Đại Ngụy Chân Kinh Lê Huy Trứ



tải về 0.65 Mb.
trang6/7
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2018
Kích0.65 Mb.
#37060
1   2   3   4   5   6   7

Diệu Pháp Tối Thượng


Diệu Pháp Liên Hoa Kinh củng chính được chư Phật hằng hộ niệm mà Giáo Bồ Tát Pháp là phương pháp giáo hóa các Bồ Tát tu để thành Phật. Hàng Thanh Văn, hay Duyên Giác chưa có thể hiểu tới. Dỉ nhiên, hàng phàm phu như chúng ta không thể tiếp thu nổi nếu chưa kiến Phật Tâm.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Thế Tôn xuất định bảo Xá-Lợi-Phất:

Trí tuệ của chư Phật sâu sa vô lượng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bích-Chi-Phật không thể biết được.  Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn.  Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tuy cơ nói pháp ý nghĩa khó lường.”

Trong phẩm tựa, đức Phật phóng hào quang, hiện điềm lành rồi nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Đến phẩm này, đức Phật nhận biết căn cơ của thính chúng đã thuần thục nên Ngài mới xuất định để nói thời pháp tối quan trọng, cái chân lý tối thượng mà Ngài đã ấp ủ suốt 40 năm. Dạy chúng sinh, tự mình Tri Kiến Phật.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật cũng dạy người tu cần tri thức, không có Phật nào không xả thân học đạo cầu tri thức và chính Đức Phật Thích Ca cũng đã từng làm như vậy. Tương tự, quy cách của Phật Di Đà, tập hợp những người có tri thức và đức hạnh, có học và có phước, theo mô hình Tịnh Độ của chư Phật mười phương. Thế giới của Phật Di Đà xây dựng đầu tiên theo tiêu chuẩn là những người được Ngài mời tới là người sạch nghiệp, trong kinh gọi là hàng Thượng Thiện Tri Thức Nhân. Nếu tu theo Nhị Thừa, thì phải là La Hán, Bích Chi Phật, Thanh Văn; nếu tu theo Đại thừa, phải là hàng Nhứt Sanh Bổ Xứ A Bệ Bạt Trí.

Tôi củng nghe nói, Kinh Pháp Hoa này rất là cao siêu, vua của các kinh Đại Thừa. Dùng để giáo hoá Bồ Tát tu để thành Phật chớ kinh này không nhắm vào Thanh Văn, Duyên Giác. Thậm chí, hàng phàm phu không đủ trình độ để có thể tiếp thu nổi kinh này. Phật Sở Hộ Niệm nghĩa là kinh này cũng chính chư Phật hằng hộ niệm. Thoạt nghe, có vẻ như vọng ngữ, ‘chấp độc tôn’ trên các kinh điễn khác? Vậy thì, ngay kinh củng còn chấp ngã? Nghe nói, kinh này củng là pháp kinh cuối cùng được Phật thuyết trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt? I don’t know don’t know.

Tôi củng nghe nói: Tu Pháp Hoa là tu trên Quả chớ không phải tu từ Nhân để đi đến Quả nghĩa là hành giả triển khai sự tu hành ngay trên Quả của Phật đã thành vì thế kinh mới được tôn vinh là “vua của các kinh.” Quả mà kinh Pháp Hoa diễn bày ở đây chính là Phật tánh vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Thêm nữa, hoa sen là một loại hoa có thể được gọi là “nhân quả đồng thời.” Bởi vì ngay trong búp sen đã có sẵn gương, hột và cánh nhụy rồi. Một đặc tính cao thượng của hoa sen là tuy mọc từ sình lầy tanh hôi, vẫn vươn lên mà không hề bị bùn lầy nước đục làm hoen ố sắc hương. (Lê Sỹ Minh Tùng)

Có thể vì vậy mà “Bồ Tát sợ quả, chúng sinh sợ nhân.” Prof. Lê Sỹ Minh Tùng diễn giải: Nhất thừa là con đường duy nhất để thành Phật. Do đó, tôn chỉ của Pháp Hoa là tu để thành Phật, cứu cánh tối thượng là Phật quả, là Bảo Sở chớ không không có con đường nào khác. Vì vậy nhất thừa Phật nghĩa là một là tất cả và tất cả chính là một tức là Bất Nhị. Như thế, muốn hòa nhập vào trong hội Pháp Hoa, chúng sinh phải thấy mình sống trong cái nhất thừa đó, phải biết mình cũng có đủ tri kiến Phật để giúp mình sáng suốt hóa giải những phiền não đau khổ của thế gian. Nhất thừa đưa hành giả đến chỗ vô phân biệt, không còn thấy mình tu theo Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát mà tất cả quy về thành Phật đạo tức là con đường duy nhất để thành Phật. Nếu con người sống trong tinh thần Nhất thừa thì sẽ không còn tranh chấp giữa các tông phái cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn. Xa hơn nữa, nhất thừa giúp chúng sinh nhìn thế gian rộng rãi rốt ráo hơn. Đó là xóa sạch những dị biệt tư tưởng cho nên tranh chấp, xung đột đưa đến tranh đấu sẽ không còn. Bởi vì nhất thừa là cứu cánh tối thượng của trí tuệ và từ bi và cũng là hòa bình của thế giới.

Theo tôi hiểu, cứu cánh của Phật Giáo không phải tu để thành Phật mà kiến cái Phật tánh nguyên thủy của mình. Phật không thành Phật!

Bất nhị (non-dualism) có nghĩa là không phải một mà củng không phải là hai (dualism,) dĩ nhiên là bất quá tam. Vì, vậy được gọi là bất nhị thay vì nhất thể, nhất nguyên. Bật Bồ Tát quán Bát Nhã Ba La Mật Đa đạt được tính bất nhị chứ chưa đạt tới Nhất Phật Thừa. Đó là, không bất nhị! Thân ngũ uẩn không bao giờ đạt được tới nhất nguyên. Cái nhất thể đó có thể ở chính giửa tử-sinh, sinh-tử. Cái Nhất Thừa này không thể giải thích được, bất khả tư nghị chỉ có Trí Tuệ Phật mới giác ngộ được.



Trì Kinh Pháp Hoa, tôi chỉ thấy có ba chữ, rồi thì 2 chữ và cuối cùng năm ba chữ đó trở thành chỉ ‘một chữ’ đáng cho tôi để tâm chú ý trong hơn 750 trang với mấy trăm ngàn chữ. Phần còn lại quá huyền bí, thâm sâu tôi không có khả năng diễn tả bằng ngôn ngữ, phải tự hành trước, nên chưa thể chia sẻ với qúy vị thiện tri thức, chắc hột.

Sau khi đọc qua Kinh Pháp Hoa, tôi củng bị nhửng xung đột nội tâm vì hình như nó đi ngược lại lý luận và kiến thức đầy khoa học trong đạo Phật mà tôi đả tự học ở nhửng kinh điển khác. Tôi có thể dễ dàng rơi vào thượng mạn, dễ dàng bát bỏ nhửng luận điệu giảng giải của Kinh Pháp Hoa rồi thì kết luận đây là một “thánh kinh”đầy mê tín, dị đoan được viết bởi các “giáo sĩ” nhân danh Phật. Hội Pháp Hoa có thể đã xảy ra, Đức Thế Tôn đã có thể thuyết giảng vài phần trong kinh nhưng đa số thì do tam sao thất bổn, đề cao kinh này quá đáng? Kinh đi vào chiều cao thâm (dimesions) của siêu hình học, là kinh ‘Phật dạy Phật,’cho nên, nó có thể không bổ ích mà có thể còn có hại cho nhửng người thượng mạn chưa đạt được một chút trí huệ Bát Nhã. I don’t know don’t know.

Tuy có thể đây là ‘Ngụy Kinh,’ 30% đúng như ý Phật, 70% huyền thoại, mê tín nhưng tôi đang suy nghiệm và sẻ trình bày nhửng lời tâm linh này với cái nhìn khoa học hơn trong bài khác. Tôi chỉ muốn chia sẻ đều này với tri kỹ chứ không dám tự cho mình giác ngộ. Vì tôi biết, tôi vẫn còn mê muội, tham sân si và chấp ngã. I know known. Tin hay không tin tùy người đọc.

Thiền sư Bạch Ẫn dạy cách thọ trì kinh: Tùy căn cơ chúng sinh mà có những cách thọ trì khác nhau, như người hạ căn thì đọc tụng và tìm hiểu nghĩa lý, người trung căn thì nương theo kinh mà quay về quán tâm mình, còn người thượng căn thì dùng pháp nhãn thấu suốt được kinh, thấy kinh như thấy tâm mình vậy. Nhưng thọ trì đúng nghĩa nhất là buông kinh mà vẫn thấy kinh, không nghe giảng pháp mà vẫn nghe được pháp âm. Ðó chính là kinh vô tự, là chân kinh vậy. Ðiều đó, chỉ đạt được khi dứt mọi suy luận, ngưng mọi tìm kiếm và nhận ra Chân Liên Hoa của mình luôn luôn hiện tiền. (Bạch Ẩn Huệ Hạc, cuộc đời, ngữ lục, thư pháp, họa phẩm, Ngọc Bảo trích)

Tôi xin góp thêm ý kiến, tụng kinh như con vẹt có thể làm cho ta an lạc trong lúc tụng nhưng không có thể phát sinh trí tuệ Phật nếu không được chân sư giảng giải ý kinh. Nương theo kinh mà quay về quán tâm mình thì có thể đọc Kinh Pháp Đàn hay Tâm Kinh thích hợp hơn. Dùng pháp nhãn (con mắt thứ ba chứ chưa được là Phật Nhãn) thấu suốt được kinh, thấy kinh như thấy tâm mình vậy. Tâm Kinh dạy rồi, đó là Minh Tâm Kiến Tánh (Phật gọi là Tâm, Bồ Tát gọi là Tánh.)

Nếu dùng được Phật Nhãn để thọ trì kinh thì đã đạt được cứu cánh Tri Kiến Phật rồi cần gì sở trụ vào phương tiện của kinh nửa. Cho nên, đọc mà không đọc, thấy mà không thấy chữ, quán âm mà không nghe, sờ kinh mà không biết, ngửi được mùi thơm của hoa sen mà không ngửi. Nếu làm được ‘như vậy’ thì sẻ có được Huệ. Chỉ có bật Bồ Tát có Lục Thần Thông mới ngộ được chân lý này, thọ kinh để thành Phật. Phàm phu như chúng ta chưa đủ trình độ để thực hành nổi.

Tuy nhiên ‘to be fair even life is not fair,’ đời không bao giờ được như ta mong muốn. Những người bị Phật gán cho là thượng mạn tăng này không được các đệ tử Phật chạy theo phỏng vấn là tại sao họ ùn ùn bỏ đi như vậy? Đạo Phật rất là dân chủ, tự do củng như lời Phật dạy trong kinh Kalama rằng, "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành."

Thí dụ kinh dạy rằng: Đức Thế Tôn tự xưng là đấng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Thế mà khi có vị Tỳ kheo từ phương xa đến thì Phật thường hỏi thăm rằng: “Trụ có an lạc không? Hay là Khất thực có được không?” Trong đám Tỳ kheo có người liền đặt câu vấn nạn rằng: “ Nếu Phật là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác thì việc gì chẳng biết, thế mà nay lại hỏi người khác, sao lại có chuyện trái ngược như vậy?” Phật mới trả lời rằng: “Sở dĩ ta hỏi là vì để chinh phục kẻ đến khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát Bồ Đề Tâm. Làm thế để mọi người thấy rằng Phật biết mà còn hỏi, huống hồ những người khác chẳng biết.” Do đó, đối với Phật thấy người đến phát tâm thì dẫn nhiếp, thăm hỏi chớ chẳng phải là Phật chẳng biết. Vì thế Như Lai đối với những lời vấn nạn này vì có chánh kiến nên không nao núng, được an lạc trụ. Dù gặp vấn nạn, đối phó với những kẻ dị tâm mà Như Lai vẫn thanh thản, tự tại và không hề hoảng sợ, thật xứng đáng với vô sở úy.

Cho nên nếu tôi là họ vì chưa hiểu chân lý, không đem lại sự ‘lợi ích không vị kỹ’ gì cho mình và cho người, hay không đồng ý với nhửng gì Phật nói thì thay vì đối chất, thưa thốt hay dựa cột mà nghe, tôi củng có thể làm như họ. Tôi đả tuân theo lời Phật dạy ở trên, không vội tin, lễ phép, lịch sự bỏ đi. Cho nên gọi họ là thượng mạn tăng củng hơi oan cho họ. Họ im lặng bỏ đi chứ chưa bao giờ nói một câu, viết một chữ phản đối, hay chỉ trích Phật. Hơn nửa, 5000 thượng mạn nhân này bỏ đi, điều này không có nghĩa là họ chưa bao giờ thấm nhuần mưa móc của Phật Pháp trước đó. Họ biết an phận, đạt được tới đó là ân huệ lắm rồi, không cao vọng hơn nữa để thành Phật. Nhưng họ không biết, “nếu họ có thể đạt được cái đó, thời họ có thể mất đi cái đó. Nếu họ là cái đó, thời cái đó sẽ không bao giờ mất cả.” (Niết Bàn, Nirvana In A Nutshell, Scott Shaw, Barnes & Noble ấn hành năm 2003)

Nhửng điều phỏng đoán này, đối với nhửng kẻ ngu muội như chúng ta không dể gì biết được, chỉ có Phật và họ biết thôi. Cho nên, thượng mạn chưa hẳn là thượng mạn. Ngược lại, cung cúc tận tụy tôn thờ chưa hẳn là đúng với tinh thần trí huệ của Phật Đà. Vì như Prof. Lê Sỹ Minh Tùng viết trong chương thứ I, Phẫm Tựa của Kinh Pháp Hoa Giảng Giải, “Giác là thức tỉnh, là sáng suốt, là có chánh niệm. Mê là ai nói gì cũng nghe, cũng tin, không dám bát bỏ, sợ tội. Do đó khi nghe bộ kinh nào không phù hợp với chân lý, không đem lại sự lợi ích gì cho mình và cho người, cho dù kinh có để tên ông Phật hay Bồ Tát nào thì cũng cần phải xét lại mà không hề có tội lỗi gì hết. Tại sao? Bởi vì chính đức Phật không viết kinh nào cả mà mãi đến gần 500 năm sai khi Ngài nhập diệt kinh điển mới bắt đầu được ghi chép lại...Tôn chỉ của đạo Phật là ‘Duy tuệ thị nghiệp’ nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, làm nền tảng cho cuộc sống để sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. Đây là tinh thần khách quan bình đẳng, dân chủ nhân bản của nhà Phật, khác hẳn với giáo điều chủ nghĩa của những tôn giáo khác nghĩa là thấy sai mà không được phép cải lại.” Tuy nhiên, đối với những Tỳ Kheo hay Phật Tử ác tính, Phật dạy nên dùng Phạm Đàn mà trị bởi vì Phạm Đàn lẳng lặng, không cần chửi rủa, cứ lẳng lặng đuổi họ đi. Nói cách khác nên tránh xa họ và lấy sự sự yên lặng đối đãi với họ. Từ sự lạnh nhạt đó khiến lòng họ hổ thẹn, hồi tâm trở về với chánh đạo. Nhưng như đả nói ở trên, nếu họ không cải tà quy chánh thì củng tốt, tăng đoàn khỏi phải thanh lý môn hộ. Phật Giáo cần tinh chứ không cần đa (số đông.) Những thượng mạn tăng bỏ Phật Giáo mà đi chỉ làm trong sạch hơn cho Phật Giáo chứ không hại cho chánh pháp.

Prof. Lê Sỹ Minh Tùng viết, “Đệ tử Phật có hai hàng Pháp khí: Chân là các Tôn giả Xá Lợi Phất, Anan,…và Giả là ám chỉ hạng Tăng tượng mạn. Đối với hạng Chân Pháp khí, tâm thánh đã đầy đủ, thích nghe diệu pháp nên tuy nghe Phật nói “Thôi đi! Không cần nói nữa” khiến họ nài xin vì họ nghĩ rằng Phật không cần nói nữa là Phật không muốn nói những pháp nào? Ngược lại, đối với hạng Giả pháp khí thì họ tự cho mình là tâm thánh đã đầy đủ, nhưng vẫn ngồi đó chưa đi đến khi nghe Phật bảo “Thôi đi! Không cần nói nữa” khiến họ đứng lên bỏ đi. Tại sao họ lại bỏ đi? Bởi vì họ nghĩ rằng tất cả các pháp giải thoát họ đều chứng được cả rồi cho nên chẳng còn pháp gì quan trọng để nghe Phật nói cả. Thập Như Thị là tinh hoa, là giáo lý rất thâm sâu của kinh Pháp Hoa bởi vì chỉ có Phật với Phật mới có khả năng thấy biết cùng tận thật tướng của các pháp.” Dù họ có ở lại củng không hiểu nổi. Vì cả ‘Chân’ còn không hiểu tới, phải nài nỉ Phật giải thích thêm chi tiếc. Vậy thì, ‘Giả’ làm sao ngộ được? Nên, ‘Giả’ giã từ là tốt nhất.


    1. tải về 0.65 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương