ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiêN


Xác định giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của phương pháp



tải về 1.38 Mb.
trang11/14
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích1.38 Mb.
#2030
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

3.2.5. Xác định giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của phương pháp:

Để xác định MDL của các PBDEs đối với mẫu nhựa, chúng tôi chuẩn bị 02 nền mẫu giả, một mẫu được thêm chất chuẩn đánh dấu đồng vị ở mức tương ứng với 2 lần MDL ước tính (20 ng đối với BDE 209L và 2 ng cho các chất còn lại), mẫu còn lại được thêm chất chuẩn đánh dấu đồng vị ở mức tương ứng với 5 lần MDL ước tính (50 ng đối với BDE 209L và 5 ng cho các chất còn lại), rồi tiến hành phân tích theo qui trình trong Hình 6. Dựa vào tỉ số tín hiệu trên nhiễu của các pic trên 2 sắc đồ thu được sẽ tính toán được giá trị MDL trung bình cho từng chất (3 lần tỉ số S/N).

Để xác định MDL của các PBDEs đối với mẫu bụi, chúng tôi tiến hành tương tự như đối với mẫu nhựa, với 2 mức thêm chất chuẩn đánh dấu đồng vị tương ứng với 2 lần MDL ước tính và 5 lần MDL ước tính, rồi phân tích theo qui trình trong Hình 8. Cách tính toán MDL tương tự như đối với mẫu nhựa.

Giá trị MDL và MQL của các PBDEs đối với mẫu nhựa và mẫu bụi được đưa ra trong Bảng 3.11.



Bảng 3.11. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của phương pháp đối với các PBDEs cho mẫu nhựa và mẫu bụi

TT

Chất

Mẫu nhựa

Mẫu bụi

MDL (ng/g)

MQL (ng/g)

MDL (ng/g)

MQL (ng/g)

1

BDE 28

0,19

0,63

0,29

0,97

2

BDE 47

0,11

0,37

0,15

0,50

3

BDE 100

0,28

0,93

0,41

1,37

4

BDE 99

0,47

1,57

0,60

2,00

5

BDE 154

0,64

2,13

0,62

2,07

6

BDE 153

0,61

2,03

0,90

3,00

7

BDE 183

0,84

2,80

1,13

3,77

8

BDE 209

5,39

17,97

6,60

22,00

MDL của các chỉ tiêu PBDEs đối với mẫu nhựa nằm trong khoảng 0,11 đến 5,39 ng/g (MQL tương ứng nằm trong khoảng 0,37 đến 17,97 ng/g). MDL của các chỉ tiêu PBDEs đối với mẫu bụi nằm trong khoảng 0,15 đến 6,60 ng/g (MQL tương ứng nằm trong khoảng 0,50 đến 22,00 ng/g). Các giới hạn này cho thấy phương pháp phân tích hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phân tích lượng vết PBDEs trong nền mẫu phức tạp.

3.3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU:

3.3.1. Kết quả phân tích hàm lượng PBDEs trong mẫu nhựa:

Hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs và hàm lượng tổng PBDEs trong 06 mẫu nhựa chúng tôi thu thập được và phân tích theo qui trình trong Hình 3.3 được đưa ra trong Bảng 3.12. Các chỉ tiêu không phát hiện được trong mẫu (kí hiệu < MDL, tức là dưới giới hạn phát hiện của phương pháp) được tính nồng độ bằng ½ MDL của chất đó.



Bảng 3.12. Kết quả phân tích hàm lượng PBDEs trong mẫu nhựa (ng/g)

TT

Chất

Hàm lượng PBDEs (ng/g)

HY-N1

HY-N2

TK-N3

TK-N4

HA-N5

HA-N6

1

BDE 28

< MDL

83

< MDL

< MDL

< MDL

< MDL

2

BDE 47

0,41

< MDL

< MDL

4,52

< MDL

< MDL

3

BDE 100

0,62

< MDL

< MDL

< MDL

< MDL

< MDL

4

BDE 99

3,02

522

206

103

15,3

19,7

5

BDE 154

2,54

48

< MDL

1,23

< MDL

< MDL

6

BDE 153

12

493

4,68

4,08

1,92

2,51

7

BDE 183

80

2939

28,6

48,7

< MDL

< MDL

8

BDE 209

19133

93212

1493

55627

< MDL

32,8

Tổng PBDEs

19230

97300

1730

55790

20

60

Tất cả các chỉ tiêu PBDEs đều phát hiện được trong các mẫu nhựa phân tích. Các chỉ tiêu BDE 28, BDE 100 chỉ phát hiện được trong 01 mẫu; chỉ tiêu BDE 47 phát hiện được trong 02 mẫu; chỉ tiêu BDE 154 phát hiện được trong 03 mẫu; chỉ tiêu BDE 183 phát hiện được trong 04 mẫu; chỉ tiêu BDE 209 phát hiện được trong 05 mẫu; các chỉ tiêu BDE 99 và BDE 153 phát hiện được trong tất cả 06 mẫu.

Hàm lượng tổng PBDEs trong các mẫu nhựa phân bố trong một khoảng rộng, từ 20 ng/g đến 55790 ng/g. Hàm lượng PBDEs có sự khác biệt rõ rệt giữa 2 loại mẫu nhựa là mẫu nhựa thành phẩm (được tách từ các bộ phận nhựa của thiết bị điện, điện tử thải bỏ) và mẫu nhựa nguyên sinh. Hàm lượng tổng PBDEs trung bình trong 04 mẫu nhựa thành phẩm là 43500 ng/g, cao gấp hơn 1000 lần so với hàm lượng PBDEs trung bình trong 02 mẫu nhựa nguyên sinh là 40 ng/g.

Như vậy, sơ bộ có thể nhận xét PBDEs thường không được bổ sung vào vật liệu nhựa ngay trong hạt nhựa nguyên sinh, chúng có mặt trong nhựa thành phẩm ở công đoạn nấu chảy hạt nhựa nguyên sinh để tạo hình sản phẩm. Hàm lượng PBDEs trong mẫu nhựa thành phẩm tương đối cao, mẫu nhựa lấy từ quạt gió tản nhiệt của máy tính cá nhân có hàm lượng PBDEs cao nhất (xấp xỉ 0,1 ppm). Tuy nhiên nếu so sánh với hàm lượng tối đa cho phép của PBDEs trong sản phẩm nhựa theo qui định của chỉ thị RoSH là 1000 ppm thì hàm lượng PBDEs trong các mẫu nhựa chúng tôi phân tích đều thấp hơn nhiều lần so với giới hạn cho phép.

Tỉ lệ phần trăm về hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs so với hàm lượng PBDEs tổng của các mẫu nhựa được thể hiện trong Hình 3.6.





Hình 3.6. Tỉ lệ phần trăm về hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs so với hàm lượng PBDEs tổng của các mẫu nhựa

Đồng loại PBDEs chủ yếu phát hiện được trong các mẫu nhựa thành phẩm là BDE 209, tỉ lệ của đồng loại này có giá trị từ 86,2% đến 99,7% hàm lượng PBDEs tổng; tiếp đó là một số đồng loại như BDE 183, BDE 99; các đồng loại còn lại chiếm tỉ lệ rất thấp. Tỉ lệ cao của BDE 209 trong mẫu nhựa thành phẩm phân tích được hoàn toàn phù hợp với lượng DecaBDEs thương mại được sử dụng trên thị trường, theo thống kê năm 2001 thì có đến 93,3% lượng PBDEs thương mại được tiêu thụ tại châu Á là DecaBDEs. Đối với các mẫu nhựa nguyên sinh thì các đồng loại chiếm tỉ lệ cao nhất là BDE 99, BDE 209, BDE 153, BDE 183; trong mẫu nhựa EPS (HA-N5) tỉ lệ BDE 99 lên đến 72,9%.

Kết quả phân tích hàm lượng PBDEs trong mẫu nhựa được so sánh với 03 nghiên cứu tương tự được thực hiện tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhóm tác giả Y.-J.Kim và cộng sự (2006) đã phân tích hàm lượng PBDEs trong nhựa HIPS và vỏ tivi được sản xuất từ năm 1992 đến 1996 [18]; nhóm tác giả N.Kajiwara và cộng sự (2011) đã tiến hành khảo sát hàm lượng các chất chống cháy trong đó có PBDEs trong các sản phẩm trên thị trường Nhật Bản năm 2008 [14] và nhóm tác giả J.-E.Park và cộng sự (2014) đã phân tích hàm lượng PBDEs trong nhựa của tivi (được sản xuất từ những năm 1980 đến giữa những năm 2005) và tủ lạnh (sản xuất năm 2002) [24]. Do hàm lượng PBDEs trong các loại sản phẩm khác nhau và thời điểm sản xuất khác nhau có giá trị rất phân tán nên sự so sánh được thể hiện trên Hình 3.7 dưới đây là logarit cơ số 10 của giá trị hàm lượng, với giá trị hàm lượng PBDEs tổng được chú thích ngay trên hình. Giá trị tổng hàm lượng PBDEs được so sánh với giá trị 1000000 ng/g theo chỉ thị RoSH.




Hình 3.7. So sánh hàm lượng PBDEs tổng trong mẫu nhựa của luận văn với một số nghiên cứu tương tự tại Nhật Bản và Hàn Quốc

Như vậy, các mẫu nhựa chúng tôi thu thập được có hàm lượng PBDEs tổng đều thấp hơn so với mức hàm lượng tối đa cho phép từ 10 đến 50000 lần. Mức hàm lượng PBDEs trong mẫu nhựa của luận văn này tương đương với nhựa trong các sản phẩm trên thị trường Nhật Bản năm 2008 như máy tính cá nhân, tivi, nồi cơm điện, thiết bị điện, giấy dán tường, rèm; đây là thời điểm mà chỉ thị RoSH đã chính thức có hiệu lực được 2 năm (từ năm 2006) [14]. Đối với các sản phẩm được sản xuất từ trước năm 2000, đặc biệt là trong vỏ tivi hay một số loại nhựa polistiren chịu va đập (HIPS) được bổ sung PBDEs ở mức hàm lượng cao hơn so với ngưỡng cho phép từ 14 đến 145 lần [18,24]. Tính đến thời điểm năm 2014 thì chỉ thị RoSH, tuy là qui định của các nước châu Âu, vẫn là căn cứ quan trọng cho các quốc gia khác trên thế giới kiểm soát chất lượng sản phẩm điện, điện tử có chứa các chất độc hại, trong đó có PBDEs.



3.3.2. Kết quả phân tích hàm lượng PBDEs trong mẫu bụi:

Hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs và hàm lượng tổng PBDEs trong 04 mẫu bụi (tính theo ng/g mẫu khô) chúng tôi thu thập được và phân tích theo qui trình trong Hình 3.5 được đưa ra trong Bảng 3.13.



Bảng 3.13. Kết quả phân tích hàm lượng PBDEs trong mẫu bụi (ng/g)

TT

Chất

Hàm lượng PBDEs (ng/g)

HY-B1

HY-B2

TK-B3

TK-B4

1

BDE 28

161

318

21,6

49,0

2

BDE 47

1060

2100

248

306

3

BDE 100

13,6

27,0

2,58

4,24

4

BDE 99

1490

2900

277

482

5

BDE 154

47,5

94,0

11,1

15,5

6

BDE 153

271

536

44,2

80,0

7

BDE 183

164

324

20,6

49,0

8

BDE 209

1190

2350

423

127

Tổng PBDEs

4400

8650

1050

1110

Trong 04 mẫu bụi được phân tích đều phát hiện thấy tất cả các chỉ tiêu PBDEs. Hàm lượng PBDEs tổng trong các mẫu bụi nằm trong khoảng 1050 ng/g đến 8650 ng/g. Hàm lượng PBDEs tổng trong 02 mẫu bụi thu thập tại Hưng Yên có giá trị trung bình 6520 ng/g, cao gấp gần 4 lần so với hàm lượng PBDEs tổng trong 02 mẫu bụi lấy tại Triều Khúc (trung bình 1080 ng/g).

Mức độ tích lũy PBDEs trong bụi trong nhà lấy tại các khu tái chế rác thải điện, điện tử phụ thuộc vào các yếu tố như: nguyên liệu đầu vào (nguồn gốc, xuất xứ, thời gian sản xuất), qui mô sản xuất (lượng nguyên liệu đầu vào và sản lượng nhựa tái chế được trên một đơn vị thời gian), khoảng thời gian hoạt động (đã hoạt động được bao nhiêu năm, một năm hoạt động trong bao nhiêu tháng), qui mô và kết cấu nhà xưởng (diện tích mặt sàn, làm bằng vật liệu gì, mức độ thoáng gió) và một yếu tố quan trọng nữa là công nghệ sản xuất (qui trình tái chế nhựa, nhiệt độ của các công đoạn, có hệ thống xử lí khí thải không, xử lí chất thải rắn và nước thải của quá trình sản xuất như thế nào).

Các khu tái chế rác thải điện, điện tử ở một số tỉnh miền Bắc nước ta như Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên có một số đặc điểm chung như: (1) hình thành và hoạt động tự phát với qui mô hộ gia đình chủ yếu bắt đầu hoạt động từ những năm 1990 trở lại đây, tập họp thành những làng nghề gồm từ vài chục đến vài trăm cơ sở sản xuất; (2) nguồn nguyên liệu đầu vào là các thiết bị điện, điện tử đã qua sử dụng và bị thải bỏ được thu thập từ khắp các tỉnh miền Bắc, nguyên liệu đầu vào không được phân loại trước khi tái chế; (3) nguyên liệu đầu vào được bóc tách và chia làm 03 nhóm vật liệu là nhựa, kim loại và thủy tinh, trong đó nhựa và kim loại được tái chế còn thủy tinh thường bị thải bỏ; (4) qui trình tái chế nhựa gồm các bước cơ bản như cắt nhỏ, rửa, làm khô, nấu chảy, thêm phụ gia, ép khuôn để tạo hình sản phẩm; (5) nhà xưởng chủ yếu được làm bằng khung sắt, lợp tôn, diện tích sàn không quá 100 m2, được dựng ngay trong sân nhà và rất gần với khu sinh hoạt; (6) không đầu tư cho công nghệ xử lí các nguồn thải.

Hàm lượng PBDEs trong bụi lấy tại khu tái chế rác ở Hưng Yên cao hơn đáng kể so với làng nghề tái chế ở Triều Khúc có thể được giải thích trên một số cơ sở như: (1) về thời gian hoạt động, 02 cơ sở tại Hưng Yên bắt đầu đi vào hoạt động từ những năm 1993 – 1994, sớm hơn gần 10 năm so với 02 cơ sở tại Triều Khúc (bắt đầu hoạt động năm 2000 và 2002); (2) về qui mô sản xuất, số cơ sở sản xuất, lượng nguyên liệu đầu vào và sản lượng của làng nghề ở Hưng Yên đều lớn hơn so với Triều Khúc; (3) nhà xưởng tại Hưng Yên thường kín hơn, với chỉ một cửa ra vào và không có hoặc rất ít cửa sổ, trong khi nhà xưởng tại Triều Khúc lại chỉ có khung thép và lợp tôn, xung quanh che chắn rất sơ sài. Mẫu bụi có hàm lượng PBDEs cao nhất là mẫu được lấy trong một kho chứa để tập kết rác thải trước khi tái chế và thường xuyên đóng kín.

PBDEs có mặt trong các đối tượng môi trường tại các khu tái chế rác thải điện, điện tử có thể theo những con đường như: (1) sự bay hơi của PBDEs trong quá trình lưu trữ, bóc tách để phân loại, cắt nhỏ và đặc biệt là công đoạn nấu chảy nhựa, PBDEs bay hơi sẽ tồn tại trong không khí, từ đó sẽ hấp phụ lên bụi, rồi sẽ đi vào cơ thể con người tiếp xúc với không khí và bụi; (2) sự hòa tan vào nước thải trong công đoạn rửa nguyên liệu đầu vào và rửa sản phẩm tái chế, PBDEs bị hòa tan sẽ theo nước thải chảy ra nguồn nước mặt, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, trầm tích; (3) xỉ của các mẻ nấu nhựa nếu chôn lấp không đúng cách sẽ dẫn đến hiện tượng thôi nhiễm ra đất rồi trầm tích; nếu thiêu đốt xỉ này có thể sinh ra các hợp chất độc hại hơn như PBDDs hay PBDFs. Trong luận văn này, chúng tôi quan tâm đến sự ô nhiễm PBDEs trong mẫu bụi thì con đường phát thải chủ yếu là sự bay hơi của các chất này trong các công đoạn của qui trình tái chế vào môi trường không khí và sự hấp phụ vào bụi trong nhà.

Tỉ lệ phần trăm về hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs so với hàm lượng PBDEs tổng của các mẫu bụi được thể hiện trong Hình 3.8.





Hình 3.8. Tỉ lệ phần trăm về hàm lượng của từng chỉ tiêu PBDEs so với hàm lượng PBDEs tổng của các mẫu bụi

Nếu như tỉ lệ phần trăm về hàm lượng các chỉ tiêu PBDEs so với hàm lượng PBDEs tổng trong mẫu nhựa phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm sản xuất và tiêu thụ PBDEs thì tỉ lệ này trong mẫu bụi còn phụ thuộc vào phương thức tồn tại và chuyển hóa trong môi trường của PBDEs. Theo Hình 11, BDE 209 vẫn là đồng loại có tỉ lệ cao và phát hiện được trong tất cả các mẫu, tỉ lệ BDE 209 trong các mẫu bụi nằm trong khoảng 11,4% đến 40,3%; mặc dù tỉ lệ này trong mẫu nhựa là trên 95% nhưng BDE 209 là đồng loại có phân tử khối lớn nhất, nhiệt độ bay hơi cao, áp suất bay hơi thấp nên nhìn khó bay hơi hơn so với các đồng loại khác; tuy nhiên do phân tử khối lớn nhất nên khả năng hấp phụ lên hạt bụi của đồng loại này khá mạnh. Tỉ lệ của các đồng loại nhẹ (từ Tri đến PentaBDEs) chiếm từ 52,3% đến 75,8%; trong đó 2 đồng loại chủ yếu là BDE 47 và BDE 99 được phát hiện trong mẫu bụi cho thấy các đồng loại nhẹ dễ dàng bay hơi vào không khí trong quá trình tái chế rồi sau đó hấp phụ trên bụi và tích lũy theo thời gian trong môi trường bụi. Tỉ lệ cao của các đồng loại nhẹ trong mẫu bụi là một vấn đề cần phải lưu ý vì các đồng loại này có độc tính cao hơn so với các đồng loại nặng, đặc biệt là 2 đồng loại BDE 47 và BDE 99 nói trên được cho là 2 đồng loại có độc tính cao nhất, có tác động tiêu cực quan sát được trên cơ thể sinh vật như tác nhân gây ung thư, ảnh hưởng đến sự sinh sản và phát triển, ảnh hưởng đến hệ miễn dịch.



Hàm lượng PBDEs trong mẫu bụi trong luận văn này được so sánh với các nghiên cứu tương tự được thực hiện tại nhiều quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới như Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Australia, Anh, Đức, Mỹ và Canada; đặc biệt là nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm tác giả Nguyễn Minh Tuệ và cộng sự (2013) đã khảo sát một số khu tái chế rác thải điện, điện tử tại Bùi Dâu (Hưng Yên) và Tràng Minh (Hải Phòng) [31]. Giá trị hàm lượng (trung bình hoặc trung vị) và khoảng hàm lượng PBDEs tổng trong mẫu bụi (ng/g) của một số nghiên cứu được đưa ra trong Bảng 3.14.

Bảng 3.14. Hàm lượng PBDEs trong mẫu bụi trong nhà của một số nghiên cứu khác

Địa điểm (số mẫu n)

Hàm lượng trung bình (ng/g)

Khoảng hàm lượng (ng/g)

Đặc điểm

TL

Anh (n=16)

45000

360 – 520000

Bụi trong nhà, thu thập năm 2006.

[11]

Thái Lan (n=25)

43000

320 – 290000

Bụi trong kho chứa máy tính, máy in, tivi, quạt, lò vi sóng, máy giặt, thu thập từ năm 2007 đến 2008.

[23]

Mỹ (n=17)

3000

310 – 14000

Bụi trong nhà, thu thập năm 2006.

[11]

Singapore (n=31)

2900

110 – 13000

Bụi trong nhà, bám trên bộ lọc của điều hòa và trên quạt.

[29]

Hàn Quốc (n=46)

2550

80 – 17200

Bụi trong phòng ngủ và phòng khách, thu thập năm 2007.

[21]

Canada (n=7)

1400

750 – 3500

Bụi trong nhà, thu thập năm 2006.

[11]

Australia (n=30)

571

60 – 82400

Bụi trong nhà, thu thập từ năm 2009 đến 2011.

[28]

Đức (n=20)

518

10 – 3748

Bụi trong nhà ở khu vực ngoại ô và nông thôn.

[10]

Việt Nam

Bùi Dâu (n=10)

1600

130 – 12000

Bụi lấy tại khu tái chế nhựa từ rác thải điện, điện tử, thu thập năm 2008.

[31]

Tràng Minh (n=10)

450

140 – 1900

Hà Nội, đô thị (n=6)

230

40 – 270

Bụi trong nhà bám trên bề mặt của đồ nội thất và cánh quạt trong phòng khách, được lấy tại khu vực so sánh.

Hà Nội, ngoại ô (n=7)

120

38 – 610

Theo Bảng số liệu trên, mức độ ô nhiễm PBDEs trong môi trường bụi tại Anh ở mức rất cao (với giá trị trung bình của hàm lượng PBDEs tổng là 45000 ng/g, mẫu có hàm lượng PBDEs cao nhất lên đến 520000 ng/g); mức hàm lượng trong mẫu bụi tại Anh có giá trị tương đương với mẫu bụi trong các kho chứa đồ điện, điện tử tại Thái Lan (trung bình 43000 ng/g). Hàm lượng PBDEs trong bụi lấy tại Mỹ, Singapore, Hàn Quốc và Canada ở mức thấp hơn (từ 1400 đến 3000 ng/g). Còn mẫu bụi trong nhà lấy tại Đức và Australia có hàm lượng PBDEs ở mức thấp nhất (khoảng 500 ng/g). Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Tuệ và cộng sự (2013) thì hàm lượng PBDEs trong bụi tại khu vực so sánh là Hà Nội và khu tái chế ở Tràng Minh ở mức thấp còn khu tái chế ở Bùi Dâu có hàm lượng ở mức trung bình; tại khu vực so sánh là Hà Nội thì hàm lượng PBDEs trong bụi tại khu vực đô thị cao gấp gần 2 lần khu vực ngoại ô.

Hàm lượng PBDEs trong các mẫu bụi chúng tôi thu thập được tại Bùi Dâu và Triều Khúc nếu so sánh với số liệu trong các nghiên cứu khác thì có giá trị ở mức trung bình, tuy cao hơn hàm lượng so với khu vực so sánh là Hà Nội từ 6 đến 37 lần nhưng vẫn thấp hơn hẳn so với các mức độ ô nhiễm tại Anh và Thái Lan. Một hạn chế trong việc đánh giá mức hàm lượng PBDEs trong bụi là hiện tại chưa có bất kì một tiêu chuẩn hoặc qui chuẩn nào qui định về ngưỡng hàm lượng PBDEs trong bụi. Việc so sánh hàm lượng PBDEs trong luận văn này với các nghiên cứu tương tự cũng chỉ đưa ra những nhận xét sơ bộ, ban đầu về mức độ ô nhiễm PBDEs trong môi trường bụi tại Việt Nam, tuy nhiên với số lượng mẫu phân tích còn rất hạn chế (mỗi địa điểm có số mẫu n=2) thì chúng tôi chưa thể đưa ra những bàn luận sâu sắc được.



Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương