bền trên đất dốc, ĐH Thái Nguyên, tập I, số 9.

11. Nguyễn Thị Kim Lan (2000), Bệnh giun sán đường tiêu hoá của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và biện pháp phòng trị. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Hà Nội. 12. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2000), "kết quả thử nghiệm một số loại thuốc điều trị bệnh giun sán ở đường tiêu hoá dê ", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập VII, số 4.

13. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2000), "Một số kết quả nghiên cứu về bệnh giun


sán đường tiêu hoá của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

", Nông nghiệp & công nghiệp thực phẩm, Tạp chí khoa học - công nghệ và quản lý kinh tế, số 6.

14. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo, Bạch Đăng Phong (2002), Bệnh phổ biến ở bò

80


sữa, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 191 - 197.

15. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng (1975), "Bệnh sán dây dê và biện pháp phòng trị ở trại X Nam Hà ", Tạp chí khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, Tr. 124.

16. Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang (2002), Bệnh ký sinh trùng ở đàn dê Việt Nam, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 49 - 55.

17. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 30 - 44.

18. Đào Hữu Thanh, Lê Sinh Ngoạn (1980), "Bệnh giun sán ở đàn dê Việt Nam", Kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật thú y 1970 - 1980, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 321 - 328.

19. Trịnh Văn Thịnh (1963), Ký sinh trùng thú y, Nhà xuất bản nông thôn, Hà Nội, Tr. 325 - 327.

20. Trịnh Văn Thịnh, Phạm Xuân Dụ, Phạm Văn Khuê, Phan Địch Lân, Bùi Lập, Dương Công Thuận (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, Tập II, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 220 - 222.

21. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982), Giáo trìlth ký sinh trùllg thú y, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 81 - 85.

22. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), Giun sán ký sinh ở động vật Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học & kỹ thuật, Hà Nội.

* Tiếng Anh

23. Alvarado R., Pitty B., Morales S. (1990), Genera of gastrointestinal helminths and species of coccidia in goats in Costa Rica, Ciencias veterinarias heredia, 12: 1, P. 25 - 28.

24. Bilquees F. M. (1988), Parasites of sheep and goat in Karach with special reference to hydatidosis and Fascioliasis, Proceedings of parasitology, No 6, P. 50 - 58.

25. Drozdz J., Malczewski A. (1971), Nội ký sinh và bệnh ký sinh vật của gia súc Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 95 - 98.

26. Hetherington L. (1995), All about goats, Veterinary section by TV, Vet., P. 163 - 171.

27. Johanes Kaufmann (1996), Parasitic Infections of Domestic Animals: A

Diagnostic Manual, Basel, Boston, Berlin, P. 150 - 152.

28. Jorgen Hansen, Brian Perry (1994), The Epidemiology, Diagnosis and Control
of helminth parasites of ruminants, Intemational Livestock Centre for Africa
81


Addis Ababa, Ethiopia, llrad, P. 1 7 - 1 8 , 1 1 3.

29. Kates K. C., Goldberg A. (1951), The pathogenicity of the common sheep tapeworm, Moniezia expansa, Proc, Helminth Soc, Wash, 18, P. 87 - 101.

30. Krishna L., Jithendran K. P., Vaid J., (1989) "lncidence of common parasitic infection amongst in Kangra Valley of Himachal Pradesh", 4: 2, P.183 - 184.

31 . Mckenna P. B. (1981), The diagnostic valuc and interpretation of faecal egg counts in sheep, N, Z, Vet J., 29, P. 129 - 130.

32. Mishareva T. E. (1977), Special features of the control of helminth infections on industrial sheep farms, Veterinaria, Kiev, P. 45, 67.

33. Misra S. C., Swain G., Dash B., Mohanpatra N. B. D. (1989), Anthelmintic, efficacy of Valbazen (SK and F) against natural acquired Moniezia infection in calves and kids. Indian veterinary Journal, 66: 6, 559 - 561.

34. Quesada A., Cringoli G., Bochicchio V., Minniti P. (1990), "Research on helminths of sheep and goats in Basilicataz", Note I: Aetio epidemiological investigations, Acta, Medica, Veterinaria, 36: 1, P. 41 - 59.

35. Rao J. R., Deorani V. P. S. (1988), Incidence of common helminthiasis among cattle and buffaloes in south Andamans, Journal of the Andaman Science Association, 4: 2, P. 143 - 144.

36. Soulsby E. J. L. (1982), Helminths, Arthropods and Protozoa of Domesticated Animals, Lea & Febiger, Philadelphia.

37. Urquhart G. M, Armour J., Duncan J. L., Dunn A. M., Jennings F. W. (1996), Veterinary Parasitology, Blackwell Science.

82






tải về 0.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương