Đại Ngụy Chân Kinh Lê Huy Trứ


Tinh thần khoa học trong Phật Giáo Đại Thừa



tải về 0.65 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2018
Kích0.65 Mb.
#37060
1   2   3   4   5   6   7

Tinh thần khoa học trong Phật Giáo Đại Thừa


Nếu thuyết big bang được khoa học chấp nhận là gần đúng nhất thì 14.8 tỷ năm về trước, vũ trụ bắt đầu bằng quả chanh rồi bùng nổ và tạo ra vũ trụ hiện hữu. Các khoa học gia đã giải thích và chứng minh sự bùng nỗ đó như thế nào rồi nhưng không biết họ có giải thích tại sao nó bùng nỗ. cái gì làm nó bùng nỗ? Khoa học và Phật Giáo đều đồng chung một quan điểm: tự nó bùng nỗ, như thị tri giác. Không có ai sáng tạo ra sự bùng nỗ mà nó tự nỗ, như thị. Không có nhân nỗ, chỉ có quả nỗ? Điều này làm cho các người học Phật điên đầu vì kinh điển chưa thấy giải thích về có quả mà không có nhân này. Theo thiển ý của tôi, vũ trụ mới bắt đầu từ vũ trụ cỗ bị ép lại từ một lực (force) và với năng lượng tuyệt đối mạnh kinh khủng (tremendous energy) để nén vắt lại nhỏ như quả chanh, cho đến khi không thể ép nhỏ hơn nửa, thì từ đó sinh ra một phãn lực ngược lại (resistant force) và rồi thì nó bị bùng nỗ tung ra với một năng lực ngược lại (reserved energy,) tạo thành ra thế giới hữu vi (light) và vô vi (dark matter) cùng các thế giới (vô hình) ở trên các miên tầng số khác mà con người chúng ta chưa thấy, biết và hiểu tới nổi. Tuy nhiên, chúng ta vẩn quen thói đi lạc vào tứ cú của lý luận nhị nguyên, cái gì tạo ra sức ép khinh khủng đó? Phật dạy, “Các pháp có Tướng của nó như vậy. Tánh của nó như vậy. Thể của nó như vậy. Lực của nó như vậy. Tác của nó như vậy. Nhơn của nó như vậy. Duyên của nó như vậy. Quả của nó như vậy. Báo của nó như vậy. Và từ đầu chí cuối của nó như vậy.” Tôi xin trả lời ngắn gọn là, “Nghe rứa chứ không phải rứa, thấy rứa mà không phải rứa. Tưởng nó như rứa chứ không phải như rứa. Nhưng nó là như như rưá đó!” That the way it is. Như Thị Tri Kiến!

Tệ hơn nửa, tôi là thượng mạn nhân, lại còn dám tự tôn là ‘vô học’ cho nên không chịu chấp nhận đơn giản như vậy mà muốn tìm hiểu thêm chi tiếc để chúng ta cùng học lậu hay lậu học, cùng cãi cọ cho từ cho bi. Theo tôi các sức ép nguyên thủy đó phát sinh từ một niệm nhứt thể trước khi có nhửng vũ trụ. Từ vô lượng kiếp, nhửng vũ trụ này được tạo ra bởi nhửng chuổi nỗ của big bangs. Nhửng vũ trụ này được che phủ bởi nhửng bức màn vô minh gọi là black holes and worm holes, liên hệ, ảnh hưởng, tương quan, móc nối trong quantum entanglements của nhửng universal webs. Phật gọi đó là Indra Jewel web chúng ta gọi là lưới vũ trụ, tương tự như nhửng internets. Vậy thì cái nhứt niệm xứ này từ đâu ra? Từ nhứt niệm nơi chân như nơi đó không thể tư nghi hay giải thích bởi ngôn ngữ và kiến thức thức của loài người. Chúng ta có thể tạm gọi đó là hư vô, chân như, Phật tâm, trí tuệ Phật, nhất thể, god...bất cứ cái gì củng được. Đây là điểm mà lý trí con người từ Đông sang Tây cùng gặp gở. Nhân sinh ở đâu củng cùng được cấu tạo bởi ‘một’ thứ, đó là ngũ uẫn cho nên lối suy tư tuy khác biệt, kiến thức, ngôn ngữ, lý luận tuy bất bất đồng trong lối giải thích nhưng chung quy vẫn không ngoài tự Tánh Phật.

Ngay cả chuyện gần nhất trong vũ trụ chúng ta đang ở, chúng ta chỉ biết được một phần rất nhỏ của 10% của nhửng nơi ánh sáng có thể chiếu tới, còn lại 90% chúng ta mới nhận ra nhưng chưa biết là cái gì để mà đặt tên và diễn tã, đó là dark matter. Cái bầu trời tối đen với nhiều tinh tú này đả được con người quan sát và nói đến từ cả triệu năm nhưng chúng ta chỉ có để ý và nghiên cứu nhửng gì chúng ta thấy được qua phản chiếu từ ánh sáng tới nhục nhãn của con người, chứ cái bầu trời đen như mực đó chúng ta bỏ qua (ignore) vì cho là không có gì trong đó để mà nhìn mà cố nhìn củng không thể thấy được vì nó không có được ánh sáng rọi tới để thấy được. Vậy thì, nó có nghĩa là không có gì trong đó? It is emptiness?
  1. Phật Ngọc


Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Thế Tôn đả dùng thần thông chiếu hào quang từ giữa trán lông mày xuyên qua những cỏi Ta Bà, vũ trụ....Đó là Bích Nhãn Phật (Phật Nhãn) cao siêu hơn Lục Thần Thông, Thiên Nhãn (third eye). Thiên Nhãn chỉ soi, chứ không rọi hay chiếu tới những dark matter trong những vũ trụ Ta Bà....Dark Matter chiếm tới 90% của vũ trụ, trong khi đó light 10% những nơi mà nhục nhãn chúng ta có thể thấy được. 90% còn lại tối đen chúng ta không biết có hay không có cái gì trong đó để mà diễn tã bằng ngôn ngữ loài người. Chỉ có, người tu đạt toàn giác (Phật) thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ, là vũ trụ mới giác ngộ được.

Cách chúng ta nhận thức về chúng ta và về vũ trụ vẫn còn nhị nguyên và hầu như không thay đổi trong suốt sự phát triển của lịch sử nhân loại. Nó là một cái nhìn chấp nhận sự phân ly giữa mình và kẻ khác. Kết quả của cái nhìn phân ly đó là chúng ta đã tạo ra những môn trìết học, nghệ thuật, khoa học, y học, sinh thái học, thần học, tâm lý học, chính trị học, xã hội học, đạo đức học… biệt lập nhau. Hậu quả là tạo ra cái thế giới mà ngày nay chúng ta sống trong đó.”



Cái mà Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, Trí Tuệ Phật 2600 năm về trước, mà ngày này đa số giải thích là Phật Nhãn nên được cập nhật hóa cho thích hợp với suy tư của hiện tại. Tôi xin gọi đó là Phật Ngọc. Nhãn lẫn vật chất (ngọc) không thể tự nó chiếu sáng mà phản ảnh ánh sáng. Ngọc Phật tự chiếu ra hào quang như Phật đả chứng minh trong Diệu Pháp Liên Hoa Hội.

Phật Ngọc này nó như một định tinh như mặt trời phát ra tia sáng tam muội, đốt cháy nhửng gì bám che cản trở, soi sáng các vệ tinh khác trong vòng Thái Dương Hệ, trong đó có trái đất. Định Tinh vì nó không động, tương tự như vô lượng định tinh khác trong vũ trụ tự nó phát ra một sức nóng mạnh kinh khủng từ lữa tam muội, phát ra một tia sáng và nhiệt độ tới các vệ tinh trong vòng giới hạn của ánh sáng có thể soi tới. Tuy nhiên, Định Tinh khác với Phật Ngọc vì tuy tự nó chiếu sáng, không động nhưng nó vẫn sở, vẫn trụ vào gravity, vẫn bị sinh, trụ, hoại, diệt. Trong khi đó trái châu Phật (ngọc Phật) vô sinh, vô diệt, vô thỉ, vô chung. Đó là minh châu chiếu sáng từ vô lượng tới vô biên xuyên thấu vũ trụ, không có gì có thể ngăn cản nổi chứ đừng nói tới bụi vô minh. Đó là lý do mà Lục Tổ Huệ Năng nói:

菩提本無樹。
明鏡亦非臺
本來無一物。
何處有(匿)塵埃

Bồ-đề bổn vô thụ,

minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật,

hà xứ hữu (nặc) trần ai?

Bồ-đề vốn chẳng cây,

gương sáng cũng chẳng phải là đài

Xưa nay không một vật,

nơi nào dính bụi trần?



  1. Nhân Sinh với Phật Giáo


Câu hỏi cần thiết và thực tiễn nhất của con người là làm sau thoát khỏi khổ đau? Đó là lý do, lúc Phật bắt đầu thuyết Pháp, Đức Thế Tôn dạy ‘Buddhism vỡ lòng 101’ như là phương tiện tiệm giáo: nhửng điều ta biết như đám lá trên rừng, nhửng đều ta dạy cho chúng sinh như vài cọng lá ở trong bàn tay ta. Học vở lòng trước rồi học tiến sĩ sau, sau khi đạt được trình độ “vô học.” Cho nên nhửng điều tôi trình bày trong bài này không ích lợi trực tiếp cho nhửng người chỉ muốn thoát khỏi khổ đau (dukka) vì họ chưa đủ trình độ để nhận thức được cái vòng tương quan của Bát Nhã Ba La Mật Đa và Diệu Pháp Liên Hoa của Đại Thừa mà chỉ muốn lẫn quẫn trong cái nghiệp nhân qủa và vô minh. Chỉ mong được cho thuốc thí (free samples of medicine) trị bịnh đau khổ ảo nhưng không muốn viễn ly bệnh ghiền của hữu thường, tham sân si và chấp trước. Nói tóm lại, họ không có được đức tính bi trí dũng, không muốn tự cứu mình, cứu người khác ra khỏi bờ mê, biễn khổ nhưng chỉ ỷ lại vào một một đấng quyền năng nào đó để mong được cứu khổ, cứu nạn, được tha tội và lên thiên đường, muốn gì được nấy.

Tuy nhiên, không có cái gì trên đời này là của chùa cả (nothing for free!) Muốn như vậy thì họ phải thờ Thần, tin tuyệt đối vào Thần. Dâng của cải, tinh thần lẫn thể xác cho Thần để được thần ngụy tạo tha thứ, rửa hết tội nếu không thì bị trừng phạt, xuống địa ngục. Có thể từ đó mà con người sáng tạo ra tôn giáo thờ thần. Tôn giáo của con người, được sáng tạo bởi con người, Thần hình người qua hình ảnh suy nghỉ rất phàm phu vô minh của con người. Chúng ta đã sáng tạo ra thượng đế rất người như chúng ta. Rồi thì bị các giáo sĩ bắt cóc thượng đế nhốt vào nhửng đền thờ để chúng ta thờ phụng cho cái quyền lợi của giáo hội. Khi được hỏi về thượng đế, nhửng tín đồ lẫn các giáo sĩ thờ thần này không thể chứng minh được là thượng đế có thật. Họ hàm hồ, phải tin vào thượng đế chứ không được chất vấn sự hiện hữu của thượng đế. Vậy thì thượng đế (nếu có) đó là vô thường hay hữu thường, ảo hay thật?

Bởi sự vô thường giả tạm đó, đức Phật dạy rằng:

"Aniccà vata sankhàrà - Uppàdavayadhammino

Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."

Nghĩa là: “Các pháp hữu vi (sankhàrà, các vật được cấu tạo) là vô thường, có sanh rồi hoại, đã có sanh tức có hoại diệt - ngưng nó được là hạnh phúc.”

Tham vọng của con người trên đời này là làm chủ được tâm hồn lẫn thể xác của nhửng người khác, của cả nhân loại. Làm chủ nhân loại là làm chủ cả thế giới. Củng như, con người đả làm chủ cả Thượng Đế nhân tạo. Thượng Đế đang làm việc cho con người. Tuy nhiên, con người không thể làm chủ được cái không có. Con người chỉ có thể tạm thời làm chủ được nhửng người khác trong đời này chứ không làm chủ được bất cứ gì trong vũ trụ. Phật Giáo dạy chúng sinh, tự thành Phật, làm chủ lấy mình. Mà khi đả thành Phật rồi thì cái “mình” (self, ngã) đó củng không có nửa để mà “ai” (who) làm chủ được?

Donald S. Lopez, Jr. chứng minh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giống civilized Aryans. At a lecture delivered at the Town Hall in New York in 1925, the Sinhalese activist Anagarika Dharmapala (1864-1944) declared:

The Message of the Buddha that I have to bring to you is free from theology, priestcraft, rituals, ceremonies, dogmas, heavens, hells and other theological shibboleths.

The Buddha taught to the civilized Aryans of India 25 centuries ago a scientific religion containing the highest individualistic altruistic ethics, a philosophy of life built on psychological mysticism and a cosmogony which is in harmony with geology, astronomy, radioactivity and relativity. No creator god can create an ever-changing, everexisting cosmos. Countless billions of aeons ago the earth was existing but undergoing change, and there are billions of solar systems that had existed and exist and shall exist. (Buddhism and Science, Donald S. Lopez, Jr.)

Tương tự như Donald S. Lopez, Jr viết ở trên. Theo quan niệm rất khoa học trong kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa, “Cứ một ngàn dải ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy. Kinh Phật mô tả, một dải ngân hà được gọi là đơn vị thế giới.” Vũ trụ trong vũ trụ, vô không gian vô thời gian, vô lượng vô biên, vô thủy vô chung, vô sinh vô diệt.

Người tu đạt toàn giác cảm thông với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ. Phật là vũ trụ, tất cả là vũ trụ, part of a whole. Phật không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, lý nhân duyên mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô thỉ, vô chung. Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học vật lý lượng tử hiện đại nếu đem đối chiếu với kinh điển Phật Giáo đã phần nào tương đồng trên chân tướng hữu thường của vũ trụ và vạn vật. Kể cả, nhửng khám phá về đời sống thực vật, và nhửng giống mà chúng ta cho là vô tình cũng biết ảnh hưởng, cảm thông trước thái độ đối xử của con người. Không chỉ nhân sinh mà tất cả vạn vật trong vũ trụ củng biết vô tình thuyết pháp; đâu đâu củng có dấu chân của Đức Phật lưu lại từ vô lượng kiếp.

Khi viễn vọng kính (thiên lý nhãn) của NASA chụp được những giải thiên hà đầy ánh sáng và màu sắc rực rỡ, hình xa luân, hình trụ, hình bán nguyệt, xoán ốc, black holes,…trong tấm lưới (web) vũ trụ đúng chính xác như Phật tả về Hoa Tạng thế giới ở trên Indra Jewel Web. Nhửng phám phá trùng hợp này đả thể hiện nhửng gì Phật dạy trong kinh điển Phật Giáo, như thực tri kiến, đã làm thay đổi quan niệm và nhận thức của loài người về vũ trụ và nhân sinh quan. Tuy nhiên, đây chỉ một đám lá trong tay Phật so với một rừng kinh điển cao thâm diệu vợi của Phật Giáo mà ngài để lại cho chúng sinh. Khoa học hiện đại chỉ mới gỏ cửa Phật Giáo. Nơi khoa học dừng lại, chưa giải thích được, là nơi Phật Giáo bắt đầu từ 2600 năm trước cho đến hàng ngàn năm sau, vượt xa khoa học hiện thực, nhị nguyên.

Đại Sư John Daido Loori viết: “Kinh Hoa Nghiêm trình bày một vũ trụ mà trong đó tất cả mọi sự vật và những sự vật khác tương nhập với nhau trong sự đồng nhất và quan hệ duyên khởi; trong đó mỗi sự vật đều cần đến mỗi sự vật khác và không có một hạt bụi nhỏ nào không ảnh hưởng đến toàn thể. Một ẩn dụ trong kinh, Lưới Trời Đế Thích (Indra Jewel Web,) vẽ ra một thế giới trong đó mọi hiện hữu được nhìn như một tấm lưới kim cương lớn rộng khắp vũ trụ, không chỉ ba chiều không gian mà còn bao gồm chiều thứ tư là thời gian. Mỗi điểm của tấm lưới vĩ đại nầy là một hạt kim cương nhiều mặt phản chiếu mỗi viên kim cương khác, và như vậy, chứa đựng mọi viên kim cương trong tấm lưới. Những viên kim cương tiêu biểu cho toàn thể vũ trụ quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều mà ẩn dụ đó muốn mô tả là mỗi và mọi sự vật trong vũ trụ đều chứa đựng mỗi sự vật khác trong mọi lúc.

Lưới Trời Đế Thích không chỉ là nguyên lý triết học; nó là một sự trình bày về thực tại được chứng nghiệm. Nó là kinh nghiệm trực tiếp của hàng ngàn nam nữ Phật tử qua trên hai ngàn năm. Có thể nói rằng, giáo lý nầy chỉ được người Tây Phương tiếp nhận một cách nghiêm túc vào thế kỷ thứ hai mươi, khi họ nhận thấy một trong những ứng dụng của tia sáng laser đã minh chứng cho sự xác thực của cái thấy cổ xưa nầy. Sử dụng ánh sáng laser, chúng ta có thể tạo một hình chụp trên một tấm bảng kẽm; khi ánh sáng laser được cho xuyên qua tấm kẽm, một hình ảnh ba chiều được phóng ra. Đó là hình ảnh rất đẹp, một hình ảnh holographic mà chúng ta có thể bước đi trong đó, cho phép chúng ta ngồi ở giữa những đồ vật trong bức tranh đó. Điều đáng chú ý hơn, và làm thay đổi tận gốc cách chúng ta nhìn sự vật là khi cắt tấm kẽm chụp hình đó làm đôi và chiếu ánh sáng laser qua chỉ nửa tấm kẽm đó nó vẫn phóng chiếu toàn thể hình ảnh, cắt phần tư làm hai, cắt phần tám làm hai và cứ như thế cho đến một phần nhỏ nhất của tấm kẽm. Khi chiếu ánh sáng laser qua nó, toàn bộ bức tranh được phóng chiếu, không có phần nào bị mất. Điều nầy chứng tỏ một việc: mỗi phần của tấm kẽm chứa đựng tất cả mọi chi tiết của cái toàn thể, giống như những viên kim cương trong Lưới Trời Đế Thích. [Cái Lưới Trời Đế Thích (Indra Jewel Web) này tương tự như quantum entanglement, universal web và internet với nhửng dữ kiện (data,) truyền thông, tín hiệu liên quan mật thiết với nhau. Như bướm ngài nhẹ vỗ cánh, có thể tạo ra một cuồng phong bão tố dưới dương gian. THL]

[Não bộ của chúng ta củng được cấu tạo tương tự như vậy. THL] Kết quả của sự khám phá nầy là các nhà sinh vật bắt đầu khảo sát sinh vật học theo mô hình holographic. Lý thuyết mới về não bộ cũng được dùng mô hình holographic, và các nhà vật lý bắt đầu nhìn vào vũ trụ bằng “con mắt” theo mẫu holographic. Ngày nay, trong thế kỷ thứ hai mươi mốt, các nhà khoa học đã bắt đầu chứng minh được sự xác thực của những điều được nói ra từ sự chứng nghiệm Lưới Trời Đế Thích truyền đạt bởi các hành giả Phật giáo qua 2500 năm.

Nhận ra vũ trụ holographic là điều tôi muốn gọi là tâm thức thế kỷ hai mươi mốt. Chỉ với việc hiểu bản chất của vũ trụ như là một toàn thể, chúng ta có thể làm điều gì đó cho những vấn đề mà chúng ta đang đối diện. Tâm thức thế kỷ hai mươi mốt là tâm thức của những vị Cổ Phật; đó là Tâm Phật, cũng là tâm của tất cả chúng sanh. Tâm đó chúng ta đã có sẵn đủ, nhưng chúng ta chôn vùi nó trong một quãng đời bị điều kiện hóa – điều kiện hóa do cha mẹ, thầy giáo, văn hóa, tổ quốc, học vấn... Khi chúng ta nhận ra vũ trụ tương quan phụ thuộc, không thể nào chúng ta từ bỏ trách nhiệm đối với nó. Rõ ràng rằng điều chúng ta làm và điều xảy ra cho chúng ta chỉ là một. Khi nhận thức điều nầy một cách sâu xa, chúng ta sẽ không thể nào còn trì hoãn và đổ lỗi. Chúng ta tạo ra thế giới của chúng ta – đó là điều ai cũng thấy rõ. Đó là kết quả đến từ nhận thức. Khi chúng ta nghe về những vấn đề của thế giới, chúng ta cảm thấy thất vọng. Chúng ta có thể làm được điều gì? Tình trạng có vẻ vô vọng. Tuy nhiên, bên cạnh nỗi vô vọng đó, chúng ta vẫn có cách để giải quyết tình trạng của chúng ta, với điều kiện là chúng ta phải hiểu được chúng ta thật sự là ai ở bên ngoài chiếc bị da, bên ngoài ngôn ngữ và ý niệm. Đâu là sự thật, thực tại của cuộc sống? Ý nghĩa của hiện hữu là gì?” (Teachings of the Earth, Vô Tình Thuyết Pháp, John Daido Loori, Thị Giới dịch)
  1. Bồ Tát ngày nay


Nhiều người nói càng học cao, càng trí thức, lý luận giỏi càn khó giác ngộ. Điều này ám chỉ những khoa học gia, bác học, học giã, triết gia, lương y, kỹ sư, tri thức nhân,...những bật này đả khám phá ra những kỹ thuật, phương thuốc trị bệnh vật chất củng như tinh thần của chúng sinh và vì nhờ vậy mà chúng ta có được cuộc sống văn minh kỹ thuật hiện đại là nhửng người khó mà giác ngộ? Câu nói vô minh này chỉ đúng một nữa (50%,) một nữa sai là vì ngu muội, một nữa đúng là vì đoán mò, suy bụng ta ra bụng vĩ nhân.

Chúng ta thường nghe câu chuyện thiền ‘empty your cup’, để có chổ chứa những kiến thức mới. Nghe vậy chứ không luôn luôn như vậy, chúng ta có thể ‘empty’ cái mớ kiến thức trí tuệ của mình để cái cup đó ‘full of air,’(đầy cả cái Không, full of emptiness) rồi sau đó fill up cái vô minh (ignorant,) mà chúng ta gọi là cái mớ kiến thức mới. Câu hỏi chính đáng là empty of what and full of what – full of emptiness? Or, is the cup half full or half empty? Cái nữa nào là có, cái nữa nào là không? Không cái gì, có cái gì?

Theo tôi nghĩ những bật vĩ nhân này là nhửng Bồ Tát đang cứu độ chúng sinh. Sống ở đâu, theo tôn giáo nào, họ không cần biết đạo Phật mà vẫn ngộ được Phật Pháp. Họ là nhửng vĩ nhân, chưa biết là chính mình đả có nhân Phật.

Chúng ta càng văn minh, thì nhu cầu vật chất, kỹ thuật lẫn tâm linh càng cao hơn, trí thức của chúng ta càng mỡ mang hơn cho nên chúng ta cần những Bồ Tát trí tuệ hơn 2600 năm về trước để có thể cung ứng nhu cầu kêu khổ như bọng và phức tạp gian ác hơn của con người. Vấn đề cập nhật hoá này củng phải áp dụng luôn cho việc truyền bá, giảng giải và thuyết Pháp trong Phật Giáo từ những bật chân tu có trí thức lẫn kiến thức. Người giảng Phật Pháp vẫn phải như thị ngã văn nhưng lối dùng chữ phải thích hợp với hiện đại và dễ hiễu để mà có thể học hỏi nhất là cho những Phật Tử trẻ, thành phần ‘chắc hột’ của Phật Giáo.

Đơn giản, Phật Giáo là đạo của giác ngộ, của trí tuệ tự nhiên trong vũ trụ. Tất cả những khỗ đau, sinh lão bệnh tử, luật nhân quả của con người cùng những hiện tượng trong vũ trụ như sinh trụ hoại diệt đều là như thị tri kiến, luôn cả hằng hà sa số Phật đả tự có từ vô lượng kiếp. Phật Thích Ca không có sáng tạo ra bất cứ vật gì, hay bất cứ không vật gì vì tất cả như thị: chỉ là hư ảo, vô sinh vô diệt.


  1. tải về 0.65 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương