Ngày 26 Tháng 1 Annam 1940 (7 giờ tối) [ĐCL.39/129]
“Các con sẵn Trượng Phu Tâm Tánh”
(Chuyển Mê 10 – vé 274- 275)
HÀNG, con nghe Thầy dạy :
1.- Các con Thầy đã sẵn dành
Trượng Phu tâm tánh, nết lành bền lâu
Tiếng thường cho gọi Trượng Phu
Trượng là trượng nghĩa , thất phu không gần
2.- Sẵn tâm, sẵn tánh huệ thần
Khá mau lo tránh, xa lần đường mê
Mê là hay chuộng đảng phe
Nếu chừa chẳng vướng, mình che chở mình
3.- Trời Nghiêu là giữ phận bình
Bình tâm chẳng vọng, thế tình chẳng so.
Phận thường ngoài ấm, trong no
Ngậm cơm vỗ bụng, biết cho vậy tròn
4.- Đạo duyên đừng để phai mòn
Hằng ghi, hằng tập bảo tồn lấy thân
Tức tâm lòng dạ chuyên cần
Cần y Phật giáo, rõ chừng mở mang
5.- Lập công tiêu tội bạo tàn
Đó là nghiệp chướng, buộc ràng bấy lâu
Mở mang đạo lý cơ mầu
Lập đường công quả, là thâu phước lành
6.- Dưỡng thân an tịnh Đạo sanh
Đó là tinh nhứt, Nhứt Linh vô tà
Thấy nhiều trẻ dại thiết tha
Lòng siêng cần đạo, chẳng hòa tánh chơn
7.- Tưởng Thầy ở chỗ danh sơn
Hoặc là ưa dạo, nơi chưn bải gành
Bạ nghe lời gạt dỗ dành
Cứ đi theo đó, chịu đành tốn hao
8.- Nghe đồn, dạ ỷ cầu cao
Quyết tìm cho đặng, ngày sau hơn người
Chẳng suy, chẳng nghĩ Phật Trời
Phật Trời là chỗ, hiệp Người với Ta
9.- Trời khuyên, Phật bảo phải Hòa
Hòa nhau cho trọn, đó là Đạo cao
Nghĩ suy kim cỗ khác nào
Đói ăn bánh vẽ, làm sao khỏe bền
10.- Đó là nghệ thuật gầy nên
Đồng tâm ngày trước, để tên tới giờ
Con nào dục vọng ước mơ
Cứ lo tìm kiếm, đợi chờ uổng công
11.- Bánh nầy tay vẽ thần thông
Vẽ rồi có bánh, thưởng công kẻ hiền
Đó là bữu thực Thần Tiên
Làm cho có chuyện, phĩ nguyền cuộc chơi
12.- Phải nào bánh đó có đời
Các con thầm tưởng, vái Trời Phật cho
Tu hành đạo đức chẳng so
So bề pháp thuật, làm cho lỡ bề
13.- Lỡ rồi Đời thấy ngạo chê
Nên Thầy thường cấm, đừng nghe chuyện xằng
Ở đời lo phận làm ăn
Bề tu đạo lý, nhờ căn cội lành
14.- Trời Nghiêu cỗ phúc chỉ rành
Là dân biết đạo; ngoài lành trong no
Chẳng màng đời tục sánh so
Trạch dân trí chúa, làm qui mô bền
15.- Tức Tâm phủi sạch thù hềm
Tâm nầy là Phật, phải tìm đâu xa
Lập nên công quả khuyên Hòa
Làm tiêu nghiệt trước, sau là vẻ vang
16.- Kêu là Tâm Tịnh, Lý an
Tinh thần thanh kiện, sẵn sàng Trượng Phu
Đó là Thầy dạy con tu
Tu nhằm theo đó., phá mù tục mê./
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì giao Thiên sư trả lại cho Hàng.
(Giáo sư HÀNG ở Phú Kiết)
————————————d&c————————————
Ngày 1 Tháng 2 Annam 1940 (5 giờ chiều) [ĐCL.39/132]
ĐƯỢC, con phải sửa bài giải nghĩa cho NĂM, đặng trả lại cho nó coi, nó học Con sửa đi, có Thầy dạy cho.
Đầu bài Thầy cho như vầy :
“Muốn cậy Cha phải ra công khó
Phải hết lòng lo độ kẻ mê
Sao cho trên dưới đề huề
Sao cho trên dưới đừng nghe chuyện xằng
Sao cho ngay thật ở ăn
Sao cho tánh hạnh mười phân vẹn mười
Đừng để tiếng trò cười Chơn Lý
Đừng cho ai khinh bỉ Tam Kỳ
Con ôi Tạo Hóa tiểu nhi
Ai tuân thì được, ai khi thì lầm
Ai mà có chút giả tâm
Mượn danh Chơn Lý, mưu thầm phải vương”
(CMKN.10, vé 291-292)
1.- Làm người muốn cậy nhờ Cha
Phải ra công khó, gọi là nghe khuyên
Phải cho làm trọn chữ Hiền
Hết lòng vì Đạo, lấy khuyên độ người
2.- Người mê tĩnh đặng bởi lời
Lời khuyên Thầy phụ, chớ rời chớ phai
Sao cho trên, dưới lâu dài
Là trên, dưới thuận theo bài dạy khuyên
3.- Đề huề đừng để ý riêng
Trên Thầy dạy dỗ, dưới kiêng trọn bề
Chuyện xằng, chuyện quấy đảng phe
Đừng nghe theo đó, thiệt bề ở ăn
4.- Tánh hòa, hạnh hão cân phân
Mười phân nhân nghĩa phải cần vẹn trau
Đừng gây ra chuyện cầu cao
Tiếng trò Chơn Lý, một màu chẳng tươi
5.- Làm hư đời nhắc nhạo cười
Cười danh Đại Đạo, phá đời hại lây
Đừng làm cho nhẹ danh nầy
Là Tam Kỳ lập con bầy chẳng xong
6.- Phải cho chí quyết một lòng
Chí thành tâm định, sợ phòng chỗ chê
Con ôi ! Cứ vậy trọn bề
Còn trong Tạo Hóa, có hề chi đâu
7.- Tiểu Nhi là tiếng ban đầu
Đầu thai ai cũng, một bầu mà ra
Ai tuân đó cội căn là
Là thân được phải, được hòa nấy vui
8.- Ai mà chẳng rõ đầu đuôi
Lớn khôn trở lại, dễ duôi khi Trời
Lỗi lầm tại chỗ dễ ngươi
Thì vương tội ác, cả đời khốn nguy
9.- Còn ai tên đứng Tam Kỳ
Lòng không trọn Thiệt, tại vì giả tâm
Mượn danh đạo đức mưu thầm
Thầm toan thủ lợi, vướng nhằm luật nghiêm
10.- Nên rằng khổ hạnh ngày, đêm
Trường trai ngoài vẻ, trong hiềm tính quanh
Luật nghiêm ràng buộc khó thành
Là trong mưu sự, rồi sanh bất hòa
11.- Hằng ngày chuyện quấy lộ ra
Luật Trời nghiêm trị, rồi sa A tỳ
Đó là mượn tiếng Hóa Nhi
Đem lòng gian xảo, là khi dễ thầm
12.- Đạo Trời thường dạy Nhứt Tâm
Đã vào Chơn Lý, kế thầm khó nên
Muốn trông cậy Đạo thì bền
Bền lo sự phải, mình nên cho mình
13.- Đó là Tâm Chí nhiệt thành
Độ người thì trước độ mình là đây
Giải ra tận lý bài nầy
Đặng khuyên người Đạo, đừng bày chuyện gian
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì giao Thiên Sư đặng trả lại cho NĂM. (Lễ sanh NĂM - ở Lương Hòa Lạc)
————————————d&c————————————
Ngày 3 Tháng 2 Annam 1940 (9 giờ trưa) [ĐCL.39/134]
‘Được thơm lây cả bầy con dại
Đừng ai làm phá hoại danh Thầy
Hiệp Thiên Luật Cả Cao Dày
Đừng ai khoe giỏi, nói hay cãi Trời
Các con Nam, Nữ nơi nơi
Hễ rằng biết Đạo, nghe lời mới nên”
(Chuyển Mê số 10 – vé 363)
CHẨN, Con nghe Thầt dạy :
1.- Được nhờ Chơn Lý thơm lây
Cả bầy con dại, nhờ khai Đạo Tràng
Đừng ai làm giỏi cãi bàn
Phá Trời cho hoại, tội càng lớn lao
2.- Danh Thầy là điễn huệ trao
Trao lời đạo đức hòa nhau bỏ thù
Đó là danh tiếng dạy Tu
Hiệp Thiên là Luật, sửa ngu ra hiền
3.- Cả trong Trời Đất mối giềng
Cao dùng vững chặc, đạo truyền cỗ kim
Đừng ai khoe giỏi rán tìm
Nói hay, hay nói; tự kềm chế tâm
4.- Luật Trời u ẩn diệu thâm
Cãi bàn cho quá, có lầm, có sai
Trời cao, Đất rộng, sông dài
Luật gom vào một, chỗ nầy truyền ra
5.- Các con Nam, Nữ trẻ già
Nơi nơi nào chớ, tưởng là mình cao
Hễ rằng biết Đạo thì mau
Mau chừa tự đắc, ngày sau dễ bề
6.- Nghe lời chớ vội khen, chê
Mới rằng nên phận, dặt dè nghĩ suy
Cầm giềng mối chánh dễ chi
Vội lòng quên xét, đành khi Mạng Trời
7.- Hễ thân biết Đạo của Trời
Thì khoan bàn cãi, nghiệm rồi sẽ hay
Nghiệm rành làm phải thơm lây
Cả bầy con dại, được hay nhờ Trời
8.- Hay là rõ chỗ, rõ nơi
Rõ Trời lập cuộc cứu đời thì vui
Phải ngừa cái chứng ngược xuôi
Nay vầy, mai khác là nuôi bịnh phàm
9.- Nói năng nhiều chuyện không nhằm
Đó là phá Đạo, hại thầm cho thân
Giải cho con rõ xa gần
Từ nay phận trẻ, rán cần, rán kiêng
10.- Thơm lây là Đạo Đức hiền
Phải làm cho được, vẹn tuyền đừng sai
Ghét thầm, oán trộm mặc ai
Hễ mình tu niệm, lòng ngay dạ bằng.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn 1 bổn thì giao Năm Thiên Sư trả lại cho Chẫn.
( L.S Chẫn - ở Long An)
————————————d&c————————————
Ngày 11 Tháng 1 Annam 1940 (6 giờ sáng) [ĐCL.39/136]
“Con đã rõ Luân hồi bài dạy
Trước mê sa đường quấy mới hư
Công lao Cha đã chẳng từ
Ra tay vớt trẻ, khư khư chẳng nài
Lòng Cha lòng đã chẳng phai
Lòng con bao nỡ, cứ mài miệt chơi”
(Chuyển Mê số 11 – vé 374)
TRÂN, Con nghe Thầy dạy:
1.- Nếu con đã rõ Luân hồi
Đó là bài để dạy người Tĩnh Tâm
Trước sa mê hoặc đường lầm
Làm ra chuyện quấy, âm thầm mới hư
2.- Công Cha khó nhọc chẳng từ
Ra lời dạy bảo, tay Người chỉ huy
Chẳng nài vì tại Từ Bi
Khư khư một dạ, thương vì lũ con
3.- Lòng Cha thương trẻ chẳng mòn
Chẳng phai lời Đạo, vẫn còn bấy lâu
Lòng con bao nỡ cơ cầu
Miệt mài chơi giởn, đáo đầu lụy thân
4.- Luân Hồi từ Cựu tới Tân
Là do kiếp trước, sau lần tới nay
Sách kinh nhiều chỗ chỉ bày
Các điều báo ứng cả loài thế gian
5.- Đã suy nghiệm xét rõ ràng
Trước vay, sau trả; thấy càng thảm thê
Tĩnh Tâm bề phải an bề
Là không so sánh, chẳng hề cạnh tranh
6.- Giữ sao cho trọn tiếng Lành
Nhịn đời qua việc, đừng sanh thói tà
Đó là tránh khỏi lần qua
Là qua đạo lý, đó là rảnh rang
7.- Công Thầy chẳng quản khó khăn
Ra lời cứu vớt, nói năng đủ điều
Tu hành học hỏi làm theo
Các bài thường có: nhắc kêu chỉ chừng
8.- Việc ham chơi giởn cuộc trần
Chơi nhiều quên Đạo, nhắc chừng là đây
Cuộc trần là cuộc đắm say
Vùi thân chẳng kể, tại Tài, Sắc đua
9.- Lớp thì lời nói hơn thua
Gây thành khẫu nghiệp, Hiền Ngu không rành
Chịu hư là đó đã đành
Đành xem thấy trước, xét mình trở lui
Lui tìm nơi đạo đức vui
Là vui bề trọn, thuận xuôi an hòa./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra giao cho HOA chép ra cho đồng nhi học. Còn 1 bổn thì trả lại cho Trân.
[Ấm sanh TRÂN - ở Tân Lý Đông]
————————————d&c————————————
Ngày 30 Tháng 1 Annam 1940 (8 giờ sáng) [ĐCL.39/138]
“Kìa trên có Chủ Ông săn sóc
Khuyên con đừng lặn, mọc hư thân
Đã rằng ai phước có phần
Phước phần thứ lớp, nắp ngăn chẳng lầm
Luật Trời tuy gọi u thâm
Song đều cũng tại nơi Tâm mình gầy
Con thử xét từng mây, mấy lớp
Thì con tường trường hợp Ta Người
Ta Người đều Một với Trời
Ta Người đâu có, mến đời mẫn mê
Ta Người mau thoát kiếp về
Từng mây mấy lớp, là quê hương nhà
(Chuyển Mê số 11 – vé 426 – 427)
MỚI, Con nghe Thầy dạy :
1.- Kìa kìa trên có Chủ Ông
Trên là trong đó Có, Không diệu huyền
Chủ là vưng chịu lời khuyên
Ông Người Ta hiệp, tuyên truyền điễn quang
2.- Chỉ đường săn sóc, biến an
Thầy khuyên mỗi đứa đừng bàn cãi riêng
Hư thân là tại chẳng hiền
Chiều , trưa lặn mọc; lầm điên đảo thầm
3.- Đã rằng cơ lý diệu thâm
Nếu ai sẵn phước, dễ tầm , dễ nghe
Phước nầy là phước trước khi
Hoặc là đương thuở, gặp kỳ tế nhơn
4.- Phước là lòng chẳng so hơn
Quyết làm cho Thiệt, người nhơn trọn hòa
Có phần tại đó mà ra
Thứ kia, lớp nọ; gần xa có chừng
5.- Chẳng lầm là tại có căn
Tiền duyên, hậu quả; định phân chia đồng
Luật Trời tuy thấy Không Không
U trầm, thâm nhiễm tại lòng dễ ngươi
6.- Mình ngày gầy cuộc ăn chơi
Là Tâm chẳng biết, sợ Trời xét xem
Nên kìa Thầy chỉ Hốt Chiêm
Là coi sự trước, đặng kềm lẽ sau
7.- Trên đầu vọi vọi, cao cao
Phải tin trên đó, tại sao gọi TRỜI ??
Mình đây sao lại gọi Người ?
Rồi suy xét lại, lập đời là Ai ??
8.- Nếu rằng Xác thịt nầy hay
Hồn Thầy thâu hết, còn thây thể nào ??
Tranh tài, ỷ thế hiếp nhau
Làm cho thịt nát, máu trào gọi vui !
9.- Thầy xem chỗ đó ngùi ngùi
Lập Tam Kỳ Đạo, định rồi đã lâu
Để cho Thiện Ác đáo đầu
Đặng Thầy phán xét, đâu đâu thấy rành
10.- Chủ Ông người chỉ học hành
Trong Thầy truyền Lý, dữ lành rõ thông
Hằng ngày săn sóc ngoài trong
Là Tâm Tánh vững cùng không dặn dò
11.- Đó là khuyên phải biết cho
Biết cho Trời định, phần lo có người
Lo cho an vững Đạo Đời
Nhờ chung nhau tại, sợ Trời đừng khi
12.- Biếng lười, giả dối ích chi
Vì cơ Tạo Hóa định qui cho mình
Biếng lười là chẳng trọn tin
Thêm bề giả dối, thì mình chịu hư
13.- Chẳng rành hai chữ Như như
Là kim cỗ tại, tư tư một lòng
Phước lành phần thưởng định xong
Là nơi trách nhậm, của công giúp vùa
14.- Việc lành, việc phải khó mua
Vì không ai bán, mình tua biết mình
Biết rồi thì chí phải tin
Tin bền Tâm Đạo, làm in theo Trời
15.- Làm ra cơ hội tĩnh đời
Đời mê tĩnh được là nơi thái hòa.
Đó là biết sợ làm ra
Sợ Trời làm phải, Người Ta sum vầy
16.- Luật Trời là Tạo Hóa xây
Chủ Ông Thầy định, chỉ bày lần ra
Khuyên đồng con cả giái ba
Vưng lời Chơn Lý, đó là Hiệp Tâm
17.- Chớ ham bàn cãi lo thầm
Lâu ngày không dứt, ắt lầm chuyện nguy
Năm lần, tháng tới, ngày qui
Mỗi con đừng ngán, việc chi có Thầy
18.- Miễn là lòng Thiệt, dạ ngay
Một niềm cho trọn, chuyện hay thấy hoài
Vì trong Không đó, có Thầy
Chuyển tuần cơ vận, sắp bày thưởng răn
19.- Không không lặng lẻ, trang bằng
Mà nên mà đẹp, thấy càng tốt tươi
Vô Vi nhi hữu tạo thời
Là cơ tự trị, mỗi người, mỗi thông
Biết vầy khuyên rán Chí công
Đừng phai Chơn Lý, Đại Đồng khỏi sa./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì giao Thiên Sư trả lại cho Mới.
(Võ Văn Mới - ở Bình Nhâm)
————————————d&c————————————
Ngày 11 Tháng 2 Annam 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL.39/141]
Bài : HOAN - BI THẾ CUỘC (vé 20 – 21)
BÍCH, Con nghe Thầy giải nghĩa :
Thầy chép để Hoan, Bi Thế Cuộc
Nghĩa là: Thầy dạy chép ra để dành 1 bài đạo, gọi là Hoan, Bi; để cho thế cuộc ngày sau dễ thấy.
Vui với buồn lặn hụp sông mê
Nghĩa là: Trước khi thấy chỗ Sắc, chỗ Tài vì tham, vì luyến gọi đó là Vui; nên chẳng xét cho rành hư thiệt, đành đem thân vào đó, gọi là Vui. Chừng đến đỗi thân giảm, thể mòn thì cái buồn nó cũng ở chung theo đó. Chừng ấy muốn lên cho khỏi cái sông mê nầy, mà lên không nổi. Vì hết sức rồi, nên phải chịu than rằng hễ vui cho quá rồi đến đỗi buồn. Lặn hụp cũng ở đây. Đó là lởi than trong khi hêt sức lặn hụp mà nay nổi, mai chìm; cũng ở trong vòng mê muội đó.
Đứa kêu, đứa rũ đề huề
Nghĩa là: Đứa nầy kêu rồi đứa kia rũ. Là kêu rũ với nhau một cái tiếng đề huề là khoe lời nói văn tài sắc ngữ; mà quên rằng lời nói ăn cắp nên phải chịu lầm.
Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau
Nghĩa là: Đứa kêu thì sa xuống đó trước; rồi đứa nghe lời rũ đó cũng kề theo cho trọn; đặng xưng danh là phận đề huề , đặng lặn theo gọi là đắc chí.
Sóng cuồn cuộn đua nhau hĩ hả
Nghĩa là: Cái sóng sắc vọng đưa tình thì người có học, có hiểu rồi ngó vào đó chẳng khác nào như lượn ba đào cuồng cuộng là phủ lên, nhận úp nhiều tay mà kẻ ham Sắc, ham Tài gọi là Vui, thì chẳng khác chi sóng dậy biển động; mà người muốn liều mình thì mới đành sa vào đó, gọi là danh thì chịu làm cho vừa ý.
Chừng mỏn hơi thịt rả, xương chìm
Nghĩa là: Hết sức lặn lội theo dòng sóng Sắc đó, thì chừng đó đã mỏn hơi rồi. Hễ mỏn hơi rồi thì cái xác thịt người phải hoại. Thịt thì rả theo dòng nước; xương thì chìm tại đó rồi thôi. Đó là mỏn hết cái đời mê luyến, là vậy đó.
Một lằn nước đục đỏ thêm
Nghĩa là: Một lằn là cái lằn sóng sắc đó, nó là đồ nước đục gọi là nước mê. Nho gọi là trược; ngày nay nó làm cho nhiều người phải hoại thân vào đó, thì cái dòng nước đó đỏ thêm; là mỗi người có học hỏi rõ đó là chỉ vui buồn theo tục thì thảy đều sa nước mắt; cũng như giọt máu hồng đó là chỉ chỗ thương tâm quá lẽ. Hễ nhiều người sa xuống đó chừng nào thì cũng thảm thê chừng nấy. Đó là nước đục đỏ thêm là vậy.
Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà
Nghĩa là: Cái tiếng nói khách trần là khách hay ưa chơi theo mùi son phấn, tửu điếm, trà đình nên hay ưa mến các lời hoa nguyệt, các giọng xảo ngôn. Các lời, các giọng đó là do cái dòng nước đục làm ra. Vì tại cái đục đó mà che khuất con mắt người; nên chẳng rõ hư, nên. Đành chịu kiếm đem về nhà đặng làm cho vợ, con hư nữa. Đó là gọi khách trãi mùi ong bướm là khách đó.
Vậy Thầy giải sơ cho BÍCH nó coi. Nó muốn rõ cái màn trần thì rán lo tìm học.
ĐƯỢC, vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì giao lại Thiên Sư trả lại cho Bích. ( BÍCH, ở Sa Giang)
————————————d&c————————————
Ngày 8 Tháng 1 Annam 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL.39/143]
‘Các con ráng xét xem cho kỹ
Cũng có Thầy, có quỉ, có ma
Thầy khuyên việc phải, việc hòa
Thầy không xúi giục người ta chia lìa
Ma cùng quỉ hay chia phe đảng
Dụng độc quyền ngăn cản đường tu
Thương con nhiều đứa quáng muø
Nếu nghe theo nó, quến rù hư thân”.
(Đ.C.L 32 trang 169 – vé 11 và 12.)
HÀNG, con nghe Thầy giải nghĩa :
1.- Các con rán xét, rán xem
Xét rành, xem kỹ; đặng kềm thúc nhau
Xét rành Chơn, Ngụy khác nhau
Xem tường Thánh Huấn vàng, thau chẳng đồng
2.- Phải coi cho kỹ, phải phòng
Có Thầy, có quỉ; tại lòng có ma
Có Thầy là Thánh huấn ra
Thấy bài thì tưởng thiệt là Thầy cho
3.- Mà chưng quỉ ý riêng trò
Trò nương cơ bút, nhiều trò giả tâm
Lòng ma tư tưởng ắt lầm
Là trong mỗi đứa còn ham kĩnh mời
4.- Thầy khuyên việc phải, sửa đời
Việc hòa tương ái, phải người phải ta
Thầy không xúi giục mỵ tà
Người ta như một đừng pha lợi quyền
5.- Ma càn quỉ ý đảo điên
Giành nhau phe đảng, độc quyền cản ngăn
Đường tu Chơn Lý phát hoằng
Thầy không có giấu, rán lần tập theo
6.- Thương con mù quá quáng nhiều
Lủi làm theo lũ, tự kiêu quến rù
Hư mòn mà tưởng thiệt tu
Thân người, hình vóc, trí ngu chẳng rành
7.- Tưởng nên, không xét, chịu đành
Đành theo lũ nghịch, có thành chi đâu !
Tháng qua, ngày lại cơ cầu
Viện lời vô Lý, luận sầu đeo thân
8.- Tiếng Thầy dạy dỗ thường răn
Không vừa lòng tục, cãi bàn cho qua
Thầy nhìn thấy rõ thiết tha
Một ngày xa đạo, đó là con hoang
9.- Cản ngăn, rào đón, nẽo đàng
Làm cho hết sức vàng vàng, thau thau
Độc quyền lợi dụng tưởng cao
Mà quên té nặng, ngày sau hết quyền
10.- Ráng xem, ráng xét thấy liền
Nhờ do kỹ lưởng, mình riêng biết mình
Có Thầy là trọn Đức Tin
Tin về Lý Thiệt, xét mình nên hư
11.- Răn khuyên lời chỉ đặng ngừa
Quở thường ưa muốn, đỏng đưa theo phàm
Sáu loài ma độc khớp vàm
Dắt theo đường quấy, lòng ham, dạ mừng
Đó là gọi chỗ hư thân
Giải cho con rõ, tĩnh lần đứa mê./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì trả lại cho Hàng. (G.S HÀNG - Phú Kiết)
————————————d&c————————————
VI.
THÁNH HUẤN PHỔ ĐỘ CÁC CHI PHÁI
CÙNG LÀ TRUNG KỲ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 12 tháng 1 Annam 1940 (5 giờ chiều) [ĐCL.39/145]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn :
1.- ĐƯỢC con rán nghe theo lời dặn
Chớ thở than đường thẳng bước hoài
Tranh quyền, ỷ thế mặc ai
Phận con vì Đạo, có Thầy chứng cho
2.- Chứng cho trẻ là lo kềm thúc
Kềm thúc thường nhơn dục giảm tiêu
Dặn cho con nhớ các điều
Điều nên vì Đạo, đó liều chịu oan
3.- Chịu oan khúc là mang tiếng mạ
Song chẳng sờn vàng, đá có chia
Chia là chẳng thuận, thì khi
Khi vàng, ham đá; biết gì phải chăng
4.- Con phải biết vậy rằng là khổ
Khổ cho ai hỹ, nộ không chừng
Nói càng chẳng kể oan, ưng
Nói nhiều vướng tội, hết mừng, tới than
5.- Thầy thấy trẻ, phàn nàn trong đó
Nên chỉ cho chỗ khổ có người
Khổ là buộc đứa lã lơi
Buộc người ngang ngạnh, nghịch Trời gọi khôn
6.- Con đã rõ Vong, Tồn Thầy định
Thì cứ do Mạng Lịnh thi hành
Ngày ngày cơ Đạo phát sanh
Phận con nắm chặc, chí lành là hơn
7.- Hơn vì chẳng so hơn, tính thiệt
Quyết cho tròn, mình biết phận quê
Sao sao Lành cũng an bề
Từ kim chí cỗ, Lành nghe Mạng Trời
8.- Giảng phân cho cạn các lời
Con đừng ngao ngán, các lời ghét ganh
Cùng CA huynh đệ cho thành
Tới ngày kết cuộc, Dữ Lành có nơi
9.- Nhìn coi người ở dưới Trời
Có ai sống trọn, kiếp đời ngàn năm
Nghe qua Thầy dặn, xét thầm
Đừng ưa giận dủi, ráng tầm hiền lương
10.- Được cho Tâm Tánh thiệt thường
Sau dầu có thác, cột rường còn đây
Đây vầy kiếp sống biết Thầy
Mười năm khó nhọc; lúc vầy, lúc kia
11.- Rõ ràng nầy lạc, nọ bi
Rõ lời Thầy nói, thì đi một đường
CA vì lòng nó trọn thương
Thương con cực khổ, bước đường còn xa
12.- Đó là trên biết vì Cha
Dưới thì lòng trọn chữ Hòa thuận tin
Phận con Thầy dặn ráng gìn
Gìn theo Lý Thiệt, chớ gìn giả mang
13.- Nói khoe làm chước, cản gàn
Làm cho hết sức, lỡ đàng rồi thôi
Cũng cho là đúng sức rồi
Không dè hết sức, trọn đời chẳng xong
14.- Khuyên con cứ vậy, an lòng
Đạo cao nhờ khảo, nhờ công chịu bền
Chịu bền lo sửa, thì nên
Thảm cho đứa khảo, mình quên lỗi mình
15.- Khảo người, người hiểu nhục vinh
Quên mình quá ỷ, tánh Linh phải mòn
Thánh Hiền tại chí sắt, son
Con bền lòng xét, thì non nước đầy
16.- Xét lời Thầy dặn thấy hay
Là hay ngày lụn, qua ngày thoát thân
Thoát ra khỏi đám ma trần
Là ma khẫu nghiệp, cãi bàn nhố nhăn
17.- Con về cho tới bổn căn
Bọn ma ở lại, lộn lăn Luân hồi
Rán coi các chuyện qua rồi
Có ai qua nỗi, Luật Trời Lý Chơn./.
ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho đặng con coi cho phĩ dạ. Con giao cho CA đặng nó in ra gởi cho Phấn nó coi đặng nó xét cho vui lòng sở dục của nó. Rồi cũng in ra phát cho Đạo coi cho rõ cơ đạo ngày nay là vậy./-
————————————d&c————————————
Ngày 5 Tháng 1 Annam 1940 (12 giờ trưa) [ĐCL.39/147]
NGỮ, con nghe Thầy dạy - Lấy trong bài của con hai chữ: “Trước, Sau” đem ra làm lời dạy.
1.- Trước sau, sau trước trọn bề
Bề con, con xử người chê mặc người
Ích chi lo liệu xa vời
Vì cơ Tạo Hóa, chọn rồi để riêng
2.- Thầy thường chứng chiếu chép biên
Miễn là làm trọn chí hiền thảnh thơi
Còn trong thế sự Ta, Người
Nầy hư, nọ thiệt; khó lời giảng phân
3.- Ví dầu đến đỗi chẳng tuân
Là phe Nhà Tịnh, mấy lần hiểm nguy
Bỏ trôi đạo đức thiếu gì
Biết sao mà kể, đường đi Luân hồi
4.- Khó hòa thuận Lý, phải thôi
Lầm không chịu sửa, dại rồi nói khôn
Mấy năm nhiều nỗi dập dồn
Dầu ai can gián, cũng không nghe lời
5.- Định Tường Thầy giáng có nơi
Độ đời là rãi các lời Lý Chơn
Mực ngay, cây vạy phải hờn
Tại vầy xa đạo, vướng đường hiểm sâu
6.- Nhiều tay đồng tử kế mầu
Không tùng Chơn Lý, viện cầu đại tư
Rằng Thầy chẳng phụ con hư
Mà trong nghĩa phụ, đại từ chẳng minh
7.- Viết ra nhiều việc hữu hình
Lòng mê, lòng hoặc lại tin là Thầy
Lâu ngày kết cuộc chẳng may
Thầy thương cho chỗ, chưa hay mình lầm
8.- Hiện giờ Thầy chuyển diệu thâm
Thâu lần điễn huệ, thần tâm chẳng bền
Từ nầy cho tới sắp lên
Phe đồng Nhà Tịnh, khó nên phận Hiền
9.- Cũng vì không rõ mối giềng
Đạo Trời gom một, trọn quyền Vô Vi
Vì chưng chúng nó mãn kỳ
Mà không biết thuận, cũng vì tự kiêu
10.- Đặt điều mưu sự người theo
Đó là tính kế, đặng nêu danh mình Thương lòng cho bọn bất minh
Lủi lầm cơ bút, quên mình lụy thân
11.- Luật Trời là Tạo Hóa cân
Hay thương kẻ lạc, nên cần nhủ khuyên
Còn trong mấy đứa chẳng Hiền
Cưu lòng làm dữ, dữ liền trả cho 12.- Từ nầy khuyên trẻ ráng lo
Là lo phận sự, làm cho trúng đường
Tới lui Thánh thất cho thường Chung cùng với Dậu, bước đường nối nhau
Để lời dạy trẻ trước, sau
Bình tâm, chánh NGỮ, đừng nao chuyện ngoài
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó đem vào Đ.C.L mùa Xuân. Còn 1 bổn thì trả lại cho Ngữ./-
(P.S NGỮ, ở Bình Chánh)
————————————d&c————————————
Ngày 22 Tháng 1 Annam 1940 (3 giờ chiều) [ĐCL.39/149]
1.- Nầy khuyên con Ngô Phụng Trì
Rõ cơ đạo chánh, thì đi một đường
Cốt đồng là giống nhiễu nhương
Hay làm ngăn cản, bước đường chúng sanh
2.- Giả danh bia hiệu tung hoành
Nếu ai nhẹ dạ, phải đành đắm sa
Từ ngày Thầy mở đạo ra
Tự nhiên tà khởi, đó là thử chung
3.- Thử coi lòng dạ ai tùng
Tùng cơ chánh lý, quyết lòng một nơi
Dầu ai cũng ở dưới Trời
Tà ma quái mỵ, nhiễm lời khéo khôn
4.- Chẳng hay là chước bảo tồn
Thừa cơ vọng ước, chẳng phòng khó nên
Đạo Trời chánh đáng hiễn nhiên
Một nền Chơn Lý, mối giềng bày ra
5.- Còn như các bọn yêu tà
Trước làm cho rộn, kê cà nhố nhăn
Bày điều huyển hoặc vô căn
Nếu mê lầm lủi, ăn năn đặng nào
6.- Phải rành hai chữ Đạo Cao
Là cao tại tánh, một màu sắt son
Rõ thông cơ hội bảo tồn
Đạo cao là vậy, ráng phòng xét suy
7.- Hằng ngày mộ Đức Từ Bi
Làm theo Thánh Huấn, đừng khi dễ người
Đặng lo gầy dựng sửa đời
Ngoài tuy lặng lẻ, trong thời mở mang
8.- Ngoài là nương phép trị an
Trong gìn chơn ngữ, ngọc vàng báu châu
Biết thì dùng đặng quí lâu
Vì trong mỗi việc, nhơn mầu ứng tâm
9.- Giải ra cho trẻ xét thầm
Đừng ưa tà mỵ, cứ chăm một đường
Cội nguồn là tại Trung Ương
Ngày nay sửa lại Định Tường cũng đây
10.- Vì cơ vận chuyển sắp bày
Hàng Long giáng thế, đổi rày hiệu danh
Khuyên con phải nhớ vậy rành
Đừng bôn chôn vội, cuộc thành sẵn cho
11.- Lòng Thầy thường có tính lo
Là lo độ dẫn, đặng cho vuông tròn
Xứ nào thì cũng là con
Ngặt lòng chưa quyết, nên còn ngáo ngơ
Dặn con đừng có bơ thờ
Ngày qua, tháng lại; đợi chờ sẵn đây./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao cho CA, đặng nó gởi trả lại cho Phụng Trì – Còn về sự mandat thì nó xét lấy./.
————————————d&c————————————
VII.
TÒA THÁNH ĐỊNH TƯỜNG
Đệ Tam Tiểu Thời Kỳ
VI BẰNG HỘI THÁNH NHÓM [ĐCL.39/151]
Ngày 14 tháng 12 năm Mậu Dần, nhằm thứ năm 2 Fevrier 1939…………………………………………
Hủy tờ Vi Bằng ngày 8 Juin 1937 v/v cử Ô, Nguyễn Văn Phấn thay mặt Hội thánh……… mà giao quyền lại cho Ô. Nguyễn Văn NGÀN…………..v.v. . .
- HẾT -
---------------------------------------
[Bản Kinh ĐUỐC CHƠN LÝ số 39 nầy, được thực hiện bằng phương tiện máy vi tính và y theo nguyên tác bản in Do Ngọc Hoàng Đại Đế Hội Thánh - Toà Thánh Định Tường xuất bản lần thứ I mùa Xuân năm 1940. Dày 151 trang, khỗ giấy 14 x 21. In tại La Lumière My Tho. Bản gốc hiện lưu trử tại tàng thư HTĐ – Toà Thánh Cao Đài Chơn Lý. Địa chỉ 193 Nguyễn Trung Trực, TP Mỹ Tho (Tiền giang).
Số trang trong mục lục nầy, được đánh theo số trang của bản in nguyên tác.]
CHỦ TRƯƠNG,
HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHƠN LÝ
THỰC HIỆN,
Giáo sư – Quyền Trung Thiên sư : Ngọc-THÀNH-Thanh
ĐỐI CHIẾU & SỬA BẢN IN,
Trung Thiên sư : Trung-CẦM-Sư
Giáo sư - Quyền Bắc Thiên sư : Thái-ĐIỀN-Thanh
Giáo sư – Tinh Quân : Thái-SƠ-Thanh
Thực hiện xong, nộp bản lưu tại tàng thư HTĐ, ngày 15 tháng giêng năm Kỷ Sửu (2009)
MỤC LỤC ĐUỐC CHƠN-LÝ SỐ 39
[Ấn hành lần thứ I, mùa Xuân năm Canh Thìn 1940]
NGÀY 13 THÁNG 2 ANNAM 1940 (8 giờ trưa) [ĐCL 39/5]
Mỗi con an mạng thính tùng
NGÀY 11 THÁNG 3 ANNAM 1939 (7 giờ tối) [ĐCL 39/7]
Con chớ khá than phiền chi lắm
NGÀY 8 THÁNG 12 ANNAM 1939 ( 4 giờ khuya ) [ĐCL 39/12]
Đời hỗn tạp tranh đua dời đổi
NGÀY 12 THÁNG 12 ANNAM 1939 (1 giờ khuya) [ĐCL 39/17]
Năm nay tuế hội Canh Thìn
NGÀY 11 THÁNG 12 ANNAM 1939 (11 giờ khuya) [ĐCL 39/21]
Còn tu Chơn Lý chẳng nhiều
NGÀY 30 THÁNG 12 ANNAM 1939 (12 giờ trưa) [ĐCL 39/23]
Ngày Xuân đến Hiệp Thiên Đài
NGÀY 12 THÁNG 1 ANNAM 1940 (12 giờ khuya) [ĐCL 39/25]
Nầy con mỗi đứa nghe Thầy
NGÀY 15 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ tối) [ĐCL 39/28]
ĐƯỢC, Con nghe Thầy dặn : Ngày mai đây năm đứa nó đến Hiệp Thiên Đài Vô Vi; vậy con phải nói cho trong đó hay trước,
NGÀY 16 THÁNG 1 ANNAM 1940 (9 giờ trưa) [ĐCL 39/28]
ĐƯỢC, con phải nói cho trong mấy đứa có mặt tại giờ nầy hay rằng: Cơ Đạo từ đây sắp chuyển là chuyển cho mỗi đứa rán lo
NGÀY 8 THÁNG 2 ANNAM 1939 (4 giờ khuya) [ĐCL 39/30]
Trời Đất sẵn lập ra nền Đạo
NGÀY 16 THÁNG 8 ANNAM 1939 (7 giờ tối) [ĐCL 39/34]
Thầy cạn tỏ một Bầu Tâm Sự
NGÀY 16 THÁNG 10 ANNAM 1939 (9 giờ trưa) [ĐCL 39/38]
Thầy thường dạy đừng bày chuyện lạ
NGÀY 16 THÁNG 1 ANNAM 1940 (8 giờ tối) [ĐCL 39/42]
Thầy nhìn thấy mỗi lòng con
NGÀY 3 THÁNG 9 ANNAM 1938 [ĐCL 39/48]
Từ đây con nguyện một lời
NGÀY 1 THÁNG 1 ANNAM 1940 (12 giờ khuya) [ĐCL 39/47]
Nầy cả thảy con đồng Nam, Nữ
NGÀY 4 THÁNG 1 ANNAM 1939 (12 giờ khuya) [ĐCL 39/50]
Mỗi con dầu Đạo, dầu Đời
NGÀY 17 THÁNG 1 ANNAM 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL 39/54]
Cơ quan Trời Đất rộng dày
NGÀY 19 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ sáng) [ĐCL 39/57]
Mỗi con nào muốn công viên
NGÀY 28 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ tối) [ĐCL 39/61]
Cuộc đời gió bụi hiễm nham
NGÀY 26 THÁNG 1 ANNAM 1940 (12 giờ trưa) [ĐCL 39/63]
Các con nào quyết ở đời
NGÀY 29 THÁNG 1 ANNAM 1940 (6 giờ sáng) [ĐCL 39/67]
Mỗi con ở tại Thánh Tòa
NGÀY 10 THÁNG 2 ANNAM 1940 (4 giờ chiều) [ĐCL 39/69]
Mỗi con đều mỗi dại khờ
NGÀY 12 THÁNG 2 ANNAM 1939 (1 giờ khuya) [ĐCL 39/72]
Tấm thân người sống tạm nầy -
NGÀY 4 THÁNG 2 ANNAM 1940 (3 giờ khuya) [ĐCL 39/75]
Từ xưa cho đến buổi nay
NGÀY 2 THÁNG 2 ANNAM 1940 (3 giờ chiều) [ĐCL 39/78]
Vui lòng đi tới bớ con
NGÀY 3 THÁNG 2 ANNAM NĂM 1940 (9 giờ tối) [ĐCL 39/86]
ĐƯỢC, con phải nói lại cho ÂN nó hay, Thầy đã cho phép mỗi nhà tư được thờ 15 ngọn đèn đã lâu rồi, từ năm Thầy lập Hội
NGÀY 2 THÁNG 12 ANNAM 1939 (8 giờ trưa) [ĐCL 39/89]
Cầu cho người đứng Tam Kỳ
NGÀY 13 THÁNG 8 ANNAM 1940 (6 giờ sáng) [ĐCL 39/92]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn : Giờ nầy có đủ Chư Vị Phật Tiên Thánh Thần về đây đặng xin phép Thầy giáng bút, chỉ rành…
NGÀY 8 THÁNG 1 ANNAM 1940 (4 giờ chiều) [ĐCL 39/94]
Từ xưa nay có một lò
NGÀY 16 THÁNG 1 ANNAM 1940 (8 giờ tối) [ĐCL 39/96]
Vui đạo, vui đời cũng gọi Vui
NGÀY 19 THÁNG 1 ANNAM 1940 (12 giờ trưa) [ĐCL 39/98]
ĐƯỢC, Con phải nói cho CA nó hay, trong cuộc làm thêm cảnh Phổ Đà, Thầy có hứa sau Thầy dạy thêm. Đó là do Cơ Tạo…
NGÀY 6 THÁNG 1 Annam 1940 (11 giờ trưa) [ĐCL 39/100]
Ngày Xuân vui vẻ Đạo tràng
Tiếp, NGÀY 6. THÁNG 1 Annam 1940 (10 giờ tối) [ĐCL 39/101]
Trong mỗi đứa rán nghe rành rẽ
NGÀY 7 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ Tối) [ĐCL 39/103]
Việc tu niệm, từ kim chí cỗ
NGÀY 15 THÁNG 1 ANNAM 1940 (8 giờ Trưa) [ĐCL 39/106]
Rán gìn Chơn Lý nương nhau
Tiếp, NGÀY 15 THAÙNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ tối) [ĐCL 39/107]
Tĩnh rồi xét lại mới ham
NGÀY 20 THÁNG 1 ANNAM 1940 (1 giờ Chiều) [ĐCL 39/109]
Đạo Tràng cơ Đạo ngày cao
Tiếp, NGÀY 21 THÁNG 1 ANNAM 1940 (1g.chiều) [ĐCL 39/110]
Tính như vậy, ngày nào nên Đạo
NGÀY 1 THÁNG 2 ANNAM 1940 (7 giờ Sáng) [ĐCL 39/112]
Đạo tràng Ngọc Phát từ đây
NGÀY 6 THÁNG 2 ANNAM 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL 39/116]
Mỗi con khuyên gắng chí bền
NGÀY 3 THÁNG 2 ANNAM 1940 (3 giờ khuya) [ĐCL 39/118]
Trời Nam vận mở Tâm Điền
NGÀY 03 THÁNG 02 ANNAM 1940 (10 giờ trưa ) [ĐCL 39/121]
Thiên Tào Liên tiếp điễn Linh
NGÀY 3 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ sáng) [ĐCL 39/123]
GN văn vần: “Người muốn đặng lập xong danh phận…”
Người nào muốn đặng lập xong
NGÀY 3 THÁNG 2 ANNAM 1940 (8 giờ trưa) [ĐCL 39/125]
GN văn vần CMKN vé 166: “Trời cũng phải giông mưa một lúc…”
Trời còn có lúc giông mưa
NGÀY 12 THÁNG 1 ANNAM 1940 (6 giờ chiều) [ĐCL 39/ 127]
GN văn vần CMKN vé 241- 243: “Kìa ba sáu ngàn ngày như nhán…”
Kìa ba vạn sáu ngàn ngày
NGÀY 26 THÁNG 1 ANNAM 1940 (7 giờ tối) [ĐCL 39/129]
GN văn vần CMKN vé 274- 275 “Các con sẵn Trượng Phu Tâm Tánh”
Các con Thầy đã sẵn dành
NGÀY 1 THÁNG 2 ANNAM 1940 (5 giờ chiều) [ĐCL 39/132]
GN văn vần: “Muốn cậy Cha phải ra công khó. . .”
Làm người muốn cậy nhờ Cha
NGÀY 3 THÁNG 2 ANNAM 1940 (9 giờ trưa) [ĐCL 39/ 134]
GN văn vần CMKN vé 363 “Được thơm lây cả bầy con dại…”
Được nhờ Chơn Lý thơm lây
NGÀY 11 THÁNG 1 ANNAM 1940 (6 giờ sáng) [ĐCL 39/136]
GN văn vần CMKN vé 374 “Con đã rõ Luân hồi bài dạy . .”
Nếu con đã rõ Luân hồi
NGÀY 30 THÁNG 1 ANNAM 1940 (8 giờ sáng) [ĐCL 39/138]
GN văn vần CMKN vé 426 – 427:“Kìa trên có Chủ Ông săn sóc…”
Kìa kìa trên có Chủ Ông
NGÀY 11 THÁNG 2 ANNAM 1940 (10 giờ Trưa) [ĐCL 39/141]
GN văn xuôi: “ Thầy chép để Hoan, Bi Thế Cuộc…”
. .
NGÀY 8 THÁNG 1 ANNAM 1940 (10 Giờ Trưa) [ĐCL 39/ 143]
GN văn vần: “Các con ráng xét xem cho kỹ . . .”
Các con rán xét, rán xem
NGÀY 12 THÁNG 1 ANNAM 1940 (5 giờ chiều) [ĐCL 39/145]
ĐƯỢC con rán nghe theo lời dặn
NGÀY 5 THÁNG 1 ANNAM 1940 (12 giờ rưa) [ĐCL 39/147]
Trước sau, sau trước trọn bề
NGÀY 22 THÁNG 1 ANNAM 1940 (3 giờ chiều) [ĐCL 39/149]
Nầy khuyên con Ngô Phụng Trì
- H E T -
-------------------------------------------
Chú thích : Số trang trong mục lục nầy được đánh theo số trang trong bản nguyên tác Đuốc Chơn Lý số 39; Do Ngọc Hoàng Đại Đế Hội Thánh - Toà Thánh Định Tường xuất bản lần I, Mùa Hạ 1940. Trình bày trên khỗ giấy 14 x 21 cm. Dày 158 trang. Nơi in không rõ./-
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |