Đôi nét về tác giả trần kiêM ĐOÀN



tải về 0.8 Mb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích0.8 Mb.
#36780
1   2   3   4   5   6

Vỡ lòng


 

Trường "Đạo"!  Ngôi trường làng hiền hậu nấp dưới hàng mù u, bên cạnh giáo đường làng Dương Sơn, cách cái cầu Tứ Phương phân ranh giữa làng tôi và làng Cổ Lão đi bộ chỉ tàn vài điếu thuốc mà nghe xa xôi hơn cả Tử Cấm Thành.  Tin tôi đi học trường "Đạo" lan xa như tiếng tù và làm tỉnh ngủ bọn nhóc tì trong cả mấy xóm Kên, xóm Giữa, xóm Cụt, xóm Côi làng Liễu Hạ.  Làng Dương Sơn là làng thuần Thiên Chúa giáo với tháp chuông nhà thờ cao vút, có chiếc thánh giá nổi lên trên nền trời lộng gió giữa biển tre xanh và ruộng lúa mấp mô nhiều đợt của xã Hương Cần. 

            Cả một thời thơ ấu, tôi chỉ nghe gọi người làng Dương Sơn là "đạo" để phân biệt với người dân xung quanh là "ngoại" hay “lương”!.  Chiều chiều, nghe vọng âm của tiếng chuông nhà thờ đổ hồi khi thanh, khi lặng theo từng cơn gió nồm mùa hạ, hay gió bấc mùa đông làm cho trí tưởng tượng về một thế giới "đạo" huyền bí trong tôi bay bổng miên man.  Những ngày “Tây lùng” bất chợt, người dân vùng "ngoại" lũ lượt kéo nhau lên lánh nạn ở Dương Sơn.  Cũng lạ là Tây đến vùng ngoại thì đốt nhà, hành hạ không nương tay; nhưng cũng cùng đoàn Tây đó đến làng đạo thì lại thân mật với dân thường, cho quà và cười đùa với trẻ em đầy vẻ tình người.  Bởi vậy, ngôi trường tiểu học mang cái tên là lạ, “Phan Thiện”, trở thành nơi tốt nhất để cha mẹ trong vùng xin cho con đến học.  Học trò đến từ nhiều vùng khác nhau: từ Văn Xá, Hương Cần, đến Phước Yên, Liễu Hạ...

            Buổi học đầu tiên, mẹ tôi cười rạng rỡ, dắt hai anh em tôi đến ra mắt vị Cha xứ.  Vị linh mục có khuôn mặt thanh tú sau cặp kính cận gọng vàng, trong chiếc áo dòng đen viền cổ trắng dang tay đón lấy tôi bằng một cử chỉ nhân ái mà suốt tuổi thơ ở làng tôi chưa bao giờ có được.  Mẹ tôi giục:

            - Nói lạy cha đi con!

            Tôi mồ côi cha rất sớm, nên tiếng "cha" chưa quen gọi trên môi từ khi tôi biết nói.  Tôi ngượng nghịu khi phải gọi một người lạ bằng "cha", nhưng đôi mắt tỏa chiết ánh thân tình, mát dịu và tinh anh của người đối diện cho tôi chút can đảm nói lên:

            - Dạ... dạ, lạy cha!

            Nhìn những bức tranh, bức tượng thánh đủ màu; nghe những tiếng xưng hô "em", "con" nơi đây, thay cho tiếng "tui" (tôi), tau, cộc lốc ở làng, tôi cảm thấy rõ ràng là mình đang lạc vào một thế giới khác.  Sau đó, tôi được đưa vào lớp chị Hường.  Chị đẹp như một thiên thần trong lớp mũ áo nhà tu trắng toát trinh tuyền.  So với mấy chị, mấy o, mấy thím làng tôi với tóc bối răng đen, quần xăn lên quá gối quanh năm thì chị Hường là hiện thân của những nàng tiên trong cổ tích.  Đến lúc chị Hường cười chúm chím, hỏi tôi mấy câu, giọng chị ngọt mềm như bánh sữa làm tôi cảm thấy tôn nghiêm và ớn lạnh với nỗi sợ đang lạc quá xa vào thế giới hoang đường.

            Hàng ngày, sau giờ ngủ trưa là lễ cầu nguyện.  Tôi vốn đã quen với hình ảnh của cây bồ đề có rễ phụ mọc từng chùm nhiều hơn lá và ngôi tượng Phật có tai dài ngang cằm của ngôi chùa cổ ở làng.  Tôi đã thuộc làu từng nhịp nhặt khoan của hồi chuông trống bát nhã, quen với lời mở đầu câu kinh “Đệ tử kính lạy, đức phật Thích Ca, phật A Di Đà”....  Nay được thấy tượng Chúa trên bệ cao nhìn xuống, có khuôn mặt “giống ông Tây mà hiền như ông Bụt ở chùa làng”, như thằng Quảng làng Phước Yên có lần nhận xét.  Tôi thì thích đôi tay của tượng chúa, đôi tay rộng mở, dang ra như muốn đón ngày trở về của những đứa con bụi đời, những kẻ vô tình quay lưng trở lại.

Học được mấy tháng thì chị Ngôn thay chị Hường.  Chị Ngôn lớn tuổi, cao và rất nghiêm.  Chị bắt đọc a,b,c... thành ra á, bơ, cơ... cho “khỏi giống Việt Minh”.   Mỗi thứ sáu chị Ngôn đều nhắc học trò của chị phải ăn “chay”.  Thời đó, lũ học trò vùng “ngoại” của chúng tôi hiểu ăn chay là ăn khoai sắn và trái cây, nên mỗi thứ Sáu, cả lớp lại có dịp cãi cọ ồn lên về cây trái thổ sản quanh vùng. 

Làm sao tôi quên được những cuộc “chiến đấu” anh dũng tung nước bọt của ba thằng nhỏ quê ở Hương Cần về đại sự: “quýt Hương Cần thứ thiệt!”.

Thằng Tin ở phe Kiền, thằng Vện phe Đông, thằng Hạ phe Chùa.  Cả ba phe đều thuộc về làng Hương Cần.  Như vậy là cả ba đứa đều là dân Hương Cần thứ thiệt, toàn ròn, thế mà thằng nào cũng chê quýt của hai thằng kia là quýt... giả.  Tôi cũng là con nhà vườn, lại là con đẻ của chiến tranh nên cũng khôn “nẻ vỏ”, chưa học hết lớp i-tờ đã biết chơi trò ngư ông thủ lợi.  Cả ba thằng nhóc Hương Cần liên tù tì bắt tôi nếm thử.  Mấy ngày đầu, tôi chẳng dại gì, mà thiệt tình cũng chẳng phân biệt được gì để phán là quýt của đứa nào là quýt Hương Cần chánh hiệu cả.  Qua mấy ngày sau, nếm quýt nhiều quá thành “lạnh bụng” phải ôm cái bụng đau lâm râm rời đấu trường hơi bất thường, tôi đâm ra dè dặt.  Đến các hiệp sau thì tôi ăn hết nổi quýt của hai gã phe Đông và phe Chùa, nhưng vẫn còn cảm thấy thinh thích quýt của thằng Tin phe Kiền vì mùi thơm và vị ngọt của nó.  Hai đấu thủ phe Chùa và phe Đông cảm nhận được mòi bất ổn của gã trọng tài gà mờ như tôi, nên đã lẳng lặng rời trận đấu trước hồi chung kết!

Lớp học i-tờ của tôi thường bị cắt ngang vì “Tây lùng”, dân các làng kế cận chạy giặc về ngồi la liệt quanh sân giáo đường.  Tuổi thơ của tôi cũng đầy tiếng chim ca và tiếng súng nổ; lúc thì tưởng yên ắng lãng quên như nước tù trong ao nhỏ, lúc lại cuồng lên nghiêng đổ như nước lụt đầu mùa.  

Rồi những buổi trưa giữa vòm giáo đường cao vút, tôi mê mãi đuổi mắt tìm bầy dơi lười biếng ngủ trưa, lên giọng đọc theo lời kinh mà tôi chỉ loáng thoáng hiểu là đang nói một lời vui mừng cao cả nào đó “Kính mừng Maria đầy ơn phước, đức chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phép lạ, hơn mọi người nữ...”

            Ngày tháng học trường Đạo qua nhanh đầy tiếc nuối như tổ chim mơ ước của tuổi thơ một sớm đã chuyền cành.

            Giống thằng Cuội ôm bí mật trên cung trăng, tôi cũng có bí mật riêng mình để mà quên một thuở, mà nhớ một đời. Sau vụ tranh giải Quýt Hương Cần thì thằng Tin ở phe Kiền đã mặc nhiên giữ chức “Quýt Hương Cần chính hiệu nai vàng”.

Tôi nghiễm nhiên trở thành đồng minh của nó, vì tình hữu nghị thắm thiết của hai đứa thuộc loại “đồng bịnh tương lân”.  Tôi và nó đều thích ngẩn ngơ tổ chim sáo trên bụi tre lá ngà cao ngất đầu làng.

            Đã có những buổi trưa trốn ăn và những phút vội vàng sợ chiều tắt nắng nằm nín thở một mình trên đám cỏ khô, hồi hộp nhìn vói theo chim sáo mẹ xây tổ rồi tha mồi về tổ cho sáo con, cả hai đứa miên man sống trong mơ về một ngày hạnh phúc.  Cả hai đứa cùng mơ về một ngày ấy sẽ ôm con sáo nhỏ trên tay, cho nó uống nước đường đen của mẹ tôi dùng nấu chè, kho cá và tập cho nó nói “Chào khách” hay “Ai đó”.  Ước mơ là quyền tự do tuyệt đối của con người.  Nhưng rồi, ước mơ là sương tan giữa thực tế gay gắt của mặt trời.  Sau bao ngày bàn tính nhỏ to, hai đứa chúng tôi quyết ra tay hành động.

            Một buổi xế trưa, hai đứa trốn lễ nhà thờ để bắt tổ chim sáo.  Từ dưới đất nhìn xuyên qua thân tre với hàng hàng, lớp lớp chi chít cành lớn, cành nhỏ, gai dài nhọn hoắt tôi có thể nhìn thấy tổ chim sáo đong đưa theo từng cơn gió, có cả bầu trời xanh lồng lộng trên cao.  Tôi leo lên cây, còn thằng Tin đứng dưới ngó chừng.  Nó cũng là nòi nghĩa hiệp.  Trời khá lạnh mà nó nhất quyết cởi trần để khoác cho tôi thêm cái áo ngoài để “gai khỏi chích”.  Lâu như ngày mới lớn chờ đợi lá thư tình, cuối cùng tôi leo lên tới ngọn tre.  Trước khi rờ tới được tổ chim sáo thì than ôi, tiếng nói ngọt ngào của vị Cha Xứ từ dưới vọng lên:

“Con trèo xuống.  Đừng vội mà đâm phải gai...”.

Học trường đạo luật lệ nghiêm minh mà dám trốn học trèo cây bắt chim thì dù các ông thánh hiện hình cũng không xin học lại được.  

                                             



Khúc ngoặt của dòng sông.

 

Thời nhỏ tôi thường nghe mẹ hò “Ai đưa con sáo sang sông, để cho con sáo sổ lồng bay đi”.  Tôi mê chim sáo, nhưng con sáo không sang sông mà tôi phải sang sông để tiếp tục học lớp i-tờ sau gần một tháng bị đuổi học. Làng tôi là làng Liễu Cốc Hạ.  Nguồn gốc của tên làng là do ngày xưa khi chúa Nguyễn mới vào Nam thì nơi đây là một rừng dương liễu trùng điệp chạy dài từ núi ra biển.  Những vị khai canh đã từng bước phá rừng dương trồng ngũ cốc.  Phía gần đồi núi mang tên là Liễu Cốc Thượng và làng tôi thành Liễu Cốc Hạ vì nằm phía dưới, cạnh con sông Bồ phát xuất từ dãy Trường Sơn. Huế có ba con sông đẹp nhất, trong xanh đáy nước in trời, chạy song song từ Trường Sơn về Nam Hải như ba cô gái cùng mẹ khác cha.  Sông Hương là cô bé dòng dõi Hoàng tộc nên có dáng “ yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”;  sông Bồ là cô bé phù sa gánh nước sa bồi tưới cho những cánh đồng lúa gầy gò, lam lũ; và sông Truồi là cô bé chân quê chăm bón cho những vườn dâu, vườn chè hương đậm bốn mùa.



Sông Bồ đang chảy ngon trớn xuôi dòng về Nam, bỗng khi đến cuối làng tôi lại quẹo chếch về hướng Đông Bắc.  Con sông lượn vòng uốn khúc ôm biền phe Kiền cong như eo trái bầu non mùa Xuân mới lớn. Chính nơi đây, sông Bồ bao bọc mảnh đất truyền đời của quýt Hương Cần.

Làng Hương Cần có 5 vùng thường được gọi là 5 giáp: Giáp Đông, giáp Tây (Phe Chùa), giáp Trung, giáp Kiền (Phe Kiền), gíap Thượng.  Thế nhưng chỉ có Phe Kiền mới chính là  nơi trồng được quýt - quýt Hương Cần - ngon nhất nước.  Đã bao nhiêu năm qua, có rất nhiều người ở các làng kế cận, bứng nguyên cả cây quýt Hương Cần đã già hay còn non về trồng ở vườn trong làng khác, có nơi chỉ cách Phe Kiền làng Hương Cần một cái ao nhỏ không đầy hai bước.  Thế nhưng khi quýt ra trái vẫn là quýt chua, chẳng bà con lân cận gì với hương vị độc đáo của quýt Hương Cần.

Khi không tôi lại lọt vào vùng “thánh địa” của quýt Hương Cần.

Lớp học mới của tôi mở đằng sau hậu liêu của một nhà thờ họ củ kỹ và thấp lè tè như một tòa miếu cổ.  Xung quanh là vườn quýt già trồng từ đời nào với ngọn cao quá tầm mái ngói và tàng lá xanh đậm, san sát, lọc ánh mặt trời vã sao trên đất.  Vì mẹ tôi phải chờ ngày tốt sau Tết để cho năm rộng tháng dài và “được mùa sinh” (mùa Xuân) mới đưa tôi vào trường mới.  Mùa Xuân quýt trổ bông nên buổi sớm và buổi chiều hoa quýt trắng phau tỏa mùi thơm lúc the the, lúc dìu dịu từ mé sông Bồ cho đến những bờ ao.

Học ở Phe Kiền chừng vài tháng thì con đường duy nhất đến trường gọi là đường Nhứt bị phong tỏa giữa hai lằn đạn, lính Bảo Vệ phía Tây Bắc và Việt Minh phía Đông Nam.  Đường đi không một bóng người, nhưng ai cũng gờm gờm với cảm giác ớn lạnh là hai họng súng từ hai phía đang chĩa về con đường Nhứt định mệnh ấy.  Tôi không dám đến trường đi qua trên con đường Nhứt ấy mà phải lội băng qua con sông Bồ chảy qua làng Liễu Hạ và Phe Kiền.  Mẹ tôi vẫn thường so sánh: “Có phước đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo”.  Khổ nỗi tôi thích và hình như cũng có hơi giỏi cả hai:  Bơi lội và leo trèo!  Tôi mang về cả “phước” lẫn “tội” cho mẹ giống như tất cả những đứa bé quê Việt Nam.

Hàng ngày, buổi sớm và buổi chiều đi học và bãi trường về nhà, tôi đứng tần ngần nhìn sông.  Cởi áo quần, tôi cuốn chung với sách vở và mo cơm bới bỏ vào trong chiếc nón lá đã được phết dầu rái dày cộm để dùng như chiếc phao nổi rồi cắp nón lội xuống bờ sông. Cứ một tay bơi, một tay vịn và đẩy nhẹ vào chiếc nón lá để lội qua sông Bồ với giòng nước khi lặng lờ, khi chảy xiết.  Đến bờ, tôi mặc áo quần vào lại, ôm sách vở đến trường học.  Dù cố bảo vệ như đồ gia bảo, cuốn sách vở lòng và tập vở vấy nước lâu ngày dày cộm và chữ nghĩa nhoẹt nhòe.  Những ngày trời lạnh cuối thu,  nhìn nước xanh và những mảng lá vàng quấn quít trên sông tôi ước chi mình là chiếc lá bay chếch qua sông mà không phải đầm mình trong giòng nước sớm chiều lạnh cóng.  Rồi những ngày mưa lũ và những tháng mùa Đông, không bơi qua sông được, mẹ tôi phải thuê chú Cưỡng đem ghe chở qua sông.

Trường tôi chỉ có hai lớp và một thầy giáo.  Một lớp abc và một lớp “Ê-cri-vê”.  Lớp abc thì lũ nhóc học trò chỉ việc hoác mồm ra đọc theo thầy.  Có đứa tung hết nội lực thâm hậu ra đọc đến nỗi làm thầy sợ, bắt đọc nhỏ lại cả “tàu bay thám thính nghe”!  Lớp Ê-cri-vê là lớp cao cấp hơn , quy tụ toàn những đứa thông thái cở như tôi,  ít ra cũng có trình độ học vài ba tháng trường Đạo, dù chỉ là học trò trốn lớp bắt chim bị đuổi học như tôi.  Cho đến bây giờ và ngày xưa đi học, tôi vẫn chưa hiểu và cũng chẳng bao giờ dám hỏi thầy vì sao lớp tôi lại có cái tên ngộ nghĩnh như vậy.  Tôi đoán có lẽ vì lớp tôi có tập viết. Tôi viết bằng lưỡi viết lá tre cột vào cái cán bút tự chế biến chấm vào bình mực tím.  Hết mực, vắt nước trái mồng tơi lem luốc cũng nguệch ngoạc được dăm ba chữ thánh hiền!

Trường làng tôi là cái chái bỏ hoang trong khu nhà thờ họ Nguyễn.  Bàn ghế cái bằng tre, cái bằng gỗ khập khà khập khiểng theo đà lắc lư của đám học trò thích chạy rông ngoài đồng hơn là bị nhốt trong lớp học.  Trừ thầy giáo Cống có đôi dép cao su “rọ heo”, còn tất cả học trò đều chân đất.  Có một lần thằng Quảng làng La Vân, được một đôi dép mới e dè mang đi học, bị chọc quá, mặt méo xẹo, phải vác đôi dép lên vai khi bãi học về nhà.  Sáng hôm sau, nó hiên ngang đi chân trần tới lớp, trở về nhập bọn sĩ tử chân trần xóm nghèo.

Thầy tôi dạy tùy hứng.  Nhớ con cháu Gaulois  thì thầy dạy năm ba câu tiếng Tây.  Chúng tôi cứ nhắm mắt đọc theo thầy.  Cứ mỗi lần thằng Cu Sài dân Xóm Cụt bị kêu lên đọc bài thì những đứa ngồi bàn đầu như tôi khó tránh  ăn vài cái thước khẻ nên thân của thầy vì cười rúc rích.  Mở đầu câu chào hỏi “Bonjour, je m'appelle Cu Sài”  thì nó đọc ngọng nghịu ra sao mà cứ bị mấy trò lớn tồng ngồng cuối lớp nhái lại thành “Bồng rùa, rờ mép bên cu dài!”  Chán Tây, thầy lại về nguồn nhớ tổ Hùng Vương để dạy đôi bài tiếng Việt “Dân ta nòi giống Lạc Hồng, sao cho xứng mặt con rồng cháu tiên...”.  Hoặc đôi khi thầy sai tôi đi thắp thuốc, khói thuốc khơi dòng cho hồn thơ lai láng thì thầy dạy “Thu ơi! Ai nhuôm lá Thu vàng!”  Phương pháp dạy của Thầy là đọc và “nhớ mặt chữ” chứ chẳng cần lôi thôi đánh đấm vần xuôi, vần ngược gì cho vất vả!   Không ngờ tôi cứ đọc ê a theo cách dạy của Thầy mà bỗng trở thành giỏi lúc nào không hay.  Tôi biết mình giỏi là ngày mẹ tôi đem cái ống tre đựng giấy tờ bị thấm nước lụt ra phơi.  Tôi chụp ngay mấy chữ quen mắt mà thầy đã dạy ra đọc.  Có mấy chữ Tây phụ đề đâu đó tôi cũng quờ quạng đọc toáng lên luôn.  O Quảng khen:

- Cái thằng giỏi thiệt! Không cần đánh vần chi cả mà đọc trơn lu!

Mẹ tôi cười sung sướng.  Anh nắng mai trong mắt mẹ làm cho những hàng chữ nhạt nhòa trên giấy xưa úa vàng cũng long lanh màu hy vọng.

Không lâu sau đó, Tây đi lùng qua vùng quê tôi, bị Việt Minh phục kích gây thương vong.  Tây quay lại đốt nhà trả đũa.  Cả một vùng quê ngập tràn trong lửa đỏ.  Nhà tôi là nhà rường kiền kiền lợp tranh mây nên cháy suốt một ngày một đêm mới chịu hoàn toàn gục xuống giữa tro than.  Không rõ trường tôi bên kia sông vẫn còn hay mất.  Nhưng từ dạo đó, tôi đã vĩnh viễn xa ngôi trường một thuở thơm lừng mùi hoa quýt.

Tôi cũng không còn nhớ mình đã học quanh, học quẩn qua nhiều trường làng bằng cách nào mà cũng leo lên tới lớp ba, rồi lớp nhì và lớp nhất.  Ngày thi tiểu học toàn quận Hương Trà thật là cả một đại biến cố của đời tôi.  Mẹ tôi suốt đêm không ngủ.  Cứ hết ra sân thắp hương khấn vái, rồi đến việc nấu xôi bới trong mo cau thành từng gói.  Vừa có tiếng gà gáy lại cất lên từ phía chuồng gà úp trên chuồng heo là mẹ tôi đã đánh thức tôi dậy để chuẩn bị lên đường đi thi.  Hai tiếng “đi thi” có mãnh lực gọi mời pha một chút linh thiêng đối với tôi như tiếng gọi của rừng thẳm và Lady Jane đối với Tarzan.  Đầu mùa Hạ, đường đất pha với sương đêm mát dịu.  Đôi dép mới đi chưa quen bó vào chân nhức buốt.  Tôi phải vác đôi dép lên vai và lọt tọt chạy theo Mẹ.  Đến con đường Bàu Đôn dẫn tới Bao Vinh đá dăm lởm chởm.  Chân cứng mà đá không chịu mềm nên tôi chạy vã mồ hôi mới níu được bàn tay xương mà dịu dàng của mẹ.  Mẹ truyền “bí kíp” cho tôi: “Đi nghiêng chân để tránh bớt đá!” Chân nghiêng đổ lách mình trên con đường đá thẳng nên tới chỗ trường thi Hương Trà đã mệt bơ phờ.  Thi hai ngày rưỡi, hai mẹ con ăn hết nhiều mo cơm bới.  Mẹ tôi đón ở cổng trường sau mỗi buổi thi với câu hỏi đầy lo lắng: “Làm bài có được không con?”

Ngày treo bảng, tôi đỗ thứ ba trong số hơn nghìn thí sinh dự thi và mấy trăm thí sinh trúng tuyển “Pri-me”. Mẹ tôi mừng làm mâm cơm “cáo yết gia tiên”.  Nước mắt mẹ chảy dài theo nhang khói.  Tôi thương vẻ mừng vui thầm lặng tỏa chiết một cách rỡ ràng trên khuôn mặt mẹ nhiều hơn là mừng cho mình. Từ đó, khi được thực tế cuộc sống nâng niu, tôi vẫn cảm thấy như có mẹ bên đời; hay dẫu bị bạc đãi đến cỡ nào, tôi vẫn vịn vào lòng thương mẹ mà đứng dậy.

“Thư viện” của tôi là mấy nhà thờ họ rêu phong, là đình làng vắng vẻ, là ngôi chùa cổ kính. Đó là những nơi học bài, làm bài “rất vô”, ít bị bạn bè đến rủ rê hay tiếng ồn quấy phá.  Tôi có những phương pháp “học vẹt” tuyệt vời.  Như môn quốc văn chẳng hạn, tôi học thuộc làu làu chừng chục bài nghị luận văn chương, năm bảy bài nghị luận luân lý, những đoạn văn tả cảnh, tả tình đầy gợi cảm, đại khái chung chung áp dụng cho cảnh sum vầy hạnh phúc cũng đúng mà cảnh phân ly, chia biệt cũng chẳng lạc đề; văn chương cũng phong phú mà nghị luận cũng hùng hồn. Với tình cảm Việt Nam mà cứ tha thiết nói giọng bùi ngùi, xúc động, nghẹn ngào, thổn thức, thương cảm, hoài vọng, ước mơ... thì chạy đi đâu mà sợ lạc.

Rồi đến kỳ thi “càng cua” (concours) vào đệ thất trường trung học Hàm Nghi.  Đây quả là kỳ thi của số phận.  Hỏng “càng cua” là mất cơ hội vào học trường công.  Học trò làng, cơm áo còn thiếu, có đâu mà trả tiền học trường tư.  Bởi vậy, ở quê tôi, hầu như tương lai học hành của bọn trẻ cũng chấm dứt luôn một lần với việc thi hỏng “càng cua”.

“Học tài thi phận!” nghe ớn lạnh như lời truyền vào cổng trường thi của sĩ tử ngày xưa: “Báo ân nhập, báo oán nhập, sĩ tử thứ thứ nhập!”  Nghĩa là các linh hồn trả ơn và báo oán vào trường thi trước, kế đó mới đến thí sinh vào trường thi.

Cái chùm dây thòng lọng “học tài thi phận” Việt Nam cứ treo lủng lẳng trên đường mòn đèn sách đã biến thế giới bút nghiên thành thao trường của số phận. Hết tiểu học, đến “càng cua”; lên trung học, đến tú tài bán phần, tú tài toàn phần, thi tuyển vào các ngành đại học...  Cổng trường thi là cái cổng nhà trời đầy quyền uy dẫn người qua đó về nẻo vinh quang hay cay đắng!  Nhưng dù gian nan đến mấy thì tôi cũng vẫn không quên lời hứa với mẹ đã có cột cờ làm chứng:  Lời hứa mai sau sẽ làm ông “đốc tờ” cho mẹ vui lòng.

Sau 12 năm học, từ tiểu học lên đến trung học, kéo dài trong cảnh bão tố chiến tranh của toàn đất nước và trong khung cảnh biến động thường xuyên của một xã hội trôi nổi trên cuồng lưu của tư tưởng, kinh tế và chính trị, tôi thành “cậu tú”.  Ngưỡng cửa đại học mở ra e dè như anh chàng hà tiện mở hầu bao đã khách.  Thước đo chất xám của thời đại là “Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, nông lâm bỏ ra, chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm.”  Học bài còn được gọi là “gạo bài, nuốt bài” hay “tụng bài” cho nhuyễn để sẵn sàng rút ruột nhả tơ cho các kỳ thi tuyển. Cái học từ chương thay áo mới, bút lông thay bằng bút sắt, nhưng chiếc chiếu hoa cạp điều vẫn còn trải thảm trên lối đi của tri thức như xưa!

Tôi thi vào trường Đại học Y khoa Huế.  Một nghìn tư thí sinh lấy chín chục, tôi đậu thứ 9.  Tin tôi thi đậu vào trường “bác sĩ” lan ra cả vùng quê vốn bao nhiêu năm qua, người bệnh muốn gặp ông “đốc tờ” phải bỏ vào võng khiêng đi mất nửa ngày mới tới.  Tội nghịệp mẹ tôi mừng khấp khởi.  Hạnh phúc của những bà mẹ Việt Nam không phải là sự hưởng thụ thỏa mãn mà là nỗi hy vọng tràn trề về một tương lai sáng sủa cho con cái.  Nên hạnh phúc cũng có nghĩa là hy sinh.

Mẹ tôi đã hy sinh cả một đời thanh xuân cho gia đình và con cái, nhưng khả năng chỉ đủ sinh hoạt cho một gia đình khiêm tốn sau lũy tre xanh.  Con đường dài dằng dặc sáu, bảy năm ở trường y khoa chỉ còn trông cậy vào nguồn hỗ trợ tài chánh chủ yếu từ người anh cả của tôi.  Anh tôi đang chỉ huy một đơn vị tác chiến tại Khe Sanh.

Những ngày đầu nhập môn của một sinh viên y khoa tuy mới lạ và bận rộn đối với tôi, nhưng đó là những ngày tháng thật êm đềm của cuộc đời đi học.  Một tương lai đã được định hướng cùng với một hiện tại đáng hãnh diện và đầy hy vọng làm phấn chấn tinh thần dọn đường cho tôi đi tới. Với sức học đang lên và nỗi say mê đèn sách đang ở vào thời kỳ đầy phong độ, tôi nhìn thẳng vào con đường y khoa sáu năm đang đến như một đại lộ phong quang, chẳng gợn lên một chút mây mù gai góc nào cả.  Giảng đường và sách vở tạo ra một ảo giác tháp ngà êm ả. Tôi không để tâm nhiều đến cuộc chiến đang vùi dập những mảnh đời bất hạnh ngoài kia.

Tôi ở trọ tại Vỹ Dạ. Một buổi xế trưa không hẹn, Tuấn, một người bạn học rất thân của tôi xuất hiện ngoài cửa ngõ.  Dưới tàng cây xanh lọc nắng Tuấn cúi đầu lững thững vào nhà.  Tôi bắt gặp một nét gì khác lạ nơi Tuấn hôm nay.  Tuấn không chìa tay ra bắt như thường lệ mà ôm lấy vai tôi, nhè nhẹ kéo ra ngoài sân. Tôi tò mò và im lặng quan sát cử chỉ hơi bất thường của Tuấn hơn là nói lên một điều gì.  Tay Tuấn tìm bàn tay tôi và lặng lẽ đặt vào đó một mảnh giấy xếp tư.  Tôi e dè mở ra.  Một cái điện tín do anh Thiện gởi.  Nội dung ngắn gọn nhưng vết chém của nó vào cuộc đời thật là chát chúa và tàn độc:  “Anh Nhàn tử trận rồi.  Xác sẽ đưa về Huế hôm nay.”  Tôi chằm chằm nhìn cái điện tín ráo hoảnh như nhìn vào bầu trời mùa hạ rỗng không.  Hình như  trong tận cùng vô thức, hàng ngày tôi vẫn chờ tin nầy từ lâu lắm.  Tôi vẫn đưa anh Nhàn ra sân bay trực thăng Ái Tử, Thành Nội, Đà Nẵng để lên Khâm Đức, Dục Đức, Khe Sanh.  Cứ mỗi lần nhìn cái dáng nhỏ nhắn, sạm nắng của anh trong trang bị tác chiến chạy lên tàu trong đám bụi mù của cánh quạt trực thăng sẵn sàng cất cánh, tôi vẫn mơ hồ thấy được số phận chênh vênh, bọt bèo, ngắn ngủi của người lính chiến trường.

Anh cả tôi từ giã chiến trường.  Tôi từ giã y khoa.

Anh từ giã chiến trường để về đất.  Tôi từ giã y khoa để trải qua những mảnh bằng gió bụi.

 


Каталог: 2012
2012 -> Những câu nói tiếng Anh hay dùng hằng ngày
2012 -> I. NỘi dung quy hoạch cao đỘ NỀn và thoát nưỚc mặt bản đồ hiện trạng cao độ nền và thoát nước mặt
2012 -> BÀI 1: KỸ NĂng thuyết trình tổng quan về thuyết trình 1 Khái niệm và các mục tiêu
2012 -> Người yêu lạ lùng nhất
2012 -> Thi thử ĐẠi họC ĐỀ thi 11 MÔN: tiếng anh
2012 -> SÔÛ giao thoâng coâng chính tp. Hcm khu quaûn lyù giao thoâng ñOÂ thò soá 2
2012 -> Commerce department international trade
2012 -> Những câu châm ngôn hay bằng tiếng Anh
2012 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO ĐỀ thi tuyển sinh đẠi họC 2012 Môn Thi: anh văN – Khối D
2012 -> Tuyển tập 95 câu hỏi trắc nghiệm hay và khó Hoá học 9 Câu 1

tải về 0.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương