Đôi nét về tác giả trần kiêM ĐOÀN



tải về 0.8 Mb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích0.8 Mb.
#36780
1   2   3   4   5   6

Những mảnh bằng gió bụi


 

Tuy không phải là “chuột chạy cùng sào” nhưng tôi cũng vào sư phạm. Tôi thi vào Đại Học Sư Phạm chỉ vì lý do đơn giản là giáo sinh sư phạm được cấp học bổng hàng tháng, ít ra thì cũng đủ sống rất đạm bạc cho đến khi ra trường.

Ngành “kỹ sư tâm hồn” cũng bình lặng trôi qua.  Sau tốt nghiệp là đến ngày tung cánh nhận nhiệm sở.  Nhu cầu thì quá nhiều mà lò thầy lại sản xuất quá ít nên chúng tôi theo thứ tự đậu ra trường cao thấp để chọn các trường trung học kéo dài tờ Quảng Trị đến Bình Thuận, Khánh Hoà.  Tôi đậu thừ nhì, tôi chọn ra dạy ở Quảng Trị cho gần Huế, cái xứ Huế hiền lành mà lại quái ác níu chân tôi lại khi có dịp tung bay.

Mới ra lò sư phạm, bầu kinh luân chưa nguội thế mà chàng phụ tá giám học trường Nguyễn Hoàng đã làm tôi nổi nóng.  Tôi không được chia dạy các lớp thi tú tài kềm với các lớp đệ tam như các đồng nghiệp khác.  Khi nêu thắc mắc, người phụ tá giám học trả lời chống chế, rằng , bởi vì tôi tốt nghiệp đại học sư phạm mà không có văn bằng cử nhân nên không được phụ trách dạy các lớp thi.  Tuy không có quy ước nào như thế, nhưng câu trả lời “láu cá” của chàng nầy làm tôi có mặc cảm như mình còn thiếu nợ sách đèn.

Chẳng hiểu sao vì chút tự ái không đâu mà tôi lại lấy làm điều nuôi chí ta đây không chịu thua ai.  Thế là tôi lại ghi danh học lại, vừa học vừa làm nên thành “học nợ”.  Chỉ còn thiếu một chứng chỉ Ngữ Học để đủ 5 chứng chỉ cho văn bằng Cử nhân Văn khoa nên hè năm sau tôi đã hoàn thành đủ trọn bộ “Tây Du Ký” để có thể mang tới nói mát, nói mẻ với gã phụ tá giám học.  Lần này, anh chàng lại “láu cá” thêm một lần nữa.  Anh ta cười xởi lởi nói cứng như ông bố vợ của tôi:

- Thấy không, chọn tướng không bằng khích tướng, nhờ ta nói khích chú mầy mới có được cái “cử nhân toàn phần” đó nhé.  Chừ ta đãi chú mầy một chầu cà phê đường Trần Hưng Đạo, còn chú mầy phải khao ta một chầu nem lụi Sãi mới xứng công ta dám chơi trò “Lưu Bình Dương Lễ” thời nay!

 

oOo


  

Rồi bẵng đi mười lăm năm...sách vở chỉ còn là một phương tiện để dạy học khi lên lớp hay để đọc mua vui và lúc cần tham khảo.

            Tôi qua Mỹ, xây dựng cuộc đời mới với nghề làm cỏ.

Nếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận thu nhập hàng tháng thì nghề làm cỏ kiếm tiền có thể nhanh và nhiều hơn lương của một kỹ sư mới ra trường.  Nhưng tâm trạng của những người bỏ xứ ra đi không dừng lại ở chỗ cơm áo.  Ai cũng muốn chen chân vào xã hội mới với một thế đứng khá hơn là chỉ biết cày cục làm thuê, phụ mướn kiếm tiền.  Con đường tiến thân ít bị số phận may rủi chi phối nhất là đi học.  Trong khi cái xứ quái ác nầy còn mang thêm nhãn hiệu là “vùng đất của cơ hội”, một vùng đất có cơ hội bằng vàng cho những người đi học.  Nên hầu hết những người Việt vào độ tuổi trung niên có căn bản nghề nghiệp và học vấn ở Việt Nam đều phấn đấu trở lại trường toàn thời gian hoặc vừa học vừa làm.  Mỹ là một nước “trịch thượng” nhất trong vấn đề bằng cấp.  Bằng biếu của Mỹ thường được công nhận khắp nơi trên thế giới, nhưng Mỹ thì lại không công nhận bằng cấp từ các quốc gia khác.  Ôm bằng cấp nước ngoài vào Mỹ để du lịch, diễn thuyết, đọc thơ, trình diễn... cho vui thì “ô kê, chơi xong rồi về”, nhưng để hành nghề hay kiếm việc thì “xo ri, đừng đi cho mệt”!  Bởi vậy, không có trường hợp ngoại lệ mà tất cả các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư, giáo sư , chuyên viên... Việt Nam đến Mỹ muốn hành nghề trở lại đều phải đầu tư mồ hôi và nước mắt vào việc học trở lại.  Trên đường đi, rất nhiều “kẻ sĩ” bỏ cuộc, lồng bằng cấp cũ vào khung kính treo cho đỡ buồn, rồi ráng đi tìm một công việc khác có thể chẳng ăn nhập gì đến khả năng chuyên môn ngày xưa của mình.

Trong đám sĩ tử “nửa đời hương phấn” đó có tôi.

Đang làm cỏ với thêm bốn người anh em giúp sức mà vẫn không kham hết nổi công việc.  Tôi đang ở giai đoạn cực thịnh của người Á Châu hành nghề làm cỏ tại Mỹ.  Có được phương tiện vững vàng và cơ hội thuận lợi trong tay, làm ra tiền không không phải là chuyện khó. Một buổi chiều, bà cụ Kim nơi tôi ở trọ chỉ cho tôi bài báo đăng tin tiến sĩ Nguyễn Trung Hiếu ở Chicago đang thực hiện một chương trình cao học dành cho những sinh viên Việt Nam đã có văn bằng cử nhân tại quê nhà.  Tiếng kèn thúc quân của sách vở lại giục giã tôi xếp cơ hội làm tiền theo việc bút nghiên.  Nhu cầu tiền bạc và khát vọng trau giồi kiến thức học vấn đều có sức mạnh réo gọi mãnh liệt như nhau.  Nhưng tôi chỉ có quyền chọn một trong hai.  Khi hai dĩa cân đang ở thế quân bình trong tôi thì bà xã tôi bỏ phiếu “đi học”.  Được lời như cởi tấm lòng,  tôi bỏ nghề làm cỏ đành đoạn như cô lái đò của Nguyễn Bính ngày xưa “Bỏ thuyền bỏ lái bỏ dòng sông.  Cô lái ngày xưa đi lấy... bằng” để đi học.  Nhưng thực tế thật cay chua chứ không xuôi giòng êm ả như mộng ước.  Muốn được nhận vào chương trình cao học (master - Việt Nam ngày nay dịch là thạc sĩ), sinh viên ngoại quốc như tôi phải có văn bằng cử nhân liên quan đến ngành học với đủ bằng chứng học trình được một cơ quan giáo dục độc lập đánh giá, thanh sát và đề nghị.  Và “ngao ngán” nhất cho tôi là phải đạt điểm 550/600 của kỳ thi TOEFL (Test of English as a Foreign Language) và phải thi đậu WPE (Writing Profiency Examination).  Liên tiếp trong 3 kỳ thi TOEFL, tôi chỉ đạt tới điểm 512, 530 và 532. Lần nào cũng bị rớt đài phần “nghe” (listening comprehension).  Tôi bỗng đâm nghi ngờ lỗ tai mình thành lỗ tai sim!  Lần chót, khi đã quá nản lòng và chuẩn bị buông tay thì may sao tôi “qua truông”.  Về món WPE thì tương đối đỡ gai góc hơn, tôi chỉ thi tới lần thứ hai là “vượt thác”.

Đã bao nhiêu lần đi dò la qua các trường đại học Mỹ, tôi mang tâm trạng của kẻ “ngoại đạo”, đứng xa mà nhìn môi trường đại học uy nghi và thâm nghiêm không mong gì với đến.  Đến khi được vào trường, đeo cùi sách trên lưng, tôi hoang mang không biết là mình sung sướng, cảm thấy trẻ lại để nhảy chân sáo trên những lối vào giảng đường và thư viện như một thời trẻ dại; hay phải méo mặt vì cục khổ cứ lè kè đeo đẳng mãi bên lưng!

  Dù chưa tới 40 tuổi nhưng tôi đã tự coi mình là “sinh viên râu”.  Không ngờ vào trường Sac-State, có biết bao nhiêu người râu dài hơn tôi gần cả thế hệ.  Tôi lại gặp được một người bạn học vong niên “sinh viên râu thiệt” là cụ Nguyễn Đức Hiếu, nguyên chánh sở học chánh Sài Gòn Gia Định ngày xưa, đã ngoài 65 tuổi râu tóc bạc phơ, cũng đeo túi sách đi học chương trình cao học như tôi.  Năm  năm vừa học vừa làm, có khi phải kê sách vở lên đùi, lên ghế xe để làm bài hay viết luận án tốt nghiệp, cuối cùng tôi cũng ra trường với cái tiểu luận án cao học  (master thesis) dày 272 trang, nhan đề “The Impact of Relocation on the Vietnamese Refugees in the United States”  (Tác động của sự di cư đối với người Việt Nam tỵ nạn ở Mỹ).  Tôi viết một mình trong khi các sinh viên Mỹ viết chung thành nhóm 2, 3 người cho một tiểu luận tốt nghiệp.  Dù trong hoàn cảnh còn bị khó khăn ít nhiều về ngôn ngữ cần hợp tác để được giúp đỡ, tôi vẫn cảm thấy chưa thoải mái với kiểu làm ăn hợp tác “team work” của ngườn bản xứ.  Phải chăng đây cũng là ảnh hưởng sâu đậm phong cách “con nhà miệt vườn”, thích riêng tư và ngại chia sẻ của Huế.

Năm 1988 ra trường, kiếm được một công việc làm tương đối hợp khả năng, tôi yên chí là đối với bản thân mình gió đã yên, sóng đã lặng, “gác mái ngư ông về viễn phố” để ngắm nhìn biển học mênh mông.  Không ngờ chưa tới mười năm sau, 1995, tôi lại bị “tiếng gọi sông hồ” của sách vở trở lại một cách tình cờ.  Con đường đại học kéo dài 30 năm chữ nghĩa muộn màng.

Bé Quan Thư, cháu lớn của tôi, là một thành viên rất năng nỗ trong ban chấp hành Hội Sinh Viên Việt Nam tại trường đại học UC Davis.  Vốn liếng quý nhất của cháu còn lại sau những năm miệt mài ở nhà trường Mỹ là khả năng nói tiếng Việt lưu loát. Ngày cháu chuẩn bị vào trường Nha UCLA, hai bố con lại có dịp “luận bàn thế sự” một cách thoải mái khi nói về mối quan hệ “cổ truyền” giữa hai thế hệ Việt Nam già và trẻ.  Thư nêu nhận xét của bạn bè Việt Nam đồng trang lứa về việc vắng bóng một “Chiếc Cầu Thế Hệ” giữa hai thế hệ đàn anh và thế hệ đàn em Việt Nam trên đất Mỹ.             Thế hệ đàn anh đang nhìn về quá khứ với lòng tự hào và nỗi uất hận quyện lấy nhau.  Tuy thái độ và mức độ phản ứng khác nhau, nhưng phần đông lớp đàn anh lớn tuổi đã kinh qua lao tù cải tạo vẫn thường coi thân phận của mình trên đất Mỹ là thân phận lưu đày, tạm dung.  Anh em nhìn về quá khứ với nỗi u uất một “thời vang bóng”, đối diện với thực tại là kẻ mất chân đứng trong hệ thống xã hội Hoa Kỳ và nhìn về tương lai với một giấc mơ “quang phục quê hương” rỡ ràng như cổ tích. Trong khi đó, thế hệ đàn em đang hội nhập vào xã hội mới một cách tự nhiên và nhanh chóng.  Sự đối thoại giữa hai thế hệ dần dần trở thành xa cách trong lối suy tư và hướng nhìn về mai hậu.  Khi mối quan hệ chỉ còn là sự lễ độ vì truyền thống và sự vâng lời chỉ vì giềng mối của gia đình cũng có nghĩa là chỉ còn độc thoại.  Không có sự chia sẻ lý tưởng, không có cơ hội để cho hai viễn ảnh về tương lai của hai thế hệ gặp gỡ, va chạm, tác động qua lại với nhau trên cùng một mặt bằng xã hội thì hiện tượng “ly dị tri thức” sẽ xảy ra.  Tuy sự diễn tiến âm thầm và êm ái nhưng sẽ xuôi giòng biền biệt, khó quay lại đầu nguồn.

Tôi đồng ý phần lớn nhận xét của bé Thư và tuổi trẻ.  Nhưng vẫn còn thắc mắc:

- Như vậy theo con thì làm thế nào để thiết lập một sự tương giao giữa hai thế hệ?

Thư trả lời như đã suy nghĩ từ lâu lắm:

- Cần có một sự hiểu biết và thông cảm giữa hai thế hệ của Ba và con.

Tôi gợi ý:

- Con muốn nói đến một “nhịp cầu thế hệ”?

Bé thưa:

- Ba muốn gọi bằng danh từ nào cũng được, nhưng tụi con đang cần có một gạch nối để cho tụi con hiểu được thế giới của chú bác và ngược lại thì chú bác cũng cần hiểu tụi con đang nghĩ gì, muốn gì, làm gì mới có thể hướng dẫn cho tuổi trẻ được.

Tôi hỏi lại:

- Thôi, nói chuyện nhà mình đi cho dễ.  Theo con thì ba phải làm gì hiểu tụi con hơn?

Bé đề nghị:

            - Có rất nhiều cách, còn tùy từng người và tùy hoàn cảnh ba ơi!  Nhưng với ba thì con nghĩ là ba nên đi học nữa.

Tôi ngạc nhiên:

            - Nghĩa là con nghĩ ba phải có bằng cấp cho cao mới hiểu được tuổi trẻ các con hay sao?

Bé giải thích:

- Dạ, ý con không phải vậy.  Theo con thì bằng cấp không phải là thước đo chính xác trình độ,  khả năng và sự khôn ngoan  của một người.  Con chỉ muốn nói kiến thức và bằng cấp không quan trọng bằng phương pháp để tìm hiểu.  Vạch một hướng đi mà cứ việc chỉ chỏ theo kinh nghiệm chủ quan và thói quen thì không rõ bằng có bản đồ trong tay.  Cho con cá không tích cực bằng cho cần câu.  Bởi vậy, sự tiến lên là sự học không ngừng...

- Ba chưa hiểu hết ý con muốn nói gì?

- Nghĩa là chúng con mong ước thế hệ của Ba đừng khư khư bảo thủ những gì đang có mà cần mở rộng cánh cửa tri thức để bảo tồn cái cũ thật sự có giá trị và đón nhận cái mới thật sự đang cần. Thời nay, muốn tránh được cái bệnh chủ quan và bảo thủ thì phải học thôi ba ơi!

Tôi thương con và hiểu tấm lòng của các cháu. Thời đại điện tử, kiến thức của nhân loại tăng gấp đôi trong mỗi mười năm.  Nhưng rất khác với người Âu Mỹ, phần đông phụ huynh Việt Nam lo làm việc quần quật và quan tâm nuôi con khôn lớn bằng cơm áo và vật chất.  Ít bậc phụ huynh dành nhiều thì giờ chăm lo con cái bằng cách gẫn gũi, chia sẻ và tâm sự với chúng.

Thư lại khẩn khoản đề nghị:

- Ba ơi! Sao ba không học tiếp chương trình Ph. D ba hè.  Tụi con học theo ngành của tụi con, ba học theo ngành của ba, rồi bốn năm nữa, cả 3 cha con ra trường một lần cho vui.

Nghe đến chuyện học hành, phụ huynh nào mà không hứng chí theo con.  Tôi hăng hái “ngoéo tay” con mà quên soi gương để nhìn tuổi già của mình đang đến:

- Ừ, học thì học.

Giải thưởng đầy hứa hẹn cho cuộc chạy đua “phụ tử” nầy là một chiếc xe mới, “pháp bất vị than”.  Điều kiện là ai xong văn bằng doctor trước thì người thua cuộc phải mua cho một chiếc xe mới.      

Thật khó lòng cho một người cha giơ tay đầu hàng con cái để nhận mình thua cuộc.  Ngày bé Thư ra trường nha và bé Trinh ra trường thuốc, cả hai đứa đều đã tỏ ra “hảo hớn đại chí hiếu”  là không bắt bí tôi phải thi hành đúng hiệp ước mua xe mà chỉ cho tôi một chiến thuật rút quân trong danh dự là:

- Ba ơ! Ba đừng lo.  Tụi con cho ba mắc nợ hai chiếc xe đó!

Tôi cười giả lả:

- Ừ, để mai mốt về làng, ba mua cho mỗi đứa một chiếc xe phở là xong nợ! (Xe đạp nước vào ruộng)

Tụi nhỏ thương bố già, nheo mắt cười; thông cảm.

Tôi đang ở nửa đường và cuộc thi kéo dài bốn, năm năm đã qua.  Tụi nhỏ đã bóp còi qua mặt.  Thuốc súng thời thượng xì hơi nên chiếc pháo bay chữ nghĩa sách đèn không còn gia tốc. Tôi mệt mỏi, mấy lần muốn bỏ học nhưng bà xã tôi đã “nhanh tay” trả tiền trước cho chương trình học quá nhiều.  Nếu tôi tự động rút lui, ngân khoản nộp rồi sẽ không được bồi hoàn trở lại.  Cho nên, động cơ còn lại làm cho tôi phải rán học, nếu nói ra thì hơi “ốt dột”, nhưng dấu kín lại sợ bạn hiền hiểu lầm một cách oan uổng là tôi ham học hơn ham chơi.  Đó là việc tôi phải anh dũng tiến lên trên con đường học vấn vì...  “tiếc tiền”!  Đã vậy thì vầy, nhưng có hơi khác Tú Xương ngày xưa: “Tấp tểnh người đi tớ cũng đi.  Cũng lều cũng chỏng cũng vô thi...” vì tôi không ở vùng trường thi Nam Định mà khổ nỗi là đang ở Mỹ. Và cái dở nhất của đất nước nầy là lối sống rất “hiện sinh”, rất “thiền” mà không thiền gì cả. Nghĩa là làm thì ra làm, chơi thì ra chơi, lơi khơi thì “homeless” (vô gia cư). Chữ nghĩa muộn màng, nhưng lại không thể “homeless” trong kiến thức và tư tưởng nên phải ra roi thúc ngựa tiếp tục lên đàng tầm sư học đạo...

Ai cũng biết rằng, “linh hồn” của mảnh bằng tiến sĩ nằm ở giá trị của luận án.  Cũng là nòi tập tểnh bước vào trường văn bút, bên cạnh sự thôi thúc cần phải học cho xong một chương trình đã kéo dài trên 5 năm, tôi còn ôm thêm hoài bão là phải viết một luận án “để đời” như bao nhiêu người trong cùng một hoàn cảnh như tôi.

Có một mùa Hè, tôi gác lại chuyến về thăm Việt Nam, dành thì giờ và chút đỉnh tiền bạc dự chi cho chuyến đi để đi tìm “luận án minh sư”.  Tôi tìm đọc và học hỏi cho được một số luận án tiến sĩ của giới đàn anh, đàn chị như của Nguyễn Văn Trung, Thích Minh Châu, Thái Kim Lan, Thái Văn Kiểm, Cao Huy Thuần, Nguyễn Trung Hiếu, Lê Thành Trung... Tôi cũng chịu khó đi vào thư viện của các trường đại học lớn quanh vùng tôi đang ở như UC Davis, Berkeley, Standford, UC San Francisco để truy tìm những luận án trong lãnh vực khoa học nhân văn mang họ Nguyễn, Trần, Phan, Lê... Việt Nam ta để tham khảo.  Nhìn chung, các luận án mà tôi tìm đến dài ngắn trung bình từ 200 đến 400 trang.  Ngoại trừ một số rất ít tác giả có sức bật đầy sáng tạo và tinh thần khai phá tìm cái mới, phần đông các luận án mang tinh thần “tập đại thành” nghĩa là chịu khó đào bới kho kiến thức đã có sẵn đây đó trong lĩnh vực chuyên biệt nào đó, rồi chắt lọc, phân tích  và hệ thống hóa làm cơ sở cho luận án chuyên đề của mình.  Mỗi người một vẻ, tuy không thất vọng, nhưng cũng chẳng “đã khát” như  mong ước, tôi trở về đối diện với “thằng tôi” của mình. 

Giáo sư bảo trợ luân án của tôi là Dr. Roy Sumpter.  Tôi bái sư nhập môn ra mắt thầy rất đúng bài bản của môn phái học sĩ.  Tôi chọn đề tài “The Impact of the Vietnam War and Its  Aftermath on the Vietnamese Refugees' Adjustment in the United States” (Tác Động của Chiến Tranh Việt Nam và Hệ Quả của Nó Đối Với Sự Hội Nhập của Người Việt tại Hoa Kỳ).  Tôi ra mắt chưởng môn Sumpter với một “Concept Paper” dài 37 trang.  Chưởng môn bèn huơ đại đao thị uy phán rằng: “Cái đề của tiểu sanh dài quá, rút lại còn 5, 7 chữ thôi và Concept Paper cũng dài lê thê, rút lại còn 3 trang!” Bầu kinh luân đang sôi bị nguội điện, tôi trở về đổi lại đề tài cho  luận án là “The Vietnam War and Its Psychological Aftermath” và dùng bảo kiếm cắt xén 37 trang kinh sử thành 3 trang.  Tới hiệp hai, chưởng môn lại  cho rằng cái đề có vẻ “trời biển” mênh mông quá cần thu hẹp lại cho cụ thể hơn và thầy phán “O.K” về phần Concept Paper nhưng cần phải khai triển ra thành 15 trang.

Rồi đến 2 chương 1 và 2 (Problem statement và Review Relevant Literature) sư phụ lại phê là có vẻ “văn chương ướt át” con nhà văn quá, cần phải viết lại cho nó đúng cái phong cách con nhà “nghiên cứu” một chút.  Qua nhiều giai đoạn bế môn luyện công, tham vọng viết một tác phẩm luận án để đời bị mài dũa các góc cạnh cho đến hồi nhẵn bóng.  Trong tôi chỉ còn lại một nhu cầu viết lách là làm sao viết cho đủ chữ không thừa không thiếu để khỏi bị cho luyện võ dài dài và được hội đồng thông qua mà ra trường cũng đã là quý hóa lắm rồi.  Bây giờ tôi mới hiểu lý do vì sao các người đàn anh, đàn chị của tôi đi trước, tài năng là thế mà phải tạm xếp cung thương, múa quyền “tập đại thành” để vừa đủ ra trường, khỏi kéo dài lê thê những tháng ngày miệt mài tham khảo.

  Ngày bảo vệ luận án trước Hội Đồng giám khảo đại học Southern California có các con bên cạnh, tôi cảm thấy lòng lâng lâng hạnh phúc.  Niềm hạnh phúc của con tàu về bến sau những chuyến hải hành bị dập vùi quá nhiều sóng gió nhưng vẫn kiên trì không đổi hướng. Tôi không được may mắn như thế hệ con cháu của mình hay như tầng lớp sinh viên du học đi thẳng trên đường học vấn, yên tâm trong vòng tay của gia đình và giữa cảnh thanh bình của xã hội và đất nước.  Mỗi mảnh bằng tôi đến và dừng lại cách nhau cả mươi, mười lăm năm.   Đó là những mảnh bằng đầy dấu ấn gió bụi từ đời sống, suy tư và lịch sử thăng trầm của đất nước mà tôi đã đi qua.

Dăm mảnh bằng gió bụi với chữ nghĩa tình cờ, sách vở muộn màng chẳng có gì đáng nói. Có chăng một chút âm hưởng thì đó là một điều tự tình nho nhỏ:  Ra đi có thể quá sớm hay muộn màng, nhưng sự tìm đến và vươn lên tìm một dáng vẻ đáng yêu cho tâm hồn và tri thức thường không bao giờ  quá muộn.

 

 

                                                           Trần Kiêm Đoàn



Đi Tây...

Có quay qua quay lại hoài thì cũng vẫn không thoát ra khỏi chiếc ghế đơn điệu đã bị gắn chặt trên sàn. Cả sáu phía, trên, dưới, trước, sau, phải, trái đều bị giới hạn. Tôi có cảm giác thiếu thỏai mái như khi bị ngứa sau lưng mà với tay không tới để gãi. Gần một ngày một đêm bó gối không biết làm gì, tôi bèn... suy tư về cái chủ đề liên quan đến thân thế của con người trên máy bay.  Từ đó tôi mới lơ mơ khám phá một nếp sống tương cận, đó là nếp sống ở đò. Tôi lớn lên ở đồng quê.  Tuổi hoa niên chạy nhảy theo những con đường làng, sông, hói, bờ ruộng.  Đôi khi ngồi trên bờ sông, cảm thấy ngứa ngáy chân tay khi ngoắc tay với sáp nhỏ cùng tuổi sống ở trên đò. Tôi lo giùm cho tụi nó.  Lo bị rớt xuống sông uống nước no quá! Chết. Lo ông già uống rượu say vác dao rượt bà già không có chỗ trốn. Nguy! Lo không biết tìm đâu ra tổ chim chiền chiện trên cây. Buồn! Lo chẳng biết có đứa nào đã từng biết đá banh, chơi ù mọi, cút tìm… như lũ trẻ chúng tôi trên đất liền thường có không. Nghĩ không ra một chân trời thỏai mái cho tụi nhỏ ở đò, tôi hỏi mẹ thì được mẹ tôi khuyên là “đừng có ở đó mà lo chuyện voi chết không hòm!”

            Bốn chục năm sau tôi lại ngồi trên chiếc “đò bay”.  Đò bay qua ngày, thâu đêm trên mây.  Mạng sống của hơn ba trăm người tùy thuộc vào hai ống phản lực chạy rì rầm trên chót vót đỉnh trời. Không biết từ dưới mặt địa cầu dưới kia, có đứa trẻ nào như tôi ngày xưa “lo voi chết không hòm” cho những người ngồi bó gối trên nầy?

            Suốt chuyến bay dài từ Manila đến San Francisco, tôi không tài nào chợp mắt được một phút.  Không hiểu ngày xưa thế hệ đàn anh khi “đi Tây” có mảnh suy nghĩ và cảm xúc nào giống như chúng tôi hôm nay không.  Tôi lẩn thẩn tự hỏi và tự trả lời trong lặng im.

Rời Manila, sau 18 giờ bay, chiếc Boeing 747 của hảng Pan-Am vào vùng trời nước Mỹ trong cảnh rạng đông của phi trường San Francisco.  Bình minh đầu thu phơn phớt nhuộm hồng vùng vịnh San Francisco.  Trời, nước và ráng mây sớm mai chiếu ánh sáng long lanh màu tím nhạt.  Từ sau ô cửa máy bay nhìn xuống, cả biển nước óng ánh như những giải thiên hà trong đêm.  Vẻ bình yên và khoáng đạt của xứ sở nầy gây ấn tượng đầy xúc động và niềm hy vọng dạt dào trong tâm hồn người mới đến.

Khung cảnh rộn ràng đầy màu sắc của hành khách tứ xứ nơi phi trường cửa ngõ Thái Bình Dương đi vào đất Mỹ nầy làm choáng ngợp những người lần đầu đến đây từ nhiều vùng đất xa vời từ khắp nơi trên thế giới.

Ra khỏi phi trường, trời San Francisco vào cuồi mùa Thu lạnh cóng.  Mỗi người được phát một chiếc áo ấm để mặc, ngồi đợi chuyến bay kế tiếp.  Trên vùng đất mới, tôi chỉ biết được vỏn vẹn cái tên Dallas và Baton Rouge quá lạ lùng trong lịch trình chuyến bay với nỗi ngỡ ngàng và lo lắng chưa biết số phận sẽ đưa mình về đâu !

Máy bay đáp xuống phi trường Baton Rouge lúc 10 giờ đêm. Bên ngoài khung cửa sổ máy bay, bầu trời tối đen như mực.  Chỉ có những hàng đèn sáng lập lòe trên phi đạo định hướng cho bước lưu dân sắp tới.  Nhìn dáng rũ rượi vì mệt mõi của những người trong gia đình sau chuyến bay quá dài ngày tôi bỗng đâm lo.  Không biết khuya khoắt thế nầy có ai nhớ để ra sân bay đón mình không.  Và người cưu mang gia đình mình đêm nay sẽ là ai?  Ông Tây, bà đầm, Mỹ đen, Mỹ trắng, kẻ hảo tâm, nhà từ thiện… hay chẳng có ai. Tôi rời ghế, dắt díu gia đình đi theo đoàn hành khách trong nỗi hy vọng lẫn ưu tư về một cuộc đời mới đang chực chờ hiện hình trước mắt.

Vừa ra khỏi vòng thang máy bay, tôi ngẩn ngơ vì có nhiều người Việt Nam chưa quen biết đang tươi cười chờ sẵn để đón. Tôi bỡ ngỡ vì chưa biết tại sao mình lại có được hân hạnh nầy.  Một vị lớn tuổi cho biết là gia đình tôi được một nhóm người Việt đến trước bảo trợ và giúp đỡ như một công tác xã hội từ thiện.

Thành phố Baton Rouge là đất lành nhưng chim không đậu được vì tôi đến Mỹ vào thời điểm 1983, tỷ số thất nghiệp lên tới 8.5 nên rất khó tìm việc. Ngược với truyền thống Á Đông, người Mỹ phải “lạc nghiệp” trước đã rồi mới đến “an cư”.  Trên thành phố thủ phủ Baton Rouge của tiểu bang Louisiana, dù tôi đã an cư và sống chan hòa với tình người, tình bè bạn, nhưng vì không “lạc nghiệp” được nên cuối cùng, rồi cũng phải chia tay qua tiểu bang California tìm một hướng sống khác.

Mỹ là đất nước của một hợp chủng tứ xứ di dân từ khắp nơi trên thế giới.  Tất cả mọi người thuộc thế hệ di dân thứ nhất trên đất Mỹ đều có một điểm chung về bản sắc.  Đấy là bóng dáng của quê hương cội nguồn còn đậm nét trong tâm thức, bên cạnh một đất nước mới cần phải phấn đấu vươn lên để sống còn và lập nghiệp.  Có hàng mấy trăm nhóm chủng tộc của thế giới đang chung sống trên đất Mỹ, trong đó, Việt Nam là một trong 20 nhóm chủng tộc châu Á có truyền thống lịch sử, ngôn ngữ và văn hoá hoàn toàn khác nhau.  Bởi vậy, Mỹ còn được gọi là vùng đất của cơ hội (Land of opportunity), nhưng có biết nắm cơ hội đúng tầm, đúng lúc và đúng chỗ để tiến tới thành công hay không là còn tùy thuộc phần lớn vào bản lĩnh của cá nhân và ý chí kế thừa của từng nhóm dân tộc.  Sự nổi bật ngang tầm của người Nhật, người Tàu, người Việt, người Đại Hàn trong tập thể các sắc dân châu Á về mọi mặt trên đất Mỹ là niềm tự hào dân tộc mà khi còn ở quê nhà tôi chẳng buồn nghĩ tới.  Khái niệm mang nặng tính tiêu cực và mặc cảm tự ty như khái niệm  “nhược tiểu” trước các sắc dân khác không có lý do tồn tại đối với thế hệ trẻ Việt Nam ở nước ngoài.

Thế hệ thứ nhất của người Việt định cư trên đất Mỹ đã tự xác định hướng vươn lên của con nhà nghèo.  Rất khác với lớp người di dân châu Á từ Trung Hoa, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Ấn Độ… là những người mang theo tài sản làm vốn kinh doanh từ bước đầu đến Mỹ, hầu hết người Việt Nam đến Mỹ với hai bàn tay trắng.  Tay trắng nhưng không chịu chấp nhận trắng tay trong công việc làm ăn sinh sống.  Người Việt đã không dừng lại trong công việc lao động giản đơn làm công ăn lương mà hầu như không sớm thì muộn, mỗi người đều tự phấn đấu hết mình để trở thành những người “chủ nhỏ”.  Hướng thuận lợi nhất để sớm trở thành những chủ nhỏ là đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề làm cỏ, làm móng tay, cắt tóc, phân phối báo hàng ngày.

Vấn đề còn lại đã làm cho nhiều người Việt Nam thao thức và trăn trở nhất là hai cái “có” gần trước mắt thường xuyên réo gọi và lọai trừ nhau không nhân nhượng: Có tiền hay có học.  Có của hay có danh.  Nên có tiền trước hay nên có kiến thức, bằng cấp trước?  Tùy sư lựa chon của mỗi người trong hoàn cảnh cụ thể của chính mình để tiến tới điều mong muốn.  Muốn có kiến thức thì vào trường hoặc là muốn có tiền thì kiếm đường làm ăn.  Riêng tôi thì “ dùng dằng nửa ở nửa về “, nghĩa là thích học nhưng không có gan làm hàn sĩ.  Gã tinh thần kéo vào trường; trong khi gã vật chất lôi ra ngoài bãi cỏ, nên tôi mới có cơ hội chạy bao sân.  Cái thú “chạy bao sân” trên xứ Mỹ đã mang đến những kinh nghiệm tuyệt vời.  Dưới ánh mặt trời, cắt một bãi cỏ xanh tươm tất trong khu vườn hay dạy một lớp đầy hứng thú trong giảng đường đại học đều mang cùng nghĩa sống như nhau. “Ra đi gặp vịt cũng lùa; gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu!”  Cái triết lý hành động của cụ Nguyễn Công Trứ nhà Việt Nam ta, cộng với tinh thần phá chấp thiền môn bỗng hứng chí gặp triết lý dấn thân của Hemingway nơi quê nhà chú Sam mà nẩy mầm, đâm rể.

Tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm tươi mới và nóng bỏng đầu tiên của chính mình trên đất Mỹ:  Nghề làm vườn hay nói gọn hơn là làm cỏ.

 

Làm cỏ

 

Nếu có ai hỏi tôi rằng, điều khó khăn nhất khi bước đầu đến Mỹ là gì, có lẽ tôi sẽ không ngần ngại để nói ngay rằng: “Đó là sự trở ngại về ngôn ngữ!”  Học toán, học nghề có thể lấy tháng, lấy năm để tính; nhưng học một ngôn ngữ mới, phải lấy cả một đời để đo cũng chưa đủ.  Tuy xuất thân cũng là thầy dạy tiếng Anh, tôi đã trang bị chút vốn liếng ngoại ngữ trước khi vào đất nước nầy, thế nhưng bước đầu đến Mỹ, đôi khi gặp Mỹ đen, Mỹ đỏ, Mỹ vàng nói âm lóng địa phương, tôi vẫn lâm vào cảnh “vịt nghe sấm” khi tiếp xúc với người bản xứ trong sự giao tiếp với đời sống thực tế.  Mỹ là nước hợp chủng nên người Mỹ “mở máy” ra là nói vi vu, không cần biết người đối diện qua Mỹ đã khổ sở tập uốn lưỡi mấy lần và đã ăn bao nhiêu bánh Hamburger để… luyện giọng, luyện tai nhưng vẫn mơ màng nghe gió thoảng bụi tre.  Hơn thế nữa, học ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là học tín hiệu mà còn là học về văn hóa, nên có lẽ dù cho suốt đời ở Mỹ, tôi vẫn không bao giờ có hy vọng có thể rong chơi với tiếng người một cách mượt mà và thoải mái, như đã hơn nửa đời tung tăng uốn lượn trong môi trường tiếng mẹ đẻ của mình.  Cùng với những người bạn thân thương đồng cảnh ngộ, chúng tôi tận dụng vốn liếng “survival English” (nói tiếng Anh để sống còn) của mình kéo nhau đi làm cỏ.



Đối với xã hội Âu Mỹ, vấn đề nhu cầu cơm áo đã được giải quyết một cách êm thắm và nhẹ nhàng nhờ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với việc áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp từ đầu thế kỷ 20.  Xã hội chuyển hướng từ ăn no mặc ấm sang ăn ngon mặc đẹp.  Bởi vậy, ngành Kiến Thiết Hoa Viên (Horticulture) đã chiếm ưu thế so với ngành Nông Nghiệp (Agriculture) trong đời sống hàng ngày.

            Kỹ nghệ làm vườn đi từ thấp đến cao:

 - Làm Cỏ (Lawn Mowing):  Chỉ có việc cắt các bãi cỏ cho ngắn và nhổ cỏ dại trong các bồn hoa cây cảnh.

- Làm Vườn (Gardening) : Làm đẹp các bãi cỏ, trồng hoa, cắt, tỉa, xén cây và dọn dẹp sân bãi.

- Thiết Kế Hoa Viên (Landscaping):  Thiết kế, thực hiện và xây dựng cơ sở vật chất cho một khu vườn tương đối hoàn chỉnh.

Chỉ riêng thị trường bán vật liệu làm vườn và cây cảnh ở Mỹ thôi thì hàng năm cũng gần tới 50 tỉ đô-la (gần 2 lần tổng thu nhập của Việt Nam).  Các khuynh hướng và “trường phái” làm vườn ở Mỹ rất đa dạng nhưng vẫn gắn chặt với truyền thống thiên nhiên phương Tây.  Đó là ý niệm về con người làm chủ thiên nhiên, cây cảnh.  Trong lúc đó, quan niệm làm vườn phương Đông, xuất phát chủ yếu từ Trung Hoa và Nhật Bản, lại nhìn thiên nhiên, cây cảnh như người bạn, như môi trường hòa điệu thể chất lẫn tinh thần của con người.

            Quan niệm khác nên cách thức làm vườn cũng khác giữa Đông và Tây.  Công việc chăm sóc cây trong một khu vườn Mỹ chủ yếu là dời, chặt, cắt, xén; còn cây cảnh trong khu vườn phương Đông là ngắt, tỉa, tách, uốn, tạo hình.

Người Nhật và người Trung Hoa đã biến những khu vườn của mình thành một thế giới nhỏ, trong đó lý thuyết phong thủy, âm dương, ngũ hành được nâng thành một nghệ thuật rất cao.  Người Tây Phương cũng có một hệ thống lý thuyết làm vườn đặt căn bản trên sự phân bố màu sắc, giống cây và thế đất.  Dường như Đông và Tây đã gặp nhau trên vùng đất mới...!

Từ tấm giấy phép ít chục đô la làm cỏ nhỏ nhoi của thời “tiền sử làm vườn” của thời kỳ tôi bắt đầu tập tểnh Làm Cỏ trong những năm đầu thập niên 1980, một thập niên sau, những người Việt Nam đã tiến lên hàng Làm Vườn và Thiết Kế Hoa Viên với giấy phép cấp tiểu bang, có doanh thu không thua gì một cơ sở thương mãi hay một chuyên viên ưu tú, có tay nghề vững chãi.  Sức sống diệu kỳ của người Việt xa quê đã là những liều thuốc mạnh để chữa lành những vết tích do mặc cảm tự ty của tâm lý nghèo nàn và lạc hậu gây nên.  Chuyện Làm Cỏ gian nan trong cái thuở ban đầu “ít lưu luyến” ấy của tôi dần dần sẽ chỉ còn là chuyện kể của thế hệ thứ nhất, thế hệ người Việt tiên phong, với bàn tay cần cù và khối óc vươn lên, đã làm lại cuộc đời trên đất Mỹ nầy từ hai bàn tay trắng.  Tôi chỉ muốn kể chuyện Làm Cỏ của chính mình như gợi lại một vài kỷ niệm nhớ đời, vui buồn lẫn lộn.  Chuyện kể làm cỏ trong hoàn cảnh riêng mình của những năm đầu 1980, có thể làm cho những người anh em làm cỏ mới sau nầy, với vốn liếng ngôn ngữ phong phú và phương tiện hiện đại hơn không bắt gặp bóng dáng mình trong đó.  Cũng thế, người Mỹ trong những dịp lễ Tạ Ân - Thanksgiving - vẫn thích tẩn mẩn kể lại những câu chuyện vụng về, ngô nghê, gian khổ của lớp người tiền phong lập nghiệp nơi xứ nầy, từng được cứu đói bằng những miếng thịt gà Tây của người Da Đỏ cho không trong buổi đầu lập nghiệp.  Có ai nên khôn mà không chịu khốn đốn biết bao lần!

 

oOo



 

Mới hết ngày thứ hai đi chơi, tối về đã có điện thọai của một người bạn trẻ gọi từ San Jose nhắn tin khẩn cấp.  Tôi lật đật gọi về Cali thì nghe tiếng Ban đầy phấn chấn trong điện thoại.  Chàng thanh niên ba mươi tuổi nầy báo tin mừng rằng:

“Mấy ông ở dưới miền Nam Cali như anh Trần Thái Bình, Đào Pháp” theo gương mấy huynh đệ chuyên ngành hoa viên người Nhật, mở dịch vụ làm vườn rất ăn khách và thành công.”  Ban đốc thúc tôi mau mau về Cali để mở “job” làm vườn.  Ban vẽ ra một bức tranh đầy hứa hẹn rằng, với khả năng tiếng Anh sẵn có, tôi sẽ đi tiếp xúc với các chủ nhà để định giá, nhận việc cho một nhóm anh em đang sẵn sàng bắt tay vào việc.  Sự thành công chỉ còn là vấn đề thời gian.  Vừa tò mò mà cũng vừa hy vọng, hôm sau tôi bay về California.

Theo hướng dẫn qua điện thọai, tôi về Milpitas để gặp Ban và đội làm cỏ gồm có 5 người.  Người già nhất 61 tuổi và trẻ nhất 22 tuổi.  Có người muốn tìm một vận hội mới nơi xứ người. Có người từng làm trong các hãng xưởng của Mỹ chán thế sự hay muốn tự do hơn nên đang ở trong giai đoạn làm... thinh!  Người nào cũng tỏ ra am hiểu chuyện làm vườn một cách quyết đoán theo kinh nghiệm riêng của mình, nên thường cãi nhau tận tình những điều mà thật sự họ chỉ biết mơ hồ hay chỉ mới có dịp nhìn ngắm, ước lượng, suy đoán mà chưa có cơ hội đi vào thực tế.

            Trước hết, Ban đưa cho tôi một tờ giấy quảng cáo mẫu với hàng chữ tiêu đề lớn chạy dài từ mé trái qua hết mé phải của tờ giấy, giới thiệu tên của dịch vụ: “Oriental Gardening Services” (Dịch Vụ Làm Vườn Đông Phương).  Sát hàng chữ lớn có hàng chữ nhỏ hơn một chút: “5 năm kinh nghiệm làm vườn tại Hollywood”!  Tôi tá hỏa khi nhìn vào phần liệt kê các dịch vụ.  Từ việc cắt cỏ, ủi đất, bắt hệ thống nước tưới đến việc cắt cây, tỉa cây, trồng cỏ, làm sân bãi, hào lũy bằng gỗ hay xi-măng, cho tới các đề án xây dựng vườn hay tái kiến thiết vườn.  Nói tóm lại thì đây là một đại dịch vụ làm vườn tổng quát, từ thượng vàng đến hạ cám đều có khả năng làm tất, chẳng quên một thứ nào cả! Tôi sẽ là người có nhiệm vụ đi “estimate”, nghĩa là phải “xuống đường bắt khách”, trực tiếp giao thiệp với khách hàng để ước tính, định giá và nhận việc. 

            Đọc qua hết các dịch vụ quảng cáo, tất cả đều hoàn toàn xa lạ đối với tôi.  Ngay cả những công việc tỉa cây căn bản nhất cho nghề làm vườn, tôi vẫn chưa hề có một khái niệm nào cả:  Đốn cây (removing), trồng cây (planting), đào gốc (stumping), tỉa nhánh (prunning), xén cây (trimming), bấm chồi (pinching), tỉa hình (shaping), phất ngọn (topping)... là những tên gọi cho những công việc chăm sóc cây cảnh mà tôi chưa từng nghe hay thấy.

            Bạn và anh em trong đội làm vườn cho biết là đã tung giấy quảng cáo ra thị trường từ hồi sáng sớm hôm nay rồi.  Nghe đâu cái điện thoại có hệ thống nhắn tin đã reo lên nhiều lần trong ngày, nhưng không ai dám bắt vì sợ “không rành tiếng”.  Tôi đến mở cuốn băng nhắn tin của máy điện thoại và tìm được 21 lời nhắn để lại trong máy:  Bốn lời nhắn về việc rãi giấy quảng cáo không đúng chỗ.  Hai lời nhắn chất vấn là chúng tôi có Giấy phép Tiểu bang Cali cấp chưa mà dám quảng cáo làm vườn toàn cả “Big jobs”.  Ba lời nhắn nói chuyện tào lao lạc đề.  Còn lại 12 lời nhắn là yêu cầu “giám đốc” Dịch Vụ Làm Vườn Phương Đông gọi lại càng sớm càng tốt.  Gọi quanh một vòng, tôi chỉ gặp được có hai “mối” nhưng cuối cùng chỉ có một mối là sẵn sàng chờ đến  “Estimate” ngay trong chiều hôm ấy.

            Lần đầu tiên trên đất Mỹ, tôi đóng vai một người chủ doanh thương, dù đó chỉ là dịch vụ làm vườn cắt cỏ. 

            Tất cả sáu người đều đòi đi theo “estimate” (lượng giá).  Tôi chưa biết phải làm gì cho đúng vị trí của mình.  Khách hẹn là một bà già, chủ một ngôi nhà vườn cũ. Bà cụ có vẻ hơi hoảng một chút qua lối mở cổng e dè khi nhìn thấy một toán đàn ông người Á châu tóc đen, nói tiếng gì không hiểu đang lố nhố tiến vào.  Tôi đi trước, khoát tay ra dấu cho anh em đợi và một mình đến gặp bà chủ nhà.  Hình như suốt mùa Đông bị cấm cửa trong nhà, không được tâm sự với ai, nay gặp được người đối diện, bà cụ nói bi bô cả chừng mươi phút một lèo không nghỉ.  Đại khái bà muốn vườn nhà bà được tổng dọn đẹp trong dịp đầu xuân.  Không cần nghe tôi thông báo chủ nhà muốn gì, nhóm anh em tỏa ra vườn trước, vườn sau, phát huy cao độ quyền tư do ngôn luận và bàn luận.  Bà cụ gìa thấy khí thế hăng say, cũng bước ra sân chỉ chỏ khắp vườn.  Anh em người thì chỉ bụi cây nầy vừa nói vừa ra dấu: “No good! Cut!... Không tốt! Cắt bỏ đi!”.  Người kia thì cố căng tai, nhíu mắt nghe bà già nói.  Anh ta gật đầu dễ dãi, miệng nói liên hồi nhưng bà nói bà nghe, anh nói anh nghe.  Vốn liếng học tiếng Anh của chúng tôi từ Việt Nam mang theo mới sử dụng được một phần ba vì chỉ nhận ra mặt chữ chứ phần phát âm và nghe vẫn còn lúng túng, lùng bùng trong buổi đầu “giao lưu văn hóa”.  Bà cụ lúc lắc đầu hỏi lại: “Nó nói tiếng Mỹ theo âm Tây phải không? Nghe nói người Việt Nam phần đông giỏi tiếng Pháp !”

            Đến phần lượng định và đưa giá thì anh em càng leo thang tham gia ý kiến hăng say như bàn việc nước.  Người niên trưởng, vốn giàu kinh nghiệm với thương trường “một chục mười hai” nên đã cố vấn rằng: “Cứ nói thách cho cao để chủ trả giá là vừa!”  Cuộc lượng định giá cả diễn ra rất hào hứng.   Người thì đòi đưa giá 500; người khác lên giá 700, rồi đến 900 nhưng chưa ai đề nghi cao hơn hay lên tới 1000 đồng.  Tôi hội ý riêng với Ban và định giá là 690 đồng. Chủ nhà nhận giấy “estimate” khen nhóm làm vườn của chúng tôi “xuất sắc” và ân cần hứa là sẽ gọi lại. Lúc đó, tất cả anh em đều hy vọng tràn trề, nhưng càng về sau, càng hiểu thêm tâm lý người Mỹ là họ rất thực tế.  Hiến giá cũng có nghĩa là đấu giá. Những công việc lao động thủ công tay chân, người Mỹ tuồng như “dại” hơn người Việt mình.  Nhưng công việc càng cao cấp thì có vẻ như ngược lại.

            Gần nửa đêm, bà già chủ vườn gọi lại.  Bà hỏi nếu bà đồng ý mướn thì bao lâu chúng tôi có thể bắt tay vào việc, tôi trả lời là “As soon as tomorrow morning...  Ngay sáng mai!”.   Bà cho biết chiều mai là lễ sinh nhật của bà nên mặc dầu chúng tôi “chem.” (overcharge) quá giá, bà vẫn không có sự lựa chọn nào hơn là phải mướn chúng tôi để kịp làm đẹp vườn trong ngày vui của bà.

Ngày xuất quân, bác Thành, niên trưởng của đội làm vườn, dậy uống nước trà từ lúc chưa sáng và sau đó lần lượt đánh thức cả bọn dậy.

            Chúng tôi bắt tay vào việc lúc cây cối đang còn ướt sương.  Thế tiến quân rất rộn ràng và đầy khí thế với hai xe mui trần Toyota Pickup đời “thập niên về trước” chở dụng cụ làm vườn còn mới toanh.  Sáu cái miệng Giao Chỉ mở hết tần số âm thanh cộng với tiếng máy xén, máy quất, máy cắt, máy thổi, máy tỉa chạy bằng xăng hai thì ré lên giữa bình minh cô tịch đã làm kinh động một xóm Mỹ.  Không biết tay Mỹ nào chưa thông văn hóa phương Đông đã nỡ đem lòng kỳ thị kêu “police”. Anh em đang tiến công nói cười thoải mái thì xe cảnh sát từ đâu đã trờ tới.  Tôi hơi chột dạ khi nghĩ đến “toàn bộ cơ sở pháp lý” của nhóm làm vườn chỉ có tấm giấy phép xin cắt cỏ mới mua ở City 35 đô-la còn nóng hổi. Với giấy phép nầy chúng tôi chỉ được phép cắt ngắn các bãi cỏ mà thôi, không được đụng đến những việc vườn tược nặng nề khác, trong khi tờ quảng cáo thì chạy bao sân đủ tất cả các loại dịch vụ làm vườn!  Nhưng rất may là cảnh sát chỉ đến yêu cầu chúng tôi đừng làm ồn để cho hàng xóm ngủ.  Cả sáu chàng tài tử làm vườn Đông Phương đều chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh để phát huy hết tài năng truyền thống: Cắt, xén, cào, xớt, hốt, ôm, xách, tưới, thổi... trời cho của mình.  Mặt trời mới lên quá hàng rào Orleander sân trước, cả khu vườn đã tươm tất sạch sẽ như sân đình làng trong dịp Tết.  Bà chủ nhà ra vườn dụi mắt nhìn quanh vườn mình với vẻ ngạc nhiên như nhìn lâu đài Aladin và tỏ vẻ hài lòng với khuôn mặt mày râu nhẵn nhụi của khu vườn.  Vài ba anh em còn lanh miệng lanh mồm “Happy Birthday - Chúc mừng sinh nhật” bà cụ già nên đã làm cho bà hứng chí ký tấm chi phiếu 750 đô-la.  Bà cụ già là hình ảnh điển hình của người Mỹ:  Chi li và hào phóng vừa tùy hứng, vừa tùy vào kết quả “được việc” của người làm.

            Trên đường về, nắng chưa đứng bóng, tính nhẩm cũng biết là mỗi người kiếm hơn trăm bạc trong mấy tiếng đồng hồ làm vườn.  Và cũng đừng quên thời đó giá xăng mỗi gallon (khoảng 4 lít) chỉ vào khoảng trên dưới  50 xu  so với 18 năm sau, lúc tôi đang viết những dòng nầy thì giá xăng đã tăng gấp bốn, năm lần.  Anh em hứng chí với tâm trạng “Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng...”              

            Anh em càng phấn chấn, có việc làm, tôi càng lo vì phải đi nhận việc và định giá một mình căn cứ vào sự đoán mò, không có một mảy may kinh nghiệm của mình.  Đã ở thế lên ngựa nên phải ra roi, tôi tìm mua các sách viết về công việc làm vườn và đọc ngày đọc đêm để trả bài cho khách.  Song song với lý thuyết sách vở tôi theo anh em tôi phải dò dẫm tìm tới các vườn ương cây (Nursery) và các hàng bán vật liệu làm vườn để biết giá cả mặt hàng mà lãnh việc. 

            Cái mã “Dịch vụ làm vườn Đông Phương” coi bộ khá hấp dẫn đối với người Mỹ. Thời gian tiếp theo, việc đến quá nhiều anh em làm không hết.

Công việc càng phát tài lộc, thì tình cảm anh em trong nhóm lại càng yếu đi.  Chỉ sau một tháng làm vườn, đã có người hoài nghi, buồn lòng về số tiền kiếm được không như ý muốn.  Và dường như ai cũng cảm thấy rằng, mình có đủ khả năng để tự đứng ra làm chủ dịch vụ làm vườn một mình.  Hiện tượng hai người cãi nhau hăng tiết vịt về một chuyện mà cả hai đều chẳng có kinh nghiệm hay kiến thức thực tế nào cả xảy ra mỗi ngày một thường xuyên hơn.  Đó là một trạng thái tâm lý xuất hiện khá thông thường trong tập thể người Việt vì mặc cảm tự ti xen lẫn với tự tôn!  Hiện tượng phân hóa nầy không phải chỉ xuất hiện đơn thuần trong lãnh vực làm vườn mà phổ biến như một căn bệnh trầm kha khắp các lĩnh vực trong cộng đồng người Việt.  Một vài anh em trong nhóm ra đi mở dịch vụ làm riêng.  Bác niên trưởng cười khà bình luận: “Thì đó là tại truyền thống Lạc Hồng chia con lên rừng xuống biển.  Hễ cứ tới số 100 là phải xẻ hai, huống chi bây giờ mình làm ra ngàn, ra vạn!”

           



Chuyện vui buồn đời làm cỏ

 

Hai mươi năm trước, khi bắt đầu làm cỏ, tôi chưa hề gặp một đồng nghiệp người Việt nào lại phí thì giờ để đi học nghề làm cỏ cả vì vốn xuất thân từ miền đất nông nghiệp, chuyện chăm non cây cỏ đã là “nghề của chàng”.  Không ai phải dành ra năm này qua năm nọ để đi học ngành Horticulture chuyên dạy nghề làm vườn như người Mỹ cả. Người Việt có thiên khiếu làm cỏ cũng như con cá mới nở ra là đã biết bơi liền.  Tất cả dân làm cỏ thuở ban đầu đó đều là “vô sư tự ngộ”, nghĩa là không thầy tự mầy làm nên.  Thế mà không có việc gì phe ta lại chịu bó tay và thường làm đẹp hơn dân bản xứ thao lược trong nghề bao nhiêu năm mới hay chứ!



Về mặt lợi tức, thật ra thì nền kinh tế thị trường truyền thống của Hoa Kỳ đã có sự phân công tự nhiên trong đời sống kinh tế và xã hội.  Mỹ là nơi có rất nhiều triệu phú nhưng chỉ có nghệ thuật hay kỹ thuật làm giàu mà không có phép lạ làm giàu.  Cũng thế, nghề làm cỏ trên đất Mỹ cũng đổi sức lực và mồ hôi lấy tiền thù lao chứ không có “phép lạ” nào như  một số người thích chuyện giật gân thuộc về “phe nổ” thường đồn đãi.  Bên cạnh số anh em thật thà có gì nói nấy thì lại có hai phe đối nghịch nhau là “phe dấu” và “phe nổ”.   Phe dấu thì cứ đủng đỉnh ngậm miệng đếm hào. “Dzóp” chơi không ai biết mà “dzóp” thiệt chẳng ai hay, cứ ậm ừ cho qua chuyện để khỏi tiết lộ bí mật nghề nghiệp.  Ngược lại, “phe nổ” thì lúc nào cũng để tiền rơi lẻng kẻng như máy kéo ở Reno.  Những người dè dặt đã bình luận rằng, nghề nào cũng có một giới hạn lợi tức riêng của nó, nghề cắt cỏ chứ đâu phải là kỹ nghệ đấu thầu chế hỏa tiễn cho bộ quốc phòng Mỹ mà dễ kiếm tiền đến thế.  Sau nầy tôi mới khám phá ra rằng, “phe nổ” không đến nỗi hoàn toàn phóng đại khi hoạt động làm vườn đã tiến từ giai đoạn Làm Cỏ như tôi ngày đó lên hàng Làm Vườn và Thiết Kế Hoa Viên như ngày nay.

Lực lượng làm cỏ cũng chia làm bốn thành phần “kinh tế làm cỏ” là:  Gạo cội, gia gia, tà tà và tài tử.  Gạo Cội - là những người dốc toàn thời gian, công sức và sắm đủ các phương tiện máy móc, xe cộ hành nghề chuyên môn, quyết làm ăn “tới bến”, chạy bao sân hết mọi việc cắt cỏ làm vườn.  Gia Gia - là những người biến công việc làm cỏ thành một dịch vụ kinh doanh gia đình.  Khi có việc và nhất là dịp cuối tuần, cả vợ chồng, con cái vào vườn, ra sân cùng làm việc, hiếm khi thuê người ngoài.  Ngày thường, chồng làm một mình hay vợ lôi chồng đẩy (máy) nổ rình rang trong những khu vườn vắng vẻ.  Tà Tà - là những người đi làm vườn thuê, làm nhận tiền công vì không muốn hay không đủ sức tự mình đứng ra mở một “dzóp” làm vườn riêng.  Cứ việc làm hết ngày, lấy tiền công bỏ túi, chiều về nhậu lai rai vài chai không một chút ưu tư lời lỗ hay việc phải làm ngày mai.  Tài Tử - là những người làm cỏ theo kiểu “văn nghệ phụ diễn” tạm thời.  Có khi chỉ là công việc làm phụ thêm cuối tuần hay giờ rảnh.  Hoặc làm chút đỉnh “gọi là” trong lúc đang đi tìm việc hay bị nghỉ việc.  Giang sơn của một tay làm vườn tài tử thường “vô giá” vì anh ta có thể dùng một chiếc xe pick up loại kéo tàu đời mới giá 25 nghìn đô la vừa mới “down” mấy ngày trước khi bị “lây óp”; hay cũng có thể dùng tạm một chiếc xe thổ tả già nua 2 trăm rưỡi đô-la vì tiền thất nghiệp chưa xin được cũng không sao.  Đồ nghề cũng thế, chỉ cần một cái máy cắt cỏ, một máy quất, dăm ba cái kéo, cái cào cắt dọn cây lá mua từ Penny Savers là cũng đủ làm “ông chủ” rồi, nhưng càng về sau nầy, giới làm cỏ Việt Nam có người sắm luôn cả máy ủi đất, máy đào, máy trộn rôm rả như một xưởng nhỏ.  Tài tử, dù là tài tử làm cỏ, tài tử đa cùng, cũng rất gần với đời nghệ sĩ, những kẻ có gia tài là mặt trời treo đầu núi và vầng trăng bên cửa sổ, cần gì sang! 

Tôi đã trải qua đủ “kiểu” làm cỏ loanh quanh vừa kể.  Kinh nghiệm thực tế cho tôi thấy rằng, lối làm cỏ tài tử là “hiêu hiêu đạt đạo” nhất vì phẩm chất đời sống tự cổ chí kim đều đặt trên giá trị của chữ  “Nhàn”.

Điều nầy đã cho tôi một lời giải thích là tại sao những người Á Châu khởi thủy nghề làm vườn đầu tiên tại Mỹ là những nhà tu Nhật Bản và Trung Hoa cũng như  những tu sĩ Phật giáo Việt Nam là những người “khai canh” nghề làm cỏ sớm nhất trong tập thể người Việt Nam di cư sau 1975.

Nghề làm cỏ ở những vùng nắng ấm như California, Texas và ngay cả xứ lạnh Washington, Massachusetts… là công việc khá phổ biến và lý tưởng của những người đàn ông Việt độ tuổi trung niên, không muốn bị ràng buộc bởi công việc, nhưng vẫn cố vươn lên bằng chính sức lực của mình trong một hoàn cảnh chen đua tranh sống nơi xứ người. 

Tuy đã xa nghề làm cỏ gần 20 năm, nhưng cứ mỗi lần nghe tiếng máy cỏ nổ dòn, sâu trong những khu vườn rợp bóng cỏ cây hay thoảng nghe mùi nhựa tươi nồng từ những bãi cỏ hay nhánh cây vừa mới cắt, tôi lại bị cuốn hút như tiếng gọi của tù và hay điệu khèn trong rừng thẳm.  Những ngày tháng làm cỏ tuy ngắn ngủi và vất vả nhưng quả thật đáng nhớ đời. 

Công việc làm cỏ hiện ra như một chiếc phao nhỏ giữa biển đời thay đổi.  Nhiều bạn bè và tôi đã nhanh tay bám vào chiếc phao ấy. Tôi đã rời chiếc phao rất sớm, nhưng phần đông anh em trong nghề làm cỏ vẫn còn ở lại.  Những người anh em đã bám vào chiếc phao trong buổi đầu khó khăn để khỏi chìm và vịn chiếc phao mà đứng dậy.  Sau 20 năm, những chiếc phao nhỏ mong manh ngày xưa giờ đã biến thành những chiếc thuyền vững vàng trên đất Mỹ.  Gần như một trong năm người đàn ông Việt độ tuổi quá trung niên, có gia đình và con cái đùm đề mà tôi được gặp, có một người đầu tư vào nghề làm vườn.

Tôi cám ơn nghề làm cỏ đã cho tôi khoảng thời gian được sống.  Đến Mỹ năm từ năm 1983, tôi đã làm đủ nghề:  Từ việc đánh cá vùng Biloxi ở Mississippi đến công việc giặt thảm sửa nhà ở Baton Rouge, Louisiana; làm vườn ở Milpitas, San Jose, Oakland ở California... cho đến việc dạy trường đại học và làm công chức.  Nhưng có thể nói rằng, thời gian làm cỏ là thời gian tôi học hỏi từ sự chiêm nghiệm của chính mình và từ sự im lặng của thiên nhiên cây cỏ được nhiều nhất.  Học về ý nghĩa của cái tĩnh trong cái động.  Học về nghệ thuật sống “nhu thắng cương” qua cái máy quất chạy bằng dây nylon yếu mềm mà mạnh hơn dĩa sắt. Học từ cái máy thổi phì phò mà rác mẹ rác con đều bị cuốn phăng đi không than thở.  Học từ cái ăn đạm bạc đến cái uống “chữa cháy” từ vòi tưới sau vườn. Xa hơn nữa, tôi cũng học được rằng, khi tâm giao động thì cắt cỏ cũng không yên.  Người ta có thể hình dung được sự an bình thanh thản hay vẻ bấn loạn tinh thần của người cắt cỏ qua những đường lằn song hành hay rối bời của máy cỏ để lại trên bãi cỏ vừa mới cắt.  Hình thù hàng cây mới tỉa, dáng vẻ bãi cỏ vừa mới cắt...  cũng nói lên được một phần cá tính và tâm hồn phong phú hay đơn giản của người thợ làm vườn.

 

Nghệ thuật sống còn 

 

Nếu những người qua Mỹ theo đợt di tản lần thứ nhất năm 1975 mang tâm trạng đi “làm rể” thì những người qua Mỹ 8 năm sau như tôi đã đến đây với tâm trạng kẻ “làm dâu” ngày xưa.  Người làm rể có sự chọn lựa chủ động lúc ra đi và lúc đến, nhưng kẻ làm dâu thì không.  Khi ra đi là chấp nhận “mười hai bến nước...”.  Bởi vậy, khi bước lên đất Mỹ là khi tâm trạng bời bời.  Ngoái nhìn về quê cũ, có bóng dáng những người thân đang đợi chờ, những món nợ ân tình cần trang trải.  Nhìn phía trước mắt là một tương lai đầy hứa hẹn, nhưng cũng đầy sự thách đố và đe dọa.  Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được một cách lương thiện để sống còn.



Nếu không có năm 1975 và những năm lao động cần cù trên đất Mỹ thì hình ảnh nước Mỹ sẽ xuất hiện dưới mắt người Việt Nam qua lăng kính của những người du học hay du khách.  Đối với người du học thì Hoa Kỳ là nơi có những học bổng hào phóng như Fulbright, Mansfield... và những trường đại học lẫy lừng như Havard, Yale hay Stanford... để giúp những sinh viên ưu tú kiếm mảnh bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ để mang về quê hương làm sĩ, làm sư, hay làm sếp.  Với du khách thì Mỹ là nơi có nhiều phong cảnh thiên nhiên và nhân tạo tuyệt vời. Cả hai, học vấn và thắng cảnh, đều không phải là những nét đặc thù của Mỹ vì ở đâu cũng có.  Riêng tôi, được “nhìn” và “thấy” Mỹ qua những công việc thực tế từ thượng vàng đến hạ cám.  Và trong một chừng mực nào đó của đời sống, Mỹ là một xã hội đầy nhân hậu và công bằng đối vơiù những người biết sống, biết vươn lên.

Trên chiếc thang đời không giới hạn một ai trên đất Mỹ “có sức chừng nào, leo cao chừng ấy”, mỗi người khởi hành tự do đi vào cuộc sống mới bằng bàn tay, khối óc và sức lực của chính mình.  Bước đầu lập thân và lập chí trên vùng đất mới, các chàng thích sương mà ngại nắng thì bỏ báo; các nàng tay ngọc thì làm neo, còn tôi và anh em bằng hữu “dám xông pha” mưa nắng dãi dầu hơn nên đã bước những bước đầu tiên vào cuộc đời mới của mình bằng nghề Làm Cỏ.

Cũng chính từ thực tế “xông pha” của người Việt trong hai nghề thông dụng nhất cho nam giới là làm cỏ và nữ giới là nghề làm móng tay ở Mỹ, tôi mới thấy được sức sống và “bí quyết” thành công của người Việt Nam là xông xáo, tính toán và chịu khó hết mình.  Có 5 dân tộc Đông Dương đồng cảnh ngộ, đang sinh sống tại Mỹ sau cuộc chiến Việt Nam 1975, đó là người Lào, người Cam-Bốt, người Mông (H'mong), người Miên (Mein).  Sau 30 năm người Việt Nam đã đi hài bảy dặm vượt quá xa cả bốn dân tộc láng giềng.  Với thế hệ thứ nhất (phụ huynh), có đến 85 phần trăm người Việt đã ổn định về đời sống kinh tế và tậu mãi được nhà cửa so với ít hơn 10 phần trăm sự thành công tương tự của bốn dân tộc vừa kể. Với thế hệ thứ hai (con em) thì giới trẻ Việt Nam đã vượt hẳn giới trẻ của cả bốn dân tộc Lào, Miên, Mông, Cam-Bốt về hàng chuyên viên, chuyên gia cao đẳng, đại học và hậu đại học.

Bởi vậy, trong một dịp tiếp xúc mạn đàm, một người Việt gốc Chàm, gốc ở Phan Rang qua Mỹ từ năm 1980 là ông Yang Sri, đã phát biểu: “Ba trăm năm trước, Mỹ thắng người Da Đỏ bản xứ, cũng như nguời Việt đã thắng người Chàm hơn 500 năm trước không phải chỉ vì ưu thế của lực mà quan trọng nhất là ưu thế của trí.”

Dù là trong hoàn cảnh đòi hỏi sức mạnh của thể lực, trí lực của người Việt cũng thật tuyệt vời trong cuộc tranh sống từ ba mươi năm qua trên những vùng đất mới.

 

                                                           Trần Kiêm Đoàn





Cái ăn và văn hóa
Ngày tháng: Saturday 23 October @ 00:01:34
Đề tài [Gia vị]

Nghe tin tổng thống Mỹ, Bill Clinton, và gia đình sẽ ghé thăm Huế trong chuyến công du Việt Nam, một Huế kiều“ ở Mỹ nói đầy vẻ cảm khái:

- Mấy thuở mà rồng đến nhà tôm!

Lối nói thủ phận của con nhà nghèo Việt Nam dành cho những người khách „danh giá“ đã nghe quen tai từ nhỏ, không làm cho những người Huế xa quê cảm thấy vui hay buồn hơn trong lúc nầy. Nghĩ đến Huế, một xứ Huế nhỏ nhắn và nỉ non như tiếng hò „ru em cho thét cho muồi, để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu...“ người ta thường nghĩ ngay đến những gì không thể nào cân, đo, đong đếm, được như: Dòng sông xanh thầm lặng chảy; những rặng núi xa nhuộm tím dưới ráng chiều phía Tây tắt nắng; chiếc cầu có tuổi đời và tuổi ký ức trăm năm. Và, còn nữa, người Huế gốc cột cờ và khách yêu Huế sành ăn hơn sành uống sẽ nghĩ đến những món ăn „đơn-giản-một-cách-cầu-kỳ“ của Huế!


Mấy tháng trước ngày Clinton đến thăm Việt Nam, khoa nghiên cứu Á Châu (Asian Study) của Berkely có liên lạc thăm dò ý kiến của người đang viết mấy dòng nầy về Huế. Và họ đã được nghe một ý kiến thành thật về Huế rằng, Huế là nơi thăm viếng lý tưởng của giới nghệ sĩ và du khách lãng du, chứ không phải là nơi hẹn hò sáng giá của chính khách và doanh nhân. Tin phái đoàn Clinton giờ chót không ghé Huế, người hiểu Huế nghĩ thế mà hay! Huế hợp với một Bill thổi kèn Saxophone phương Tây mà không hợp với một Clinton làm tổng thống Mỹ. Văn hóa Huế là một nét văn hóa tiềm ẩn - với tính chất lịch sử, nhân sinh và thiên nhiên ẩn tàng trong mạch đất: Một chút văn minh huyền sử của Chiêm Thành, một chút khó nghèo của đồng chua nước mặn, một chút lãng tử của sông núi hữu tình mơ mộng, một chút dáng vẻ cung đình triều Nguyễn và một chút mưa nắng Nam ai.

Du khách nước ngoài, nhất là người Mỹ, có thói quen của „thời tiện lợi“ là ưa nhìn thế giới qua ống kính máy ảnh. Bởi vậy, người Mỹ thường có sự ngạc nhiên trẻ thơ của sự khám phá lần thứ hai, thứ ba một khung cảnh ngỡ như là quen thuộc. Khung cảnh Huế mà nhìn một cách đơn giản và hời hợt qua khung máy ảnh như thế thì cũng giống như xem hoa lụa, cũng có đủ hình hài màu sắc uyển chuyển nhưng không có hương thơm.

Mùa Hè năm ngoái, tôi có một người bạn mới. Anh ta là „Mỹ Chú Sam“ toàn ròn, tên Brad Williams. Brad là một cựu cố vấn quân sự cấp cao của MACV trong thời chiến tranh Việt Nam và đã từng ở Huế hai năm. Anh ta trở lại thăm Huế 30 năm sau. Về Việt Nam cùng chuyến, ngồi ăn bún bò Huế với tôi ở quán Thiên Đường - là tình quân hay tình địch của quá cơm Âm Phủ? - bên cạnh chân cầu Trường Tiền. Anh ta cảm động nói rằng nếu anh không trở lại Huế như một du khách thì anh sẽ không bao giờ biết Huế đẹp và „HuePork and Beef Noodle“ (Bún Bò Giò Heo Huế) lại ngon đến như thế! Lại một sự khám phá hương vị Huế trong tình cảm Huế chăng?! Sáng hôm sau, tôi lại trổ nghề gạ gẫm Brad ăn Cơm Hến. Nhưng đợt thám hiểm khẩu vị nầy không được thành công rực rỡ cho lắm vì chàng Mỹ nhẹ dạ nầy, sau một lèo theo gương Đại huynh cơm hến ăn nhẹ hai tô... chàng ta bèn vừa vuốt mặt cho bớt mồ hôi đổ hồi thánh thót từng dòng, vừa thì thào phát biểu là „Com Hen“ cay... muốn xì khói ra lỗ tai!

Nhiều người, mà kẻ viết bài này là một, vẫn suy nghĩ và bị thực tế thuyết phục rằng, nét nổi bật và „cơ động“ nhất trong nội dung văn hóa của một xứ sở, một dân tộc là „cái ăn“. Cái ăn bao gồm món ăn, cách ăn và kiểu ăn. Món ăn thì dễ phân biệt đã đành, nhưng cách ăn và kiểu ăn cũng thể hiện rõ nét đặc tính văn hóa. Cũng cùng là dân tộc láng giềng, nhưng kiểu ăn của người Phi, người Hmong, người Lào là ăn bốc bằng tay và cách ăn của họ là lặng lẽ, riêng tư; trong lúc người Việt mình lại muỗng đũa gõ lanh canh, soàm soạp tiếng chồng chan vợ húp. Lisa Whitman, nhà ẩm thực học nổi tiếng thường thuyết trình về các đề tài ăn uống trên chương trình „Foods for Life“ của đài truyền hình KOVR Mỹ đã tuyên bố một cách... dễ sợ rằng: „Các học giả nghiên cứu văn hóa nhân lọai xưa nay đều bị bệnh 'tịt mũi' vì toàn chỉ nói chuyện cao siêu chứ chưa có ai nghiên cứu thực tiễn về cái 'mùi văn hóa' cả. Mùi Văn Hóa tiêu biểu của một vùng hay một xứ sở chính là mùi món ăn hay mùi gia vị điển hình nhất của vùng đất và xứ sở đó...“ Nếu vậy thì „Mùi Văn Hóa“ Việt Nam ta là mùi Nước mắm, Nhật là Terayaki, Đại Hàn là Kim chi, Tàu là bánh bao - xì dầu - lạp xưởng, Ý là Pizza, Tây là bít tết, Mỹ là hot dog - hem bơ gơ... !

Đối với dân Việt trên đường Nam tiến hay Tây tiến thì từ buổi xa quê, văn hoá mang theo cũng là cái ăn. Có ai đem được hồ Gươm, sông Hương núi Ngự, chợ Bến Thành, dãi phù sa sông Tiền sông Hậu... trong mớ hành lý mang theo tới xứ người đâu. Cũng chính những hương vị thuần túy của quê hương lai láng trong phở Bắc, bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu miền Nam, chả giò chả lụa ba miền đã làm cho người Việt xác định một dáng vẻ riêng trước mắt láng giềng và cộng đồng thế giới.

Đi đâu loang quanh rồi cũng lại trở về với cái ăn của Huế. Dường như có một sự mâu thuẫn khi nói đến văn hóa Huế và món ăn Huế. Huế nghèo, đó là điều khẳng định. Thế nhưng món ăn Huế lại vô cùng „giàu có“. Chỉ sơ lược qua sự giới thiệu của chị Hoàng Thị Kim Cúc - một nhà ẩm thực học xứ Huế không thua gì Lisa Whitman - cũng đã quy tụ được 600 món ăn nấu theo lối Huế. Có người nhận định rằng, nguyên nhân bởi vì Huế là đế đô sau cùng của Việt Nam, nhà Nguyễn, nên đã quy tụ những tay nấu ăn cự phách nhất của cả nước. Thế nhưng, có những món ăn không sang trọng đế vương chút nào, nếu không nói đó là món ăn của người bình dân nghèo khổ như Mắm Muối, cũng lại rất phong phú trên xứ Huế. Tới Huế mà chưa thưởng thức đủ các vị „mắm muối“ thì vẫn chưa hưởng trọn sự khoái khẩu „mặn miệng“ của vùng đất lạ lùng này.

Một bữa „cơm muối“ của Huế, theo nghĩa bóng là một bữa cơm đạm bạc của nhà nghèo. Nhưng theo nghĩa đen lại có đến nhiều món... muối! „Muối mười món“ thông thường của Huế là: Muối sống, muối trắng, muối rang, muối hầm, muối tiêu, muối tiêu chanh, muối ớt, muối sả, muối ruốc, muối khuyếc, muối mè, muối đậu, muối dầu lai... Mỗi món muối là một công trình nho nhỏ nhưng phải lo sửa soạn, chăm chút tỉ mỉ và công phu trước khi đưa vào những chiếc dĩa nhỏ xinh xinh như cái lúm đồng tiền của nàng Bạch Tuyết.

Bạn đồng hành với muối là mắm. Huế có đủ các loại mắm bốn mùa. Mùa nào thức ấy. Cái quán nhỏ đầu làng ở Huế mà thiếu mắm là thiếu giấy thông hành đi vào lòng đại chúng. Tiên phong trong hàng mệnh phụ phu nhân quyền quý thời nhà Nguyễn cũng đã có người nâng cái ăn lên hàng nghệ thuật. Dân Huế và người yêu Huế chắc vẫn chưa có ai quên „Thực Phổ Bách Thiên“ của Hiệp tá Đại học sĩ Hồng Khẳng phu nhân, bà Trương Đăng Thị Bích, người đã soạn ra 102 bài dạy cách nấu ăn theo lối Huế. Bên cạnh những món ăn Huế quý hiếm, chỉ thấy trong các gia đình quý tộc quyền quý ngày xưa như:

- Bồ câu tìm yến sào- Nem công- Gân nai nấu nước gà hầm- Hải sâm nấu tôm hùm- Bào ngư hầm ngũ vị- Cửu khổng hầm- ...

thì cũng vẫn có kèm theo 12 bài nói về cách làm mắm: Mắm gạch cua, mắm tôm chua, mắm ngừ bột, mắm ngừ ruột, mắm ngừ, mắm nục thính, mắm đối, mắm dừa thính, mắm nêm cá cơm, mắm nêm cá nục, mắm nục bỏ ớt cà, mắm nêm canh, ruốc khuyếc, làm nước mắm. Công thức nấu mỗi món ăn là một bài thơ... tứ tuyệt! Thử thưởng thức một bài thơ dạy về cách làm mắm nêm cá nục:

Nục nhỏ làm nêm lắm kẻ ưaĐong ngang chục cá muối hai vừaGhè khô nhận chặt phơi mươi bữaGió bảy mùi thơm biết chín chưa

(Thực Phổ Bách Thiên. Tr. 47)

Với một quê hương mà mắm ruốc cũng thành thơ; và một đất nước có những món ăn mang đậm nét tinh hoa của mỗi miền sông núi như thế, không lẽ chỉ vì nghèo mà mất đi niềm tự hào là “văn hóa chi bang”?

Mùa Hạ năm 1996, tôi có dịp ghé thành phố “Tiểu Thạch” (Little Rock), tiểu bang Arkansas, quê nhà của tổng thống Clinton. Đang giữa mùa Hè, độ nóng và ẩm của thành phố nầy còn rít rát hơn xứ Huế. Buổi chiều ăn ở quán ăn Sơn Ca (Alouette's Restaurant) với đồ ăn kiểu Pháp. Hôm sau, tìm mãi vẫn không đào đâu ra được một món đồ ăn sản phẩm của xứ nầy, chúng tôi lại phải đi ăn Pizza nướng lò gạch theo kiểu Ý ở quán ăn Bruno' Little Italy. Điều mĩa mai một cách lý thú là sau đó không lâu, khi đứng giữa lòng quê hương sản sinh ra món ăn Pizza, đi từ Rome qua Venice, tôi lại chẳng tìm đâu ra món Pizza trên đất Ý nấu ngon hơn món Pizza trên đất Mỹ. Pizza nơi quê cha đất tổ của nó trông có vẻ ốm yếu và thô sơ hơn ở quê ngọai Huê Kỳ. Món Pizza ở Mỹ được chế biến theo kiểu con nhà giàu. Lớp bột vừa dẽo vừa thơm. Lớp nhân “topping” thực là phong phú. Tất cả cuốn vào nhau trong mâm bánh mới ra khỏi lò. Nhưng sự phong phú thái quá về cái ăn chưa đủ định hình cho cái đẹp. Thử đi trên các đường phố Âu Châu từ Roma, tạt qua Munich, ghé Paris, sang London... du khách sẽ bắt gặp những thân hình mảnh mai và thon thả ưa nhìn. Nhưng nếu đi trên đường phố New York, Washington, Los Angeles... sẽ bắt gặp nhan nhản những thân hình phì nộn khó coi. Cái ăn tạo ra một “phó sản phẩm” là sự phát triển thể xác của sinh vật ăn. Người ta thường đem ra một hình ảnh so sánh buồn cười nhưng có thật rằng, ở Mỹ cái gì cũng to con lớn xác, từ người đến trâu bò gà vịt, nhưng chỉ có hai loài sinh vật ốm o và nhỏ nhất thế giới, đó là người mẫu bằng nhựa bày trong các siêu thị và loài gián Mỹ. Lý do là vì thức ăn Mỹ hầu hết đông lạnh. Người mẫu không ăn và người Mỹ lại sợ gián như sợ rắn hổ mang nên gián thiếu ăn. Con người ăn để sống và tạo ra văn hóa, nên cái ăn và văn hóa như bóng với hình. Hình không có thì bóng cũng không.

Chính trị, kinh tế ví như con đường cái quan và đồng lúa; trong khi văn hóa là rừng cây lưu niên có tự thuở nào. Con đường sẽ được đắp bồi hay chuyển hướng; ruộng lúa có biến thành nương dâu hay không là chuyện nhất thời. Nhưng rừng cây lưu niên đã hiện diện, tiếp nối, và lưu tồn với con người qua thử thách khắc nghiệt của thời gian. Cái ăn là văn hóa, hay ít nhất là một phần thiết thân của văn hóa vì nó là mạch sống lưu truyền của một vùng, một nước, một dân tộc. Mỹ là một nước hợp chủng nên quy tụ vô cùng phong phú những món ăn của thế giới. Thế nhưng nếu khi đưa ra câu hỏi: “Món ăn nào là món ăn thuần túy của Mỹ”? Hamburger chăng? Không! Hot dog chăng? Có lẽ! Vì nguồn cội và bản chất cái ăn thuần túy của một dân tộc vẫn đang còn xác định một cách ngập ngừng như : “Có lẽ!”, nên dù là một quốc gia giàu có và hùng mạnh của thế giới thì nền văn hóa ba trăm năm của Mỹ vẫn còn trong giai đoạn định hình để rồi không biết bao nhiêu năm sau mới có những món ăn “thuần Mỹ” như phở Bắc, bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu Mỹ Tho...

Cái miệng là hoa của người và văn hoá là hoa của cái ăn. Cái ăn của người Việt thường đạm bạc và thô sơ. Vì thế, văn hóa Việt Nam là gia tài ....????



Trần Kiêm Đòan
Đề này đến từ Mui vi
http://www.muivi.com/

URL của đề này là:


http://www.muivi.com/modules.php?op=modload&name=News&file=article&sid=2669

TRẦN KIÊM ĐOÀN



TIẾNG MẸ QUÊ NGƯỜI


LTS: Học giả Phạm Quỳnh có một nhận xét khá độc đáo về ngôn ngữ trong bối cảnh văn học và xã hội Việt Nam: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn”. Có thể nói Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm thi ca tiêu biểu cho vẻ đẹp của Tiếng Việt. Sự mỹ lệ của ngôn ngữ thi ca mang nét đẹp không tàn phai của ngôn ngữ và khơi động được sự thống khoái của người thưởng ngọan nghệ thuật. Cũng trong ý đó, John Keats đã ghi thành một câu thơ bất hủ: “A thing of Beauty is a Joy Forever.” (Mỗi cái Đẹp là một Niềm Vui vĩnh cửu.) Yêu tiếng Việt, thử nhìn lại sự chuyển mình của tiếng Việt trong thế hệ Trẻ Việt Nam (Thế hệ thứ hai) tại nước ngoài. Sự chuyển mình đang quy về hai hướng: Tiếng Việt sống còn bên cạnh tiếng Anh hay tiếng Việt sẽ bị tiếng Anh chôn vùi vĩnh viễn ở quê người.
Sau đây là một bài viết tham gia ý kiến về vấn đề Tiếng Việt ở Quê Người của Tiến Sĩ Trần Kiêm Đoàn. NGUỒN.

**

Quê Ta Tiếng Người (The Fatherland, The Foreign Tongue. N.Y. 1995). Đây là tác phẩm viết về tâm sự của một cô gái Mỹ gốc Nhật, Susan Kumagai, thuộc về thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ. Cô gái Phù Tang đã thành tài và từng ấp ủ ước mơ về phục vụ quê hương. Tâm lý Á châu là một khuynh hướng tâm lý chuộng chính danh và định phận. Người nào tiếng ấy rạch ròi. Nhưng đến đâu trên quê cha đất tổ, cô ta cũng bị đồng bào cô nhạo báng, châm chọc và đối xử một cách đầy xa lạ chỉ vì cô không nói đuợc tiếng Nhật, mà chỉ nói được tiếng Mỹ. Ngay tại ngôi làng tổ tiên Hukaido xa xôi của cô, nguời dân Nhật bình thường vẫn kính trọng người Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng lại xa lánh và kỳ thị cô gái Nhật mà lại chỉ có nói tiếng Mỹ. Sau cùng cô gái phải nghẹn ngào, vội vàng từ giã quê cha với lời than thở: “Đâu phải lỗi tại tôi!” (It's not my fault!”).


Thế thì lỗi tại ai? Susan cũng như hầu hết các em bé Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ đang quên hẳn hay quên dần tiếng mẹ đẻ đâu phải tại lỗi các em. Các em đều lớn lên như một tờ giấy trắng mà những giòng chữ đầu tiên do cha mẹ và xã hội thay phiên nhau viết những giòng kế tiếp. Các em đã quên tiếng Việt rồi sao? Sao các em lại không biết cất tiếng chào “Thưa Cô, thưa Bác, thưa Chị, thưa Anh?”. Sao các em không có được niềm vui ngày Tết và hình ảnh con trâu trên đồng lúa, con sông xanh ở đầu làng, tiếng ru của mẹ... có gợi cho em thương nhớ gì không? Tất cả những gì đẹp và thiêng liêng trên quê hương giờ đã xa khuất bên kia trời trái đất. Suốt ngày ở trường, ba mẹ đi làm quần quật, có ai giúp cho em gợi nhớ gì đâu?
Lỗi tại ai?
Thưa, tại tôi, tại chị, tại anh, tại chú, tại bác, tại tất cả chúng ta là những người phụ huynh có trách nhiệm đang quay cuồng vật lộn với cuộc sống hàng ngày noi quê người với biết bao mặc cảm tự hào lẫn chua xót. Rất đông người Việt lớn rất nhanh với kiến thức, bằng cấp, thương mãi, nghề nghiệp, trương mục ở ngân hàng nhưng rất ít ngưới “lớn” theo kịp với đà phát triển của con cháu chúng ta trong cái xã hội Hoa Kỳ phức tạp và đa dạng này.
Để góp một phần rất nhỏ trong việc trình bày, phân tích và nhận định về sự khó khăn của con em chúng ta trong việc duy trì và sử dụng tiếng mẹ đẻ, tôi chỉ xin phép bàn đến một vài khía cạnh rất nhỏ và tiêu biểu trong lãnh vực bao la của ngôn ngữ.

Mặc Cảm Về Ngôn Ngữ


Nếu đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn thì ngôn ngữ là cửa ngõ tư tưởng và tình cảm của mỗi con người. Qua tiếng nói, người ta có thể gây cảm tình, thuyết phục hay chinh phục; hoặc biểu lộ trình độ hiểu biết và thân thế một cách dễ dàng. Xuất thân từ một đất nước chuộng chữ nghĩa và lời nói, người Việt Nam chúng ta thường mang mặc cảm về ngôn ngữ nặng nề như một cái “khẩu nghiệp”. Tiếng mẹ đẻ bị phân vùng Trung, Nam, Bắc, cọng thêm mặc cảm nhà quê hay thành thị đến nỗi “Chưởi cha không bằng pha tiếng”. Thêm vào đó, tác dụng của tiếng nói còn bị phụ thuộc nặng nề vào đẳng cấp xã hội như “Miệng nhà quan có gang có thép” và người dân thường thì phải chịu “thấp cổ bé miệng”.
Tự bản chất, tiếng nói là một phương tiện truyền thông như chiếc bè để qua sông. Nhưng với mặc cảm khá nặng nề về ngôn ngữ, tiếng Việt thường xuyên bị thử thách trải qua hàng nghìn năm lịch sử, với bao nhiêu cuộc bể dâu của đất nước, hết bị Tàu đô hộ, đến Tây xâm lăng, chiến tranh trường kỳ bão liệt. Không ít người Việt đã vội vàng quay lưng với tiếng nói thân yêu của mình để vội vàng chạy theo những ngôn ngữ mới chân ướt chân ráo tiếp thu được khi hoàn cảnh thay đổi.
Thời cận đại, khi tiếp xúc với văn hóa Tây phương, tiếng Tây đã trở thành một thứ ngôn ngữ “cao quý” đến nỗi cứ hễ nói tiếng Việt mà chêm vào đuợc tiếng Tây, bất luận là loại tiếng Tây nào, kể cả tiếng Tây bồi bếp, bâng quơ... cũng được liệt vào hạng “văn minh” và “thông thái”!
Trong giai đoạn này, đã có rất nhiều người Việt Nam theo “Tây học” đã công khai chối bỏ tiếng nói thân yêu của tổ quốc, để chế nhạo, khinh miệt và vùi dập ngôn ngữ Việt Nam như là một thứ tiếng thấp hèn, nghèo nàn, lạc hậu, vay mượn và thiếu sức sống (!).
Khi qua Mỹ, mặc cảm ngôn ngữ tuy không còn gay gắt trong một xã hội đa
chủng vì tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ tiêu chuẩn (official language), tiếng Việt chỉ còn là phương tiện riêng tư giữa người Việt với nhau. Thế nhưng cái mặc cảm đó vẫn cứng đầu, ló mặt thường xuyên trong cuộc sống Việt-Mỹ hàng ngày. Tôi đã từng gặp trong lớp học, nơi hội hè ở nhiều nơi những tình huống buồn cười một cách xót xa khi một người Việt mới đến xứ nầy nhưng đã nói được tiếng Anh một cách lưu loát thì người ta cho đó như một điều đương nhiên chẳng ai để ý. Nhưng ngược lại, một người Mỹ học tiếng Việt lâu ngày mà nói được một câu tiếng Việt trọ trẹ thì mọi người lấy làm cảm kích và vỗ tay bôm bốp. Tiếng Việt như một con bệnh nằm liệt giường lâu ngày, nay có người tốt bụng vực dậy làm mọi người hồ hỡi.
Thái độ tiêu cực vì mặc cảm tự ti về ngôn ngữ Việt Nam đã bị thực tế hùng hồn đánh bạt. Với sức sống tự cường của hàng nghìn năm lịch sử, tiếng Việt Nam, qua những người con ưu tú, đã chững chạc vươn lên bằng một hình thức văn tự mới với những phong trào chữ Nôm và Quốc ngữ. Những công trình sáng tác và biên khảo bằng tiếng Việt thuần túy đã phôi thai, khôn lớn và trưởng thành theo sự lớn mạnh và trường tồn của lịch sử dân tộc. Nhìn về lịch sử và văn hóa dân tộc, so với tất cả các nước lân bang ở Á Châu, chúng ta có quyền tự hào về sự phong phú của gia tài ngôn ngữ Việt Nam.
Từ

TIN sách MỚI
Tượng đài sông Hương
19/07/2004 10:53:48 PM GMT +7

Tập bút ký Tượng đài sông Hương do NXB Trẻ và Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện đã ra mắt bạn đọc. Sách dày trên 370 trang của 22 tác giả nổi tiếng là các nhà văn, nhà báo, học giả, giáo sư, kiến trúc sư, bác sĩ, đạo diễn điện ảnh... đã phác họa chân dung của cố đô Huế dưới nhiều góc độ khác nhau.

Những cảm nhận và phát hiện rất riêng về sông Hương của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, KTS Nguyễn Trọng Huấn, nhà báo Văn Cầm Hải, Nguyễn Văn Dũng; những nét chấm phá về con người và tính cách Huế thật tinh tế và sâu sắc của các nhà văn Phùng Quán, Trần Hữu Lục, Trần Thùy Mai, TS Trần Kiêm Đoàn, GS-TS Thái Kim Lan, đạo diễn - NSND Đặng Nhật Minh, nhà báo Đinh Phong...Thanh Hồ



Каталог: 2012
2012 -> Những câu nói tiếng Anh hay dùng hằng ngày
2012 -> I. NỘi dung quy hoạch cao đỘ NỀn và thoát nưỚc mặt bản đồ hiện trạng cao độ nền và thoát nước mặt
2012 -> BÀI 1: KỸ NĂng thuyết trình tổng quan về thuyết trình 1 Khái niệm và các mục tiêu
2012 -> Người yêu lạ lùng nhất
2012 -> Thi thử ĐẠi họC ĐỀ thi 11 MÔN: tiếng anh
2012 -> SÔÛ giao thoâng coâng chính tp. Hcm khu quaûn lyù giao thoâng ñOÂ thò soá 2
2012 -> Commerce department international trade
2012 -> Những câu châm ngôn hay bằng tiếng Anh
2012 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO ĐỀ thi tuyển sinh đẠi họC 2012 Môn Thi: anh văN – Khối D
2012 -> Tuyển tập 95 câu hỏi trắc nghiệm hay và khó Hoá học 9 Câu 1

tải về 0.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương