86
Chuyển mạch nhần đa giao thức MPLS
ATM, và các ATM LSR sẽ căn cứ vào đó để chuyền tế bào đi ưong mạng. Tuy nhiên nảy
sinh một vấn đề mới: với những gói dữ liệu chi có một nhân và những gói dữ liệu có nhiêu
mức nhãn, làm sao có thể biết được gói dữ liệu có chồng nhãn hay không?
Một chức năng nữa của chồng nhãn là nó có chứa vùng Time_to_live và Exp. Cả hai
vùng này cung cấp những thông tin cần thiết nếu như sau khi tái hợp các tế bào ATM thành
các gói dữ liệu và gói dừ liệu sẽ tiếp tục được chuyển mạch nhãn nhưng không phải trên nền
ATM nữa.
Ngoài ra,chúng ta cũng thấy được điểm khác biệt giữa một giao diện ATM chuyển
mạch nhãn và một giao diện ATM truyền thống. Với giao diện ATM chuyển mạch nhãn,
các giao thức điều khiển MPLS sẽ ấn định giá trị nhãn được gắn vào vùng VCI/VPI. Còn
với giao diện ATM truyền thống, các giao thức điều khiển ATM sẽ ấn định giá trị vùng
VCI/VPI. Như vậy khi một chuyển mạch ATM hoạt động như một LSR, tất cả các giao diện
của nó đều là giao diện ATM chuyển mạch nhãn. Sự đóng gói dữ liệu ở các giao diện này đã
được trình bày ở trên. Và một thiết bị nonA T M LSR có thể có những giao diện ATM
truyền thống để thiết lập các kênh ảo VC (virtual cừcuits). Những kênh ảo như thế hoạt
động như liên kết ppp. Trong trường hợp này, các gói MPLS có cấu trúc nhãn như đã được
trình bày ở phần “Đóng gói dữ liệu” sẽ đi trên các kênh như thế.
Vùng TTL trong chồng nhãn đã giải quyết được vấn đề phát sinh từ việc không có
vùng này trong kỳ thuật ATM. Thế nhưng vẫn còn một sổ vấn đề khác cần phải xem xét.
Thứ nhất là việc điều chinh chính xác giá ữị TTL của mỗi gói dữ liệu. Điều này có nghĩa là,
giá trị TTL sẽ giảm xuống bằng với số lượng ATM LSR mà gói dữ liệu đi qua. Bởi vì các
ATM LSR không thể thực hiện việc điều chinh này nên trách nhiệm thuộc về các
non ATM LSR đã chuyển gói dữ liệu đến giao diện ATM chuyển mạch nhãn. Căn cứ vào
giá trị vùng
hop count, các LSR này sẽ giảm giá trị vùng TTL trên gói dữ liệu. Nếu TTL
bằng 0 hoặc có giá trị âm, gói dữ liệu sẽ không được xử lý bằng kỹ thuật chuyển mạch nhãn
khi đến các ATM LSR. Gói dữ liệu có thể bị hủy bỏ và đầu gửi sẽ nhận được bản tin ICMP
hoặc nó sẽ được xử lý như gói dữ liệu không gắn nhãn trong mạng và tại mồi nút mạng, giá
trị vùng TTL sẽ giảm đi một đơn vị. Vì thể khi đến đích, vùng TTL của gói sẽ có giá trị
bằng 0.
Vấn đề cuối cùng là sự xen lẫn tế bào (cell interleave). Ngoài những giải pháp như:
trao đổi thông tin theo hình thức downstream on demand và sừ dụng nhiều nhãn cho một
FEC hay V Cm erge, còn có một giải pháp nữa có tên gọi VP_merge. Trong giải pháp này,
nhãn chi được mang trong vùng VPI cùa một tiêu đề ATM. Vùng VCI đuợc sừ dụng như
một mã nhận dạng để phân biệt các dữ liệu đến từ những nguồn khác nhau nhưng có cùng
giá trị nhãn đầu ra, vùng VPI. Như vậy các ATM LSR sẽ hoạt động như một thiết bị chuyển
mạch VP. Tuy trên ngõ ra của một ATM LSR, các tế bào thuộc các dữ liệu khác nhau có
cùng giá trị nhãn VPI nhưng vì giá trị VCI khác nhau nên vẫn không xảy ra hiện tượng xen
lẫn tế bào (cell interleave).
Thế nhưng giải pháp này vẫn cỏ một số hạn chế. Thứ nhẩt là sổ lượng nhãn bị giới
hạn vì vùng VPI chi có 12 bit. Thứ hai mồi igress LSR phải có một mã nhận dạng 16 bit
(tương đương với một VCI), điều này đòi hỏi khả năng quản trị và cấu hình cao hơn. Thứ
ba, những phần cứng chuyển mạch ATM hiện đại không có hai chức năng
Early Packet
Discard (EPD) và Partial Packet Discard (PPD) nếu như chi chuyển mạch VPI. Cuối cùng
vẫn chưa có những quy định đầy đủ về phương thức thực hiện VP_merge.
Chương 3: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
87
H ình 3.14: VP merge [9].
3.3. TÓM TẤT
Chúng ta đã tìm hiểu những thành phần cỉunh irong kỹ thuật chuyển mạch nhãn đa
giao thức MPLS. Chức năng cơ bản nhất của MPLS là phạc vụ cho việc chuyển gói dữ liệu
bằng thuật toán chuyển mạch nhãn trên đường dẫn được xác định bằiig kỳ thuật định tuyến
dựa vào địa chi đích (destination based routing). Giao thức phân phối nhãn LDP (Label
Distribution Protocol) sẽ xây dựng đường chuyển mạch nhãn, được gọi là LGP (Label
Switching Path), trên đường định tuyến này. Giao thức LDP hoạt động trên kết nối TCP và
cung cấp nhiều hình thức phân bố nhãn khác nhau như: xuôi dòng (downstream) hay xuôi
dòng theo yêu cầu (downstream on demand), điều khiển LSP độc lập (independent)
hay theo
thứ tự (ordered LSP control), tự do (liberal) hay duy trì đàm thoại (conservative
label
retention). Ngoài ra vẫn cổ những giao thức khác phục vụ cho việc xây dựng LSP như:
RSVP, BGP mà ta sẽ đề cập đến trong những phần tiếp theo.