IV.
THÁNH HUẤN DẠY VỀ LỄ NGHI TRẬT TỰ
VÀ TẠO TÁC
VÔ VI HIEÄP THIÊN ĐÀI
Ngày 3 Tháng 2 Annam 1940 (9 giờ tối) [ĐCL.39/85]
ĐƯỢC, con phải nói lại cho ÂN nó hay, Thầy đã cho phép mỗi nhà tư được thờ 15 ngọn đèn đã lâu rồi, từ năm Thầy lập Hội Vạn Linh đến giờ. Thầy cho trong mỗi nhà ngày Lễ Tu My phải thắp cho đủ 15 ngọn trong ngày đó, đêm đó. Còn ngày Đàn, Đại Lễ thì cũng phải làm như vậy. Song Thầy không nỡ buộc cho lắm. Vì nhiều đứa hay viện cớ nghèo, nên Thầy dạy phải thắp ngày Lễ Tu My; chớ theo phép thì mấy ngày Đại Lễ đều có đủ.
Còn sự nó hỏi về các Chi Phái không có thờ tượng trái tim đó, là tại nơi lòng tự đắc của bọn đó; nên đi không tới Chơn Lý; đó là không trọn tấc lòng tin Thầy, thì khó trông hiểu đạo Thầy cho thấu vậy. ÂN nó phải lo tu; còn các điều đó hễ ai tránh thì được, ai khi thì lầm; rồi ngày ngày sẽ thấy. Nó chớ nên nói nhiều rồi sanh điều hờn giận về xác phàm. Nó biết Chơn Lý là phải thì cứ lo làm tới, thì cái phải đó nó được nhờ là nó tu cho nó đó.
Vậy con biểu CA trả lại cho nó coi, nó xét./.
————————————d&c————————————
Ngày 2 Tháng 12 Annam 1939 (8 giờ trưa) [ĐCL.39/89]
TĨNH NGỘ HỒI TÂM
[Bài Kệ Gióng U Minh của Nữ Phái]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:
Giờ nầy có Chư Vị Tiên Thần đều về tại đây đặng cầu xin Thầy cho phép giáng đàn nương bút, tỏa ra gọi là bài cầu nguyện chung cho cả nơi nơi, kẻ còn người mất. Vậy con phải vưng lời đặng chép ra cho rành rẻ.
- Bạch, con vưng theo lời Thầy.
Chư Vị Tiên ban giáng tố trần
Thiên Đài thừa mạng bố thi ân
Xướng ngôn vi niệm, tồn vong lý
Vạn cỗ lưu hành, cựu giữ tân.
Chư Tiên Phật Thánh Thần cúi lạy Thầy, sau chào Hàng Long Chơn Tánh, đồng tỏa vận thi bài.
Cầu cho người đứng Tam Kỳ
Kẻ còn, người mất, đồng qui một trường
1.- Khi còn sống lầm đường, lạc lối
Thác rồi xin nhớ Hội Mậu Dần
Nhớ rồi thì rán nghe tuân
Tuân lời Thầy dạy, đặng mừng vẻ vang
2.- Chư Tiên Phật Thần toan độ rỗi
Vì phàm tâm nghịch dối nên lầm
Thác rồi gẫm lại, hồi tâm
Nghe lời kêu gọi, sửa lầm ra nên
3.- Chép sổ bộ, ngàn tên, muôn tuổi
Trong phần nhiều chịu buổi tai khiên
Vì chưng nết tục chẳng Hiền
Làm cho đã giận, tội riêng khó trừ
4.- Tội kiếp trước, còn dư là khác
Thêm kiếp nầy tạo ác ra hoài
Đó là dặn cả ai ai
Ai ai là kẻ mắt, tai rán kềm
5.- Kềm cho vững ngày, đêm đừng vọng
Là vọng tâm hành động phi thường
Mắt phàm hay ngó cự đương
Tai vì ưa lóng, lời thương, tiếng rù
6.- Chỗ thương đó, lấy thù khiêu khích
Làm cho người mê tín phải sa
Chỉ cho thù oán chẳng hòa
Khiêu phàm tâm động – khích ta hại người
7.- Người cả thảy ở đời phải biết
Phải biết rằng ưu liệt, thắng nhu
Chớ nên cừu oán, nhớ thù
Mà cho là việc, gọi tu cứu đời
8.- Tu tưởng vậy, là người vô Lý
Vì chẳng thông tự trị an nhàn
Tu hành tính dữ sao an
Muốn an thì nhớ chữ Khoan, Thứ rành
9.- Khoan tâm độ, đừng sanh ác cảm
Thứ dung tình nộ giảm, đố tiêu
Hành trong Hư, Thiệt các điều
Đó là an mạng do theo Luật Trời
10.- Trời ra Luật, nơi nơi đều rõ
Rõ vì trong chỗ đó phải làm
Tại vì lòng dục vọng tham
Tội hành phải chịu, đành cam chết mòn
11.- Người cả thảy là con Tạo Hóa
Có người siêu, người đọa là đây
Đây vì chẳng rõ trở day
Đây vì thời cuộc, đổi thay không tường
12.- Thầy đã dặn : Định Tường hai chữ
Là bảng nêu, người xử trị người
ĐỊNH nầy là định chỗ nơi
TƯỜNG khai Lý Nhiệm, cứu đời dạy tu
13.- Thảm thay vì tại mê mù
Mến mùi danh lợi, gọi Tu là hèn
Quyết làm danh dữ đời kiêng
Mà quên tội dữ, Trời biên chép rồi
14.- Mê mù nào rõ khúc nôi
Chừng thân chịu đọa, thôi rồi phải thôi
Hồn ra khỏi xác thân rồi
Nhìn coi ngơ ngáo, buổi đời dại, khôn
15.- Tội kia, ác nọ ghi dồn
Thở than là đó, gọi hồn tĩnh mê
Chư Tiên, Chư Phật đề huề
Hội Thần cả thảy, đồng về giáng tâu
16.- Hiệp Thiên Đài trước cúi đầu
Xin Thầy cho phép, cạn sâu tỏ lời
Làm ra bài đạo tĩnh người
Đặng coi cho rõ, Đạo Đời biến an
17.- Ai mà có dạ nghi nan
Thì xin xét lại, tai nàn tại đâu?
Còn ai sớm chịu hồi đầu
Định Tường Chơn Lý, chực hầu cứu cho
18.- Đó là lời chỉ trước lo
Vì thương tâm phải, nói cho cạn lời
Trời Nam vận mở thay đời
Là thay đổi cuộc, Ta Người hiệp nhau
19.- Hễ tu đừng tính nghèo giàu
Thì thương mạng sống, cùng nhau buổi nầy
Hiệp đồng cho được là hay
Đừng chia nhỉ, ngả gọi bài thuốc Linh
20.- Linh là mình trước biết mình
Mình sao lại đặng, Trời sinh Đạo Mầu
Sinh tồn vận hóa chuyển thâu
Rõ rồi khuyên rán, gìn trau sửa lòng
21.- Mỗi người nhờ vậy làm xong
Là thương nhau một, tấm lòng đừng sai
Giáng cho lời dặn một bài
Cầu xin cả thảy nhớ Thầy tại Tâm.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra ít chục bổn, phát trước cho Chức sắc cùng là các Chủ thánh thất mỗi chỗ một bổn, rồi xuất của Hội Thánh ra đặng in số nhiều phát ra cho Đạo Đời cả thảy. Trong số gởi cho các Chủ Thánh thất đều phải để lời dặn riêng : như ai có lòng hão tâm ấn tống thì được để tên rồi phải trình cho Chủ Thánh thất hay đặng ấn chứng rồi mới được phát. Còn tại Thánh Tòa, thì giao quyền cho Ngọc Đầu Sư ấn chứng; còn xuất của Hội Thánh thì để là của Hội Thánh Chơn Lý ấn tống. Quyền nầy về Năm Thiên Sư xem xét, rồi đóng dấu, ký tên phát ra cho Đạo Đời cả thảy, rồi cũng đem vào Đ.C.L mùa Xuân. Từ đây sắp tới, mỗi quyển đều có để bài nầy vào gọi là Lưu Chuyển Tĩnh Ngộ Hồi Tâm./.
————————————d&c————————————
Ngày 13 Tháng 8 Annam 1940 (6 giờ Sáng) [ĐCL.39/92]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn :
Giờ nầy có đuû Chư Vị Phật Tiên Thánh Thần về đây đặng xin phép Thầy giáng bút, chỉ rành bài Kệ Gióng U Minh cho phái Nữ coi theo đó mà làm cho trúng Luật.
Vậy, con có vui lòng không?
- Bạch, con vưng theo lời Thầy.
Lời dạy của Chư Phật Tiên Thánh Thần như sau :
- Mỗi ngày từ 9 giờ tới 10 giờ là 1 thời.
- Chiều từ 3 giờ tới 4 giờ là 1 thời.
- Tối từ 9 giờ tới 10 giờ là 1 thời.
- Khuya từ 3 giờ tới 4 giờ là 1 thời.
Mỗi ngày đêm phải làm cho đúng
Trước khi gần đúng giờ, thì phải vào lạy Đức Mẹ, lạy rồi ra coi cho thiệt đúng rồi thức 9 tiếng nhỏ nhỏ, thức rồi đọc:
- Lạy Thầy Chúa Tể Kiền Khôn……..gióng 6 tiếng
- Lạy Mẹ Đại Từ, Đại Bi ………………… 6 tiếng
Rồi đứng định tâm chừng 3 phút, cúi đầu sẽ đọc :
Chư Vị Tiên Ban giáng tố trần,……… gióng 3 tiếng Thiên Đài thừa mạng bố thi ân……………… 3 -
Xướng ngôn vi niệm tồn vong lý……………. 3 -
Vạn cỗ lưu hành cựu giữ tân……………….. .3 -
4 câu là…………………….12 tiếng
Đọc đủ gióng rồi, cúi đâu mật niệm :” Xin chư vị Phật Tiên Thánh Thần chứng minh độ rỗi”.
Niệm rồi, lên ngồi như ngồi thường, rồi đọc 2 câu đầu:
Cầu cho người đứng Tam Kỳ
Kẻ còn, người mất; đồng qui một trường
Đọc rồi gióng 6 tiếng. Rồi từ veù 1 đó cho tới vé 21 cộng là 90 câu. Cứ đọc mỗi câu gióng 1 tiếng; coi theo đó làm cho trọn giờ, là đúng.
Đọc, gióng cho đúng 1 giờ. Đúng rồi đứng dậy thức 3 tiếng nhỏ - rồi gióng 12 tiếng lớn, vào lạy Đức Mẹ rồi nghỉ. - Mỗi khi ngồi, chức sắc mặc áo thường phục, mang xiêm (củn), đội ni cô – Đạo hữu thì áo rộng trắng , tay 5 tấc.
LỜI DẶN RIÊNG: Khi làm lễ khánh thành giờ Tý rồi, thì Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài phải đến tả long chung mà gióng trước. Phái Nữ mới được phép gióng theo giờ ấn định.
Bài nầy giao lại cho Chưởng Quản Cữu Trùng Đài đặng in phát cho Đầu Sư phái Nữ, mỗi Vị 1 bổn. Đặng hỏi coi ai chịu gióng thì ghi tên, rồi chỉ biểu coi theo đó mà làm. Còn 1 bổn thì dán tại chỗ ngồi U Minh đó đặng mỗi người coi cho kỹ - Chưởng Quản Cữu Trùng Đài phải dán giấy cấm (mỗi giờ phái Nữ ngồi U Minh tại tả long chung) , những người không có phận sự, bất luận Nam, Nữ chẳng ai được đến đó mà chơi giỡn lã lơi; giữ gìn cho phân biệt. Lịnh ầy cũng treo tại chỗ ngồi U Minh hoặc là các nẽo đường đi vào Phổ Đà, cho mỗi người dễ biết./.
————————————d&c————————————
Ngày 08 Tháng 1 Annam 1940 (4 giờ chiều) [ĐCL.39/94]
TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN
ĐƯỢC, con phải nói cho LAM nó hay, cái hình tượng Bát Quái của Thầy lập ra đó, là cốt để chỉ cho Đời rõ cơ Trời gầy dựng; nên mới có thể thành là đem hết Hậu thiên Tiên thiên ráp làm cơ sở. Chớ từ xưa nay ít có chỗ nào làm ra cho đủ. Song cơ vận chuyển còn dài, sau Thầy sẽ dạy thêm nửa. Còn đây Thầy chỉ sơ cho nó rõ, cái số Lạc Thơ là số 15, là hai phía tương đối nhau, phía nào cũng vậy; đó là gồm trong khí vận Đất Trời đem về một chỗ. Còn số Hà Đồ là cái hình tượng Kim Qui (là rùa).
Như cung Ly đó, thuộc về trên đầu;
Còn cung Khảm, thuộc về sau đuôi;
Cung Tốn, cung Khôn thì thuộc về hai vai trước;
Cung Càn, cung Cấn thuộc hai đùi sau;
Còn Chấn thì về bên tả;
Đoài thì về bên hửu.
Đó là sự tích của Phục Hy hồi Nhứt kỳ, mở mang mối đạo là nhờ thấy hình Kim Qui mà tỏa ra Bát Quái, nghiệm cứu âm dương, truyền lần cho đến Châu Công, Khổng Tử; cũng là do theo đó mà làm ra sách dạy đời. Trong cũng có tiếp điễn Vô Vi, nên mới rõ các điều động, tịnh; đó là Thầy chỉ sơ chớ Đạo Lý là tối cao, khó bề nói hết. Còn các chỗ đi ra, đi vào đó là trật tự đặng kềm thúc nết phàm gọi là vào nơi nhà Đạo - Vậy con giao lại cho CA, đặng Ca coi rồi trả lại cho LAM để dành mà chiêm nghiệm.
Đây Thầy cũng cho nó một bài thi để đọc hằng ngày cho dễ hiểu.
T H I :
1.- Từ xưa nay có một lò
Là cơ vận chuyển, làm cho rõ Trời
Ai ai đều biết ở đời
Mà quên đời có đổi dời tại đâu
2.- Mãn ham danh lợi mưu cầu
Đành quên Tạo Hóa nhiệm mầu chuyển xây
Lo lường cho quá rồi sai
Là sai lạc Lý, miệt mài trần ai
3.- Ít nghe, ít thấy Thiên Đài
Vì chưng xác thịt, kéo hoài chỗ mê
Chẳng vừa vật dục thì chê
Vui cùng bước lụy, ủ ê trọn đời
4.- Nói ra ai cũng viện lời
Con Trời dưới thế, thì Trời phải lo
Nói vầy cũng phải vậy cho
Trời lo thì có, Người lo phá Trời
5.- Tháng ngày húng hính dễ ngươi
Đầy năm đếm tuổi, gọi người lớn khôn
Chác đeo nghiệp báo dập dồn
Là khôn là lớn, còn khôn không rành
6.- Có hình mà chẳng rõ sanh
Là sanh khí tượng, dữ lành ngoài trong
Cũng vì tại chỗ tiếc công
Là công học hỏi, Đạo thông cơ mầu
7.- Quẩn quanh mai thảm, chiều sầu
Than dài thì biết, Đạo Mầu thì chê
Giải lời hơn thiệt con nghe
Thầy ra lập Đạo, phần chê số nhiều
8.- Xác phàm khoe tặng hiêu hiêu
Kể chi Tạo Hóa, Thiên Điều thưởng răn
Con nào rõ đặng bổn căn
Định Tường rán đến, dò phăng trở về
9.- Đó là chỉ chỗ cảnh quê
Đời xây, Đạo chuyển, Thầy phê trước rồi
Dạy làm có thứ, có ngôi
Đó là làm để dành nuôi dưỡng thần
10.- Trên thì nhờ chút huệ ân
Dưới xem cảnh tượng, có phần Thiên nhiên
Chung nhau vùa giúp lúa, tiền
Đó là của độ, kẻ hiền, người chơn
11.- Thuận hòa vui đẹp là hơn
Ngày thêm một mới, nền nhơn đức tài
Giải cho các trẻ một bài
Đặng con dành để, đọc hoài thấy vui./.
ĐƯỢC, bài nầy con biểu CA in ra cho LAM 1 bổn.
(Giáo Hữu LAM, ở Ba Dinh)
————————————d&c————————————
Ngày 16 Tháng 1 Annam 1940 (8 giờ tối) [ĐCL.39/96]
VỀ SỰ QUI CĂN
ĐƯỢC, con phải nói cho LIỆC nó hay, Thầy đem nó về chỗ Qui Căn là một chỗ để cho mỗi đứa về đó đặng bình tâm, dưỡng tánh là làm phận sự cho rồi; thì mới gọi là Tu lai Cãi vãng. Đó là một lẽ an nhàn tự tại, kế vãng khai lai, mà nó vẫn chưa hay, chưa biết; cứ bền lòng so thiệt, tính hơn, làm cho trái hẵn với chỗ mình nhờ cậy. Tại vậy nên ngày nay kết cuộc buộc ràng , Thầy quá thương là vậy đó.
Vậy Thầy cho nó 1 bài thơ để đọc hằng ngày đặng thõa tấm lòng sở vọng.
T H Ơ R Ằ N G :
Vui đạo, vui đời cũng gọi Vui
Nếm lâu rồi gẫm, cả hai mùi
Vui theo đạo lý, là vui vẻ
Vui luyến tình đời, tật quá vui
Quá vui rồi ngán, quá đây rồi
Rồi thảm lại buồn, cũng khó thôi
Thôi phải vậy thôi, rồi cũng nửa
Nửa vào ra chỗ, ngó trông đời
Trong đời bỉ cực với hưng suy
Suy nghĩ rồi ham tại chỗ bì
Bì sánh đẹp so giành lấn tục
Tục là lao lục, quá phân bì
Phân bì sao xứng, bởi vì đây
Đây sẵn phận riêng, chỗ nọ nầy
Nầy đặng hưởng riêng phần Đạo Lý
Lý hiền là quí, tiếng lâu dài
ĐƯỢC, con giao lại cho CA đặng nó in ra gởi cho Liệc coi mà tự xét. – Còn 1 bổn thì cho mấy đứa ở nhà Chiêu Đãi coi mà tìm xét. -THĂNG-
(Phối sư LIỆC - ở Tam Hiệp )
————————————d&c————————————
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 19 Tháng 1 Annam 1940 (12 giờ trưa) [ĐCL.39/98]
TẠO TÁC LÀM THÊM TIỂU CẢNH PHỔ ĐÀ
ĐƯỢC, Con phải nói cho CA nó hay, trong cuộc làm thêm cảnh Phổ Đà, Thầy có hứa sau Thầy dạy thêm. Đó là do Cơ Tạo Hóa vận chuyển sắp bày. Nay Thầy dạy thêm trong đó là phải làm thêm một cái nhà ở phía trước, là nhà Phổ Môn; nhà ấy bề lớn ra chừng 3m50 tây. Chỗ đó để đặng vào quì chấm nước Thánh như Bát Quái, bề ngang qua giáp với nhà chuông trống. Song phải làm nóc như cái nhà kế đó cho phân biệt, bề cao thấp hơn; nền cũng thấp hơn 2 tấc. Phải có 3 cái thang đặng để lên, xuống hành lễ. Còn đi việc chi ngoài giờ hành lễ thì đi thang hai bên như Đông hiên, Tây hiên; tại đó có đi vào hành lễ hay là vào lạy rồi ra thì được. Căn giữa thì để cho Chưởng Quản, Đầu Sư, Chánh P.S, Phối sư, Giáo sư, được đi . Còn bên hữu thì G.hữu trở xuống Đạo hữu ; bên tả thì để cho phái Nam vào hầu lễ.
Tại trên cữa đó, phải có tấm biển hiệu đề hai chữ PHỔ MÔN. Còn ở trong nhà kế đó, thì có tấm biển nửa đề chữ ĐÀ VIỆN. Hai tấm biển nầy bề dài 1m tây; bề lớn 0m60 tây, khắc chữ lớn, nét trầm; sơn màu xanh, chữ trắng; bề mặt để bằng như tấm biển hiệu Định Tường.
Còn tại Chánh điện thì có 1 tấm nữa, bề ngang chừng 1m50 tây – bề lớn chừng 0m80; tấm biển nầy đề 4 chữ : DIÊU TRÌ KIM KHUYẾT. Khắc chữ nổi chừng 1 phân tây. Giáp vòng có chạy hồi văn theo cách sơn đỏ, chỉ vàng; hồi văn cũng chạm nổi. Đó laø công vụ trong Phổ Đà là vậy đó - Còn liễn hay món chi để cho xứng đáng trong đó, thì tự lòng mỗi đứa hão tâm. Song có muốn phải hỏi xin, đặng cho Thầy biện định.
Còn phần Năm Thiên Sư thì phải in ra bài của Chư vị Tiên Thần giáng tại H.T.Đ Vô Vi ngày 02-12-1939, 8 giờ trưa, đặng phát ra cho các chức sắc, đạo hữu phái Nữ ở tại Thánh Tòa hoặc ở các nơi dặn phải học cho thuộc đặng có ngày về Phổ Đà gióng U Minh; trừ ra người dốt thì không nỡ buộc; đồng nhi Nữ học cũng được. Ngồi mỗi ngày 2 thời, đêm 2 thời – mỗi thời 1 giờ. Nói trước cho hay chừng nào Thầy định người sẽ biết. Đó là trách nhậm của Thiên Sư, chớ nên bỏ qua mà có tội./.
————————————d&c————————————
V.
THÁNH HUẤN
DẠY VỀ ĐẠO TRÀNG VÀ GIẢI NGHĨA
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 6 Tháng 1 Annam 1940 (11 giờ trưa) [ĐCL.39/100]
Nầy mỗi con có mặt trong giờ Đạo tràng An Thạnh Thủy đây, rán nghe Thầy dạy :
T H I :
1.- Ngày Xuân vui vẻ Đạo tràng
Rán lo bề Đạo, là an một bề
Dẹp lòng trồi sụt, ủ ê
Là so thế tục, luận chê theo phàm
2.- Mỗi con biết Đạo làm nên phải
Thì nhớ câu: Thiên tãi nhứt thời
Dễ chi gầy Đạo, lập Đời
Đó là việc lớn, biếng lười ắt hư
3.- Lời Thầy dặn: trầm tư mặc tưởng
Chớ hỡ môi, độ lượng không nhằm
Rõ điều năm mấy ngàn năm
Là năm giáng thế, phải tầm, phải suy
4.- Nếu biết được, thì đi theo đó
Các việc đời đừng có chấp nê
Đã đành đạo đức chịu quê
Song đều hữu ích, ích về phận tu
5.- Đời hổn tạp Hiền, Ngu không rõ
Đạo Chánh Minh, vì đó đau lòng
Khác nào như đục với trong
Tại vầy nên chịu, đau lòng giận riêng
6.- Mỗi con biết phận Hiền tu niệm
Thì chớ nê bao biếm các lời
Trọn làm gương tốt, tĩnh người muội mê
ĐƯỢC, con đọc tại đây cho cả thảy nghe, rồi về Thánh Tòa Thầy sẽ dạy tiếp.
(Tiếp 10 giờ tối, ngày 6 tháng 1)
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 6 Tháng 1 Annam 1940 (10 giờ tối) [ĐCL.39/101]
7.- Trong mỗi đứa rán nghe rành rẻ
Nghe rồi mình tự tỷ lấy thân
Tại sao Thầy nhắc dạy cần
Tại vì mình có duyên phần chi đây
8.- Tỷ như được biết Thầy thương mến
Còn ngáo ngơ, bờ bến không rành
Đáo đầu rồi cũng lộn quanh
Đó là tại chỗ, không rành nét tu
9.- Hỏng hờ theo bọn nhàn du
Ngày qua, tháng lại; hiễn u không tường
Rộn ràng lo cuộc tranh thương
Vì khôn, vì dại mà vương khổ hình
10.- Mỗi con nhìn đó xét mình
Xét mình tu niệm, được bình vững vui
Đạo tràng cần phải tới lui
Đó là chỗ để, đặng nuôi Đức, Tài
11.- Chẳng cần ngày lợt, tháng phai
Thì đâu rõ Đức, rõ Tài Đạo sanh
Đạo sanh nhờ Đức chí thành
Có tài bươn chải, mối manh mới tường
12.- Tự lòng xét lại đều thương
Là thương mình trước, đặng nương theo Thầy
Thương mình vì xác tạm đây
Lo bề đạo đức, xác nầy rảnh rang
13.- Tranh đua thì phải buộc ràng
Vì vinh, vì nhục; nhộn nhàn, sánh so
Thương mình đừng có rút co
Rán siêng về Đạo, là no ấm lành
14.- Công dày, quả trọng, lý sanh
Là Vô Vi lập, trí thành hữu an
Giăng tay đoàn thể vững vàng
Nối theo lời Đạo, bạo tàn chớ ưa
15.- Nối nhau sau trước ngăn ngừa
Theo đường đạo đức, đảo lừa nào xong
Cho nên lòng phải buộc lòng
Buộc là không dám kể công với Trời
16.- Vì chưng mạng sống ở đời
Sống mà biết Đạo, thuận thời phải lo
Lo làm cho phải vậy cho
Là cho phải phận, thiệt trò Lý Chơn
17.- Chẳng cần thiệp thủy đăng sơn
Tại đây Thầy sẵn, hóa nhơn Đạo thành
Ngày Xuân trường Đạo chỉ rành
Mỗi con bền chí, đừng sanh cãi bàn
Nhứt thành thượng đạt là an
Mỗi con đừng có, thở than ngạnh nghề./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy đạo; còn 1 bổn thì trả lại Đạo tràng đặng mỗi kỳ TÂM phải đọc cho đạo nghe chung mà tự xét ./.
————————————d&c————————————
Ngày 7 Tháng 1 Annam 1940 (7 giờ tối) [ĐCL.39/103]
ĐƯỢC, Con nghe Thầy dặn :
Ngày 9 tới đây con đi Đạo tràng Thân Cửu Nghĩa, trong đó Thầy thấy rõ phần vui thì ít, phần chẳng vui thì nhiều cũng là do tại tấc lòng hiêu hiêu với nỗi niềm ngơ ngáo.
Vậy Thầy cho trước một bài thơ, đặng ngày đó con đọc trước cho cả thảy nghe, rồi dạy đạo.
1.- Việc tu niệm, từ kim chí cỗ
Là một phương dạy dỗ nhơn từ
Sửa đời cho bớt thói hư
Đạo là đường chánh, ý tư tại người
2.- Trong thế cuộc, Ta Người chia rẻ
Muốn hiệp hòa thì phải chí Tu
Lần theo đạo lý tương phù
Dưỡng tâm, âm chất; dầu Ngu cũng Hiền
3.- Kìa cuộc biến, tang điền thương hải
Nọ người mê, người hại lấy người
Tĩnh tâm mở mắt nhìn đời
Nhìn rồi rơi lụy, nghĩ rồi thở than
4.- Dầu khôn dại, hèn sang cũng khổ
Là tại nơi tâm mộ tranh tài
Tranh giành nhiều rủi, ít may
Đó là gọi khổ, phần ai nấy buồn
5.- Thầy mở Đạo chỉ đường Chơn Lý
Là chí chơn, nhứt lý vô tà
Dạy rành, chỉ tột gần xa
Nẽo đường quanh lộn, lấy hòa làm ngay
6.- Mỗi con xét, rõ Thầy là Lý
Lý Vô Vi mình trị, lấy mình
Buộc lòng cho phải trọn tin
Tin thì phải giác, gọi mình thảnh thơi
7.- Thầy giáng bút, để lời hơn thiệt
Nếu con nào nghe biết, sợ lo
Sợ thì chừa thói rút co
Lo làm phận sự, đừng cho sái lời
8.- Sái lời hứa tại vì nghi nghị
Nghi nghị nhiều, chung thỉ chẳng tròn
Tháng ngày đành chịu thon von
Cũng là dại dại, khôn khôn, cãi bàn
9.- Thầy chuyển lập Đạo tràng lừa lọc
Là câu văn bài học chỉ rành
Có cần, có xét, có sanh
Là sanh đạo lý, lòng thanh, trược rành
10.- Lại còn một nỗi giành cao, thấp
Là cố nghi giai cấp giàu, nghèo
Quyết lòng đánh đổ cho tiêu
Ngặt vì mình chẳng, trọn điều Lý Chơn
11.- Thầy thấy rõ từ cơn mỗi đứa
Là từ cơn chất chứa chuyện thù
Bề ngoài giả dạng rằng Tu
Bề trong lo tính, chuyện thù, oán riêng
12.- Tu như vậy, hữu duyên sao được
Là tại nơi xuôi, ngược chưa tường
Xuôi là Đạo chẳng cự đương
Ngược là lòng muốn, lấp đường, cản ranh
13.- Mỗi con nào có vậy đành
Đành nghe Thầy nói tự mình xét suy
Xét coi trong đạo Tam Kỳ
Chuyển về Tam Tiểu, đường đi xa, gần
14.- Suy cùng kẻ Cựu, người Tân
Cựu là cố oán, còn Tân bỏ thù
Bỏ thù đặng rảnh thân tu
Cơ thâm oán chạ, hiền ngu chẳng rành
15.- Phần riêng Chơn Lý học hành
Đó là chỗ để, sẵn dành độ nguy
Nếu ai rõ được thời kỳ
Đem mình vào Đạo, thuận qui Chơn truyền
16.- Học lần rõ được phước, duyên
Hành theo Chơn Lý, phĩ nguyền phận tu
Ích chi gây oán, kết thù
Làm cho lỡ dở bề ngu, bề hiền
17.- Nên rằng Chơn Lý phải riêng
Là cơ lừa lọc, dữ hiền có nơi
Đặng cho đời rõ Đạo Trời
Lập rồi phán xét, định thời họa nhơn
18.- Đường bằng chẳng trợt, chẳng trơn
Lần theo đuốc huệ, tại thêm nặng nề
Nặng nề là chỗ chấp nê
Lần theo đặng bớt, sự chê khen lầm
19.- Đó là mình tự tối tăm
Đuốc là Thánh huấn, nghiệm thầm biết xa
Mỗi con từ trẻ, đến già
Tốn hao về Đạo, đó là lập thân
20.- Lập là lập chí Tân Dân
Thân người đạo đức, tránh phần họa tai
Để lời dặn cả Gái, Trai
Đừng khoe sức mạnh, tài hay hơn Trời
21.- Náu nương xác tạm ở đời
Thì coi thời cuộc đổi dời phải tuân
Luật Trời là chỗ Oai Ân
Rày xây, mai chuyển; định phân chẳng lầm
22.- Tại lòng người cố tham tâm
Mà quên vô yểm, hại thầm tấm thân
Quá lo, quá tính tổn thần
Đó là vì lợi, quên phần khổ tâm
23.- Khổ dồn để chứa nhiều năm
Tấm thân biến loạn, lủi nhầm đường nguy
Nay Thầy kết một bài thi
Để lời khuyên giải, đọc thì rán nghe
24.- Nghe coi Thầy nói mọi bề
Bề tu Chơn Lý, với bề xảo ngoa
Bề cư xử phận ôn hòa
Bề tranh cạnh đấu, đó là tại đâu
25.- Xét rành từ khoản, từ câu
Chỗ nào Thầy cũng, dạy mau xét mình
Xét coi mình có xác hình
Mình không thuận Lý, tội tình ai mang
26.- Thân hình như vậy nào an
Rày tranh, mai cạnh; chiều than, tối buồn
Dập dồn nầy hố, nọ truông
Chạy ra chẳng khỏi, rồi tuông bụi bờ
27.- Xét thầm thấy đó ngẩn ngơ
Trời cao, Đất rộng làm lơ sao đành
Cho nên mở Đạo chỉ rành
Dẫn đường tu niệm, kĩnh thành độ chung.
ĐƯỢC, bài nầy con đọc tại đạo tràng cho cả thảy nghe rồi giao lại cho CA, đặng nó in ra gởi trả lại 1 bổn ; đặng Thâu với Sáu chép ra phát cho Đạo coi mà học./.
————————————d&c————————————
Ngày 15 Tháng 1 Annam 1940 (8 giờ trưa) [ĐCL.39/106]
Nầy mỗi con ở tại Thủ Thừa có chí tu hành, rán nghe Thầy dặn :
T H I :
1.- Rán gìn Chơn Lý nương nhau
Chớ ham chi chuyện cầu cao biếng lười
Đã cho mình gặp đạo Trời
Gặp là gặp Lý, gặp lời chánh chơn
2.- Dầu cho khó nhọc chẳng sờn
Quyết làm theo trọn, lời nhơn tiếng hòa
Tục đời giả dối đã qua
Qua rồi đừng tiếc, đó là gọi Tân
3.- Thầy xem thấy sớ Chư Thần
Thường tâu mỗi đứa, chẳng vưng lịnh Trời
Còn ham mê luyến tục đời
Sợ e bỏ dứt, thói đời nghị nghi
4.- Tại vầy mà đạo đức suy
Là do tại chỗ, tỵ nghi không nhằm
Mê trần hũ tệ nhiều năm
Ngày nay gặp đạo, sự lầm chẳng buông
5.- Cho nên Thầy quá đỗi buồn
Buồn vì mỗi đứa tấc lòng ngược xuôi
Cũng vì cái tật ham vui
Là ham về sự, tới lui tạc thù
6.- Chẳng nhìn lại thể mình tu
Hễ tu thì bớt, phàm phu buộc ràng
Bớt lần mới có rảnh rang
Rảnh rang thì đặng, bình an cho mình
7.- Gặp Thầy, gặp đạo phải tin
Tin làm cho giống, gọi mình tĩnh tâm
Được, con đọc tại đây cho mỗi đứa nghe, rồi về H.T.Đ Vô Vi Thầy sẽ dạy tiếp.
(Tiếp 7 giờ tối ngày 15-01)
Tĩnh rồi xét lại mới ham
Là ham đạo đức, rõ phàm, rõ Tiên
8.- Nên rằng có phước, có duyên
Còn đeo nặng tục, thấy liền chỗ sai
Thầy thương chỉ dạy nhiều bài
Học sao chẳng nhớ, cứ mài miệt chơi
9.- Thoát ra chẳng khỏi thói đời
Thì trông chi đặng lần hồi rảnh rang
Tu hành như vậy rồi than
Than vì chịu nhọc, còn mang Luân hồi
10.- Thầy buồn tại đó con ôi !!
Ráng lo dứt tục, cho rồi chớ ham
Để lời dặn cả Nữ, Nam
Gặp Chơn Lý đạo, đừng cam mỵ tà
11.- Hai điều nầy rất khác xa
Chớ rằng viện cớ, đặng pha cho nhiều
Nhọc nhằn công khó bấy nhiêu
Hễ nghe tà mỵ, mình tiêu lấy mình
12.- Tiêu là mòn giảm Đức Tin
Đức Tin chẳng vẹn, thì Linh đâu còn
Nên kêu chung, thỉ chẳng tròn
Cũng vì mê tục, chịu lòn cúi ma
13.- Tháng ngày quanh quẩn vào ra
Ước ao tài lợi, thuận hòa lại quên
Ma trì, quỉ níu rũ ren
Đó là tiếng gọi, tiếng kèn êm tai
14.- Viện ra đủ cớ, đủ bài
Gọi là cứ giữ xưa nay lệ thường
Quên đành Chơn Lý náu nương
Là nương lời phải, sự thương vuông tròn
15.- Cha Trời lời dạy dỗ con
Con phàm lại cãi, vì khôn dại thầm
Cũng là cái tật tham tâm
Là tham cầu khẩn, chỗ lầm không hay
16.- Quyết tin Chơn Lý thờ Thầy
Thì thôi đừng tưởng, việc ngoài quỉ ma
Đặng làm cho phải người ta
Người ta trọn Lý, trọn hòa mới cao
17.- Từ xưa Tiên Phật hạng nào
Trước nhờ bỏ tục, rồi sau đắc thành
Mỗi con Nam, Nữ nghe rành
Ráng bền tâm chí, đạt thành từ đây.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy đạo; còn 1 bổn thì trả lại cho Thánh thất Thủ Thừa cho Dậu nó đọc trong đạo nghe cho rõ./.
————————————d&c————————————
Ngày 20 Tháng 1 Annam 1940 (1 giờ chiều) [ĐCL.39/109]
Nầy mỗi con ở tại Thánh thất Bình Đại, có lòng lo học Đạo tràng khuyên rán nghe lời Thầy dạy đây, đừng có bỏ quên mà lỡ cuộc, nghe mỗi con.
T H I :
1.- Đạo Tràng cơ Đạo ngày cao
Ngày cao thì mỗi đứa mau bước lần
Chớ rằng học đó có chừng
Có chừng sao đặng, hưởng phần phước chi
2.- Thầy có nói nhiều khi, nhiều bữa
Là khi răn, khi sửa dạy lòng
Bữa nào ngày nấy đục, trong
Mỗi con mỗi bữa, tấm lòng ra sao
3.- Công có học thì cao mới phải
Cao là lòng quãng đại thứ nhiêu
Ráng nương theo cuộc độ điều
Đó là có học, học nhiều có nên
4.- Trong mỗi việc, hễ bền thì chắc
Chắc là do dè dặt đủ điều
Có bài, có vở đuốc khêu
Sáng bừng cao ngọn, dò theo chẳng lầm
5.- Lời Thầy nói ráng tầm suy nghĩ
Suy nghĩ từ Vô thỉ tới nay
Thế gian thường nói có Thầy
Có Thầy nào dạy, chỉ bày sự cơ
6.- Có nhiều đứa, ước mơ gặp Hội
Nay gặp rồi đành nguội, lạnh quên
Đó là chỗ ước ao riêng
Là riêng về lợi, về quyền, phẩm cao
ĐƯỢC, bài nầy con đọc tại Đạo tràng cho cả thảy nghe, rồi về Hiệp Thiên Đài Vô Vi Thầy sẽ dạy tiếp.
(Tiếp, ngày 21 tháng 1 annam 1940 (1 giờ chiều )
7.- Tính như vậy, ngày nào nên Đạo
Vì đạo khai, khữ bạo, trừ tà
Lợi quyền do bạo mà ra
Phẩm cao lòng độc; gọi là nhiễm trong
8.- Dặn cho mỗi đứa an lòng
Là an lòng học, đừng mong mỏi phòng
Đạo Trời là chỉ Phước Duyên
Chỉ đường cho dễ, bề chuyên nỗi niềm.
9.- Nỗi niềm tâm sự thủ nghiêm
Hễ thân người học, người thêm vững người
Vững vàng là phận tốt tươi
Dò theo Thánh trước, rõ đời tục sau
10.- Trước sau cũng chẳng người nào
Người đây mà có, chỗ dời, chỗ phăn
Dời xa đạo lý nên rằng
Rằng tu không thiệt, tại lòng lã lơi
11.- Phăn tầm gắn chặc gần nơi
Là nơi trường đạo, chẳng rời, chẳng chê
Dễ ngươi đành chịu lỡ bề
Là do thấy dễ, chẳng hề chịu lo
12.- Mãn đời còn lộn sánh so
Là so sánh chuyện, reo hò thị phi
Cũng vì lòng dạ quá nghi
Chưa rành đâu bạc, đâu chì, đâu thau
13.- Tưởng thầm so sánh tục cao
Không dè lo tục, chịu vào nẽo nguy
Lo theo điều tệ ích gì
Vì trong lòng vẫn tự khi nên lìa
14.- Mượn màu Chơn Lý làm bia
Vậy là mình tự, dễ khi lấy mình
Thầy răn, Thầy dạy chẳng nhìn
Vì ưa tiếng tặng, lời vinh thói phàm
15.- Dặn dò con cả Nữ, Nam
Rán coi đứa vậy, có làm chi xong
Vì chưng lòng tự khi lòng
Khi lòng mình đặng, thì công quả mòn
16.- Con nào thì cũng là con
Song đều khác tại, bảo tồn cùng không
Mỗi con nào có ý phòng
Phòng nghe Thầy nói, lóng lòng cạn, sâu
17.- Cạn là chuyện mới chẳng lâu.
Sâu vì lời ẩn, nhiều câu khó tường
Quyết lòng thì rán chải bươn
Lo đừng cho trễ, cứ Thường Thiệt Tin
Cạn sâu rồi cũng dễ nhìn
Là do mình xử phận mình cho kham.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra gởi trả lại cho Bình Đại 1 bổn đặng trong đó chép ra cho Đạo học mà tự xử. Còn Năm Thiên Sư phải giữ 1 bổn , phòng ngày sau đến đó dạy Đạo./-
————————————d&c————————————
Ngày 1 Tháng 2 Annam 1940 (7 giờ Sáng) [ĐCL.39/112]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:
Ngày 8 tới đây con đến Ngọc Phát (Bạc Liêu) Thầy cho con với CHIẾU hay trước rằng, đó là ngày Thầy phóng điễn quang đặng thưởng cho mấy đứa hết lòng vì Đạo. Vậy Thầy cho thi đây đặng con giao lại cho CA, đặng nó trao cho CHIẾU đem về trước ngày đó; phải mặc Đại Phục đặng hầu nghe lời Thầy dặn.
T H I :
Đạo tràng Ngọc Phát từ đây
Từ đây mỗi đứa, mỗi ngày mới thêm
1.- Mới là ráng lo kềm Tâm Tánh
Mới là ra vẻ hạnh khiêm từ
Phải chừa cái thói nhàn cư
Mới nầy vô ích, nếu ưa hại thầm
2.- Thầy mở Đạo nhiều năm rồi đó
Đó rồi coi thấy có mấy người
Cũng vì lòng dạ lã lơi
Đạo Trời tưởng ví, như đời bấy lâu
3.- Nay đến buổi, đáo đầu thưởng phạt
Nên phân tường Thiện, ác dễ nghe
Có nghe đặng ráng dặt dè
Dặt dè là sự, chở che cho mình
4.- Trời là Lý, vô hình mà có
Có thưởng răn rồi đó thấy rồi
Thấy rồi thì chịu ôi thôi !
Ôi thôi ! nhiều kiếp, quá rồi ngán chưa ?
5.- Con nào nói, rằng chưa biết ngán
Thì ráng theo cho đáng sức phàm
Con nào thấy vậy chẳng ham
Thì lui về Đạo, đặng làm người chơn
6.- Từ kim cỗ, lấy Nhơn làm trước
Nhơn từ là họa, phước chỉ cho
Cũng vì thương quá phải lo
Lo đồng chung cả, đặng cho hết lời.
7.- Nhơn đức hậu sanh Trời là đó
Trong các con chịu khó nghiệm tường
Chớ lầm thế tục mến thương
Thương không rành đạo, chỉ đường cạnh tranh
8.- Thương như vậy, rồi sanh chuyện rối
Thương cho nhiều, hại nối lần theo
Tại chưng chẳng thạo hiểm nghèo
Tưởng cho là dễ, nhắm dèo gọi thương
9.- Nay Thầy chỉ con đường Chơn Lý
Từ xưa nay thưởng, trị cũng vầy
Thưởng là thưởng đứa biết hay
Biết làm ra mới, ngày hay đức hòa
10.- Trị là trị, Tâm tà, Tánh tục
Mình trị mình, chẳng nhục chi đâu
Việc chi phải xét buổi đầu
Tại sao quấy phải, thì sau khỏi lầm
11.- Đó là chỗ tu Tâm, định Tánh
Quyết tu hành thì hạnh phải y
Làm cho rạng vẽ Tam Kỳ
Là chơn giáo lập, đồng qui thuận tùng
12.- Chớ vội tưởng Trời chung, người trọn
Trời thì chung, người lộng khi Trời
Người vầy, người trọn dễ ngươi
Dễ ngươi lãnh trọn, cả đời vô minh
13.- Tại vầy Thầy phóng điễn Linh
Con nào tin sợ, thì mình mở mang
Đặng cho mấy đứa mơ màng
Nhìn coi đứa quyết, thấy càng hỗ tâm
14.- Nếu Tâm biết sợ hỗ thầm
Thì lo tự hối, lần chăm theo Thầy
Sẵn đường, sẵn đuốc tại đây
Sẵn Thầy lo dạy dỗ hoài chẳng thôi
15.- Thôi nầy là tại dễ duôi
Miễn là cho có, có rồi bỏ qua
Đó là uổng kiếp Người Ta
Người ta chẳng thiệt, chẳng hòa với Tâm
16.- Ích chi chuyện giả tính thầm
Tính thầm quá tính, nhiều năm cũng lìa
Buổi nầy Thầy dạy sớt, chia
Giàu dư, nghèo thiếu; lạc bi tương hòa
17.- Chia buồn, sớt nhọc nhìn Ta
Ta là Độc Nhứt, gầy ra Đạo Mầu
Mỗi con ráng ngó trên đầu
Có ai qua nỗi, lại hầu ngỗ ngang
18.- Chung lòng gầy cuộc vững an
Vưng lời Ta dạy, Đạo tràng phát minh
Sớt, chia là chỗ thuận tình
Thuận theo Trời dạy, cảm tình anh em
19.- Phải gìn chỗ Thiệt cho nghiêm
Dầu công, dầu của; đừng đem ý tà
Tuy rằng tháng lụn, ngày qua
Chuyện ngay, gian đó; Ngọc Tòa sẵn ghi
20.- Tu lâu rồi đọa A Tỳ
Cũng là tại chỗ, hành vi bất bình
Một là vì thấy lòng tin
Nương bề tín ngưỡng, quên gìn lẽ chơn
21.- Nên rằng sự Thiệt là hơn
Mỗi con nào sẵn, lòng Nhơn rán ngừa
Cơ Trời thưởng, phạt nhặc thưa
Quyết làm cho đạo, đừng ưa Độc Quyền
22.- Bấy lâu nền đạo đảo huyền
Cũng vì tại thất Chơn truyền Đạo tâm
Thầy đem lời Thiệt, nói nhằm
Chẳng cao, chẳng thấp; chịu làm thì nên
23.- Nên nhờ chỗ Thiệt vững bền
Đó là nên cuộc, ngày lên mỗi ngày
Lên là Tâm Chí chẳng sai
Công hòa, của thuận; dầu trai, gái đồng
24.- Chẳng dèm, chẳng mỵ, là không
Phận ai thì nấy, cũng đồng biết nhau
Tâm bình, Tánh định, Đạo cao
Mỗi con rán lập, ngày sau hưởng nhờ
25.- Điễn Thần Minh Huệ Diệu cơ
Phóng ngay đàn nội, tại giờ nầy đây
Hàng Long Chơn Tánh, tay Thầy
Là tay Thầy để, cậy sai mỗi ngày
26.- Phóng ra bài vở rộng dài
Trong nhờ điễn báu, giúp tài độ chung
Rán tin theo Lý trọn dùng
Đừng mê ước mộng, Trời chung riêng người
27.- Rồi sau trở lại trách Trời
Nên Thầy sai cậy, tỏ lời trước đây
Ngày qua cơ chuyển một ngày
Cho nên để dấu, để bài có căn
28.- Qua rồi lớp tới, dễ phăn
Là nơi Thánh huấn, Đạo hoằng hóa sanh
Giúp nhau vì đó chịu đành
Là công, của tạm; lập thành phẩm cao
29.- Tạm là dời đổi trước, sau
Rày dư, mai thiếu; cùng nhau một lòng
Nên rằng chẳng ỷ phần đông
Chẳng chê phần ít, miễn lòng trọn tin
30.- Đó là mở cuộc hòa bình
Ráng làm cho vẹn, trước nhìn sau thương
Để danh Tòa Thánh Định Tường
Là Tâm quyết Định an Tường đạo sanh
Mỗi con khuyên ráng nghe rành
Rồi lo bước tới, tạo thành cùng nhau.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra giao cho CHIẾU đem về trước 1 bổn; đặng ngày đó con đến chứng đàn đọc cho cả thảy nghe, gọi là ban thưởng./.
————————————d&c————————————
Ngày 6 Tháng 2 Annam 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL.39/116]
Nầy các con ở tại Tân Hòa Thành ráng nghe Thầy dạy:
T H I :
1.- Mỗi con khuyên gắng chí bền
Bền rồi thấy cuộc, hư nên rõ chừng
Thấy rồi thì biết vậy ưng
Ưng lòng vui đạo, khuyên đừng thở than
2.- Đó Thầy dặn rõ đàng Chung, Thỉ
Vì trước, sau mình tỷ lấy mình
Rõ Trời thưởng, phạt phải tin
Tin làm cho trọn, đừng khinh dễ người
3.- Trước mắt thấy cơ Trời gầy dựng
Là dựng nên điều thuận, lẽ hòa
Dặn chừng đừng có bỏ qua
Tại lòng mỗi đứa, tưởng là sự chơi
4.- Chừng biết đặng bĩ đời, xa đạo
Xa Đạo rồi nghiệp báo liền theo
Nhớ coi Thầy chỉ đủ điều
Mực đen, giấy trắng ; bỏ liều tại ai
5.- Lời Thầy hỏi, dầu trai, dầu gái
Nhớ lại coi có phải tại mình
Tại mình là thiếu Đức Tin
Rày nghe, mai cãi; luận bình nhố nhăn
6.- Tại vì đó, chuyện an thành biến
Là biến sanh theo chuyện đứa làm
Biến là đạo đức chẳng ham
Làm ra chuyện rối, mình cam lấy mình
7.- Mỗi con rán ngó, nhìn cho kỹ
Mới rõ Trời thưởng, trị có không
Không là để vậy không không
Chừng không biết sợ, Luật Công tới hành
8.- Tới hành phạt, chịu đành than thở
Than thở vì, chuyện lỡ rồi quên
Ngày nay mới rõ tội đền
Đó là quá muộn, vì quên chỗ phòng
9.- Mỗi con nào sẵn ghi lòng
Là ghi lời trước, thấy đồng sự sau
Thấy rồi khuyên nhủ, dạy nhau
Lựa dèo, lựa thế; đặng trao hết lời
10.- Phận mình đừng có dễ ngươi
Ráng bền cho đúng , là tươi tốt lần
Đó là Chơn Lý tự sanh
Vì trong biết học, biết hành, biết kiêng
11.- Nên kêu đó gọi Tâm Điền
Là thương người lỗi, dạ nguyền sửa nên
Chớ đừng thấy vậy rồi quên
Thành ra mình cũng, không nên trọn người
12.- Đạo con là Lý tin đời
Tin đời nhờ cậy sức người quyết tu
Đặng làm cho rõ trí, ngu
Bền tâm chẳng thối, ngày lâu mới hoài
13.- Mới làm cho Đạo chẳng phai
Đó là mới đáng trọn tài hóa nhơn
Mỗi con thấy khó đừng sờn
Khó làm cho dễ, sự hờn oán tiêu
14.- Dặn dò chẳng biết bấy nhiêu
Rồi gom lại có, một điều biết thương
Biết sao làm vậy cho thường
Đó là an mạng, chẳng cường, chẳng tư
15.- Nếu làm được vậy chẳng hư
Là trong mỗi đứa, nhìn xưa nay rành
Gắng công chịu khó thì thành
Khó là một lúc, chẳng rành thiệt, hư
Thánh Hiền thường gọi Như như.
Là kim cỗ sự, tại tư nhẫn hòa./-
ĐƯỢC, bài nầy con đọc tại đây cho chúng nó nghe rồi giao lại cho CA, đặng nó in trả lại đây 1 bổn đặng cho Dậu nó đọc cho Đạo nghe chung, rồi cũng chép ra cho mỗi đứa coi mà tự xét./- -THĂNG-
————————————d&c————————————
Ngày 3 Tháng 2 Annam 1940 (3 giờ khuya) [ĐCL.39/118]
Giải Nghĩa Bài MỞ MANG TRÍ HUỆ
1.- Trời Nam vận mở Tâm Điền
Là nơi Thầy lập Đức Hiền duy tân
Mở mang cơ thể tạo Thần
Vận lâm Khí hạo, mười phân vẹn mười
2.- Nam hòa sắc đẹp tốt tươi
Là tâm điễn thoại, Ta Người vẻ vang
Đời Xuân gió thuận u nhàn
Cảnh Trời Bạch Ngọc, rõ ràng nguy nga
3.- Tam Kỳ Đạo chuyển lần ra
Trên ban lời dạy, dưới ca tụng mầu
Biết cho vậy đó hết sầu
Ngàn năm gặp Hội, là hầu Thượng Ngươn
4.- Hung thần, gian đảng sạch trơn
Nhờ do khữ bạo, tùy nhơn thão hiền
Cho hay Đạo Chánh phĩ nguyền
Nguyền chung võ trụ. Chơn truyền rộng khai
5.- Đẹp mày, nỡ mặt từ nay
Dân lành, tôi thuận; người sai khiến người
Người sai, người khiến có Trời
Trời ra Mạng Lịnh, sửa đời làm nên
6.- Dân Lành, tôi Thuận thão duyên
Là duyên phước huệ, mình khuyên lấy mình
Khuyên mình nhờ vững Đức Tin
Mình khuyên mình được, là mình biết Tu
7.- Đó là cơ thể thần nhu
Nhu hòa thắng bạo, là tu gặp thời
Mở mang đời vững Đạo người
Đạo người là đạo, ở Trời ban ra
8.- Nhờ đây mới có vẻ hòa
Hễ hòa nhau đặng, đó là Đạo cao
Nên kêu Ấp Tổn phong trào
Người trao, người lãnh; một màu sắt son
9.- Dựng gầy cảnh tượng nước non
Hưởng đồng chung một, bầy con biết Trời
Ráng nghe cho thấu cạn lời
Lời châu, tiếng ngọc, của Trời nói ra
10.- Xác phàm ai cũng Người Ta
Còn trong cho hiểu đó là khó khăn
Nên rằng sẵn kiếp, sẵn căn
Sẵn rồi nghe nói, dễ phăn, dễ tìm
11.- Bền lòng chữ dạ hốt chiêm
Là an thủ phận, bề nghiêm trọn bề
Ví dầu đời tục gọi quê
Lòng con chịu vậy, chẳng hề cãi canh
12.- Chịu quê mình đặng thân lành
Hễ chê nhiều bữa, tội hành nhiều năm
Cơ Trời mầu nhiệm thậm thâm
Người không căn kiếp, khó tầm, khó phăn
13.- Căn là ngày trước có căn
Là căn đạo lý, Trời ban giáng phàm
Kiếp là một kiếp mấy năm
Mấy năm rồi đủ, mới tầm tới đây
14.- Cho nên gọi đó gặp Thầy
Thầy xưa có hạn, có ngày, có năm
Hạn nầy, ngày nọ tại Tâm
Năm chừng đạo chuyển, đến năm thì tường
15.- Tại sao nhiều kẻ tự cường
Là vô căn kiếp, lỡ đường vào chơi
Mượn Thầy làm thể một thời
Làm gương tội lỗi, cho đời rõ hư
16.- Hư là Lành tránh, Dữ ưa
Làm hư hình thể, gọi vừa, gọi hay
Đọa đày thì cũng trối thây
Đó là người tạm, cậy thây có chừng
17.- Trời ban phước huệ chẳng mừng
Trở chê rồi lại, lãnh phần khốn nguy
Mỗi con đứng vững Tam Kỳ
Rõ Trời gầy dựng, thì qui theo Trời
18.- Sau rồi lành, dữ có nơi
Đó là quá dữ, nghịch Trời phải xa
Lần lần ngày lụn, tháng qua
Cơ Trời vận chuyển, mình xa lấy mình
19.- Thuận tùng Chơn Lý dễ tin
Tin vì Trời lập thái bình Vô Vi
Hễ tin đừng có phân bì
Mình tu mình hưởng, điều chi có Trời
20.- Tỏ ra cho cạn các lời
Mỗi con Chơn Lý, đừng rời Tánh Tâm
Đã đành vận mở tại Nam
Tại Nam thì buộc, tự Tâm Tánh bình
21.- Lo tu lánh sự hữu hình
Hình răn kẻ nghịch, buộc mình phải kiêng
Nên rằng đạo đức ở riêng
Là riêng có chỗ, lánh quyền, lánh mê
22.- Lánh xa mình đặng an bề
Bề an theo vận, quyền, mê mặc dầu
Dò lần Máy Tạo tới đâu
Tới đâu thì cũng, nhớ câu Tâm Điền
23.- Rán ngừa Thiên Lý Vị Nhiên
Thì xa mưu sự, gọi Hiền tốt tươi
Đó là xuôi thuận theo Trời
Có đâu vướng họa, rảnh rời lòng vui
24.- Thánh Tòa ngày tháng tới lui
Chuyên cần kinh kệ, rõ mùi ngạt thâm
Dặn dò cả Nữ cùng Nam
Trời Nam vận mở rán làm đừng quên
Ráng làm cho đạo mới thêm
Đạo trong người có, đành quên hại người
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo học. Còn Năm Thiên Sư thì gởi cho các Chủ Thánh thất./.
————————————d&c————————————
Ngày 3 Tháng 2 Annam 1940 (10 giờ trưa) [ĐCL.39/121]
Bài nầy Thầy sửa, họa lấy chữ đầu trong bài :
Mở Mang Trí Huệ (vé 6-7-8 và 9)
LƯƠNG, con nghe Thầy dạy :
1.- Thiên Tào liên tiếp điễn Linh
Rọi cùng thế sự, gọi minh Lý mầu
Tầm ra thấy rõ buổi đầu
Ngàn năm lạc bổn, nay hầu gặp đây
2.- Dò Tâm, xét Tánh thấy hoài
Trước người Tiên Phật, ngày nay khác nào
Ấy là nhờ nghiệm trước sau
Vô hình hữu Lý, là trao lãnh truyền
3.- Nên rằng đạo lý hữu nguyên
Đời ai muốn rõ, thì chuyên học hành
Đó là đạt Lý bình sanh
Thoàn không thấy có thân lành tợ đưa
4.- Sum vầy hiền thuận thão ưa
Xác ai nấy độ, hồn xưa hiệp hồn
Cho hay là cuộc bảo tồn
Là trong chẳng tính, dại khôn thế quyền
5.- Đó Thầy sửa dạy bài riêng
Là cho con học phĩ nguyền phận tu
Thiêng Liêng điễn huệ phá mù
Con nào vưng chịu mới phù hạp chung
6.- Phải cho Đại Lực, Đại Hùng
Phải hòa chơn thể, tới cùng mới cao
Đừng lòng thấy sự khó nao
Nếu nao khó nhọc, dầu cao cũng hèn
Nên kêu đạo lý báu truyền
Truyền cho người trọn, chí hiền thuận chung.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì giao lại Thiên Sư đặng trả cho Lương./. (Phối sư LƯƠNG, ở Long An)
————————————d&c————————————
Ngày 3 Tháng 1 Annam 1940 (7 giờ sáng) [ĐCL.39/123]
Bài Hội Hiệp Tam Hồn
“Người muốn đặng lập xong danh phận
Hiệp cùng Trời mới đặng nên danh”
(Đ.C.L 33 trang 10 – vé 4 –5-6-7 và 8)
THÌNH, con nghe Thầy giải nghĩa :
1.- Người nào muốn đặng lập xong
Bề danh, bề phận hết lòng đến đây
Hiệp cùng Trời dạy ngày nay
Nghe làm đặng mới danh tài phận tu
2.- Hiệp Tâm, hòa Thể sớt bù
Của chung người Một, dẹp thù oán riêng
Đạo thành là tại cần chuyên
Cần lo học hỏi, chuyên nguyền độ chung
3.- Muốn cho thành tựu tới cùng
Nhìn Châu Thiên Hiệp Cửu Trùng một ngôi
Nhìn coi trong đó phải rồi
Ngoài đây mình phải bớt lời cạnh tranh
4.- Các con cũng có duyên lành
Hoặc là phước ấm để dành ngày nay
Duyên lành là gặp Thầy đây
Phước nhờ ở được, chỗ nầy bình yên
5.- Vui vầy đạo đức hưởng riêng
Thái bình cảnh tượng, Đạo Nguyên của Trời
Nghiêu Thiên là khí tượng người
Người noi Thuấn nhựt, một lời vẻ vang
6.- Từ nầy vui đẹp mở mang
Trắng Vàng Đen Tím Đỏ càng Xanh tươi
Sáu màu hòa hiệp một nơi
Danh Thầy mật niệm, Ta Người trọn vui
7.- Khai Thiên tịch Địa lập đời
Là đây Thầy quyết định nơi Ngọc Tòa
Các con ráng nhớ vậy là
Từ nay đừng có bỏ qua đạo Trời
8.- Ngôi cao Bạch Ngọc rạng ngời
Là Châu Thiên Hiệp rõ Trời ngự đây
Chủ Tam Hồn xét chỗ nầy
Thay quyền giữ Luật, chỉ bày vô tư
9.- Biết rằng trong mấy năm dư
Trời Nghiêu, Đất Thuấn lòng ưa khẩn cầu
Đến nay cơ vận chuyển hầu
Lập nền Chơn Lý, nhiệm mầu từ đây
10.- Rõ rồi tội lỗi đừng gây
Thiên Điều là Luật, mỗi ngày mỗi ra
Khó dung là tại đó là
Là đây sẵn có Ngọc Tòa dễ xem
11.- Thầy lo phóng điễn thúc kềm
Ban đồng con cả lòng nghiêm sợ Trời
Đặng chừa bớt tật dễ ngươi
Đồng lo bước lẹ, kịp thời buổi đây
12.- Buổi là trong buổi Thầy qui
Đây là phán xét lập kỳ Thượng Nguơn
Là cơ vận hội tuần huờn
Con nào nghe đặng chớ sờn khó khăn./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA, đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì trả lại cho Thình.
( Giáo sư Thình, ở Phú Kiết )
————————————d&c————————————
Ngày 3 Tháng 2 Annam 1940 (8 giờ trưa) [ĐCL.39/125]
“Trời cũng phải giông mưa một lúc
Huống các con trách móc nhau chi
Vầng trăng có lúc dinh khuy
Nước sông rong, kém châu nhi tuần huờn
Đạo là Đạo Đức Trí Nhơn
Tín Trung Nghĩa Dõng, cho hơn thói đời”
(Chuyển Mê số 9 – vé 166)
HƯNG, Con nghe Thầy dạy :
1.- Trời còn có lúc giông mưa
Là nương theo vận, khó vừa ý tham
Một may, một rủi cõi phàm
Lúc xuôi, lúc ngược là tham vô chừng
2.- Trời dông, ai dễ biểu ngừng
Chừng mưa, chừng tạnh; vì chưng định rồi
Lòng người khó lắm con ôi !!
Ý tham đành quyết, chuyện rồi còn than
3.- Các con thấy đó rõ ràng
Các điều trách móc, đừng mang vào lòng
Luật Trời là Luật Chí Công
Thế gian còn dám nói không vừa lòng
4.- Huống chi xác thịt sao đồng
Rày thương, mai ghét vì không trọn hòa
Có thân, có thể, có già
Khác nào trăng khuyết, lần ra tới tròn
5.- Tuần huờn Máy Tạo nước non
Thế gian người muốn thân còn gái, trai
Giàu sang thì muốn lâu dài
Bước vào tu niệm, muốn mòi Phật Tiên
6.- Đạo là đạo đức hóa duyên
Tín nhơn ưu dõng, trung hiền nghĩa khiêm
Thói đời nào biết Hốt Chiêm
Vì mơ ước vọng, mình thêm thế thần
7.- Tại vầy mà chẳng ái thân
Là thân tương ái, tương cần giáng can
Trách nhau là tại nói càng
Nói càng không nễ, buồn than móc thầm
8.- Móc là bươi móc chuyện thâm
Là thâm cố giận, vào tâm lâu ngày
Nên Thầy nói tột cho hay
Trời cao, Đất rộng còn xây không vừa
9.- Lòng người thanh ghét, trược ưa
Trời cao là Luật , nhặc thưa phân rồi
Bền lòng cho lắm con ôi !!
Là trong trách móc, chuyện rồi chớ bươi
10.- Đó là thanh trọn tánh Trời
Dầu sao cũng vậy, có nơi, có chừng
Lòng phàm ưa mến vận hưng
Mà quên Hưng vận, lẫy lừng hiếp suy
11.- Ngó chừng trăng có dinh, khuy
Người đây thì cũng có kỳ đổi thay
Hễ lo đạo đức lâu dài
Là không quá ỷ, nhìn ai như mình
12.- Nói ra lời nói phải gìn
Đừng ham mặt, trái gọi kình chỏi lanh
Đó là người được tín thành
Chẳng quên mình tự bình sanh lấy mình
13.- Bình hòa chơn ngụy mới minh
Là sanh lý nhiệm, phận mình vẻ vang
Nói cho con rõ đá, vàng
Ở đời là khó, tại màn vô minh
14.- Với nhau đồng tỏ sự tình
Rõ rồi thì hiệp, đặng gìn giữ chung
Phanh phui, hờn giận chẳng cùng
Rồi gây ra cuộc, anh hùng cự đương
15.- Nhịn nhường, dạy dỗ chỉ phương
Là phương thoát nạn, lánh đường đảng phe
Thói đời giành giựt, cao đè
Giành khôn, giựt phải; mình khoe lấy mình.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn 1 bổn giao Thiên Sư trả lại cho Hưng nó coi, nó học. Trong đó Thầy dạy nó phải đọc tại đạo tràng cho sĩ tử nghe chung, gọi là tương tĩnh. (G.H Hưng, ở Long Bình Điền)
————————————d&c————————————
Ngày 12 Tháng 1 Annam 1940 (6 giờ chiều) [ĐCL.39/127]
“Kìa ba sáu ngàn ngày như nhán
Còn trông chi, còn nán đợi chi”
(Chuyển Mê số 9 – vé 241- 243.)
NGỌC LIÊNG, Con nghe Mẹ dạy :
1.- Kìa ba vạn sáu ngàn ngày
Là như lữa nhán, đổi thay cuộc đời
Con người sống tại tấc hơi
Dầu cho mấy chục, một đời là đây
2.- Còn trông đợi nán chi nầy
Sớm còn chiều thác, xác nầy chẳng lâu
Trông chi cái sự cơ cầu
Nán chờ thông thả, mới hầu đi tu
3.- Đợi chi cho được lọng dù
Ngày qua, tháng lại phàm phu vẫn còn
Đường lành ngay thẳng nước non
Là nhơn trí huệ, dạ còn hồ nghi
4.- Xưa nay Tiên Phật thiếu gì
Đều đi đường đó, là qui chánh truyền
Đường tà là chỗ đảo điên
Lại ham dễ bước, nên Hiền hoá Ngu
5.- Ôi thôi !! đành thảm mê mù
Ôi thôi !! nhớ lại việc tu xa rồi
Kìa kìa lớp kéo, lớp lôi
Bánh tròn lăn lộn, Luân hồi là đây
6.- Bánh lăn qua lại mỗi ngày
Mấy đời thoát đặng, vì vay quá nhiều
Lăn qua, lộn lại dập diều
Hỡ môi chẳng đặng, tại nhiều thứ cam
7.- Đành cam là phận luân trầm
Uổng Linh hồn nọ, khó tầm về quê
Muốn cho con được an bề
Trường sanh theo Đạo, thì quê thói đời
8.- Bất sanh là trọn nết người
Đừng sanh vọng tưởng, biếng lười việc tu
Gần Thầy nhờ rõ trí, ngu
Rõ đừng cho sái, phàm phu khác nhiều
9.- Luân hồi nọ chẳng buộc đeo
Tại mình đeo nó, quá nhiều phải hư
Lăn rồi lại trả từ xưa
Mà ai rằng phải, thì ưa lụy mình
10.- Nếu không học hỏi xét rành
Cách minh sự vật, trí hành bất tri
Đó là gọi kẻ ngu si
Vì đeo nhiều kiếp, còn chi nhớ đường
11.- Nên rằng lạc lối lầm phương
Quên đường Tánh Mạng, cứ cường nghịch tranh
Thuận xuôi Chơn Lý hiểu rành
Buồm nương theo gió, mình thanh phận mình
12.- Mấy ai rõ đặng, hiểu rành
Một lèo là trọn Chí thành thật tâm
Giải cho con học đặng tầm
Đó là tấn hóa, rõ nhằm, rõ sai
13.- Nhiều khi Mẹ có cho bài
Bề con có học, tới rày thể nao ?
Luân hồi nhiều Lý thấp, cao
Chỉ đây là chỗ, thấy sau, trước rành
14.- Nếu con lòng quyết tu hành
Thì noi lời Mẹ, đừng sanh cãi bàn
Chịu đành phận thấp cho an
Làm cho hết thấp, vén mà vô minh./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại CA đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn 1 bổn thì trả lại Ngọc Liêng nó coi, nó học.
(Ngọc Liêng, ở Tân Hội Mỹ)
————————————d&c————————————
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |