quyền hạn trong xã hội (I.X.Kôn)
(4)
. Theo quan điểm này, tính tích cực cá nhân còn có phần bị hạn
chế, con người mới chỉ tiếp thu các kinh nghiệm xã hội.
Quan điểm thứ ba: Xã hội hoá là quá trình phát triển của con người trong mối quan hệ qua lại
với thế giới xung quanh (A.V. Mudrik)
(5)
. Theo quan điểm này, con người không chỉ có khả năng tiếp
nhận thế giới một cách thụ động mà còn cải tạo nó.
Cả ba quan điểm trên đều có một điểm chung: Con người có quan hệ qua lại với cuộc sống xã
hội và kết quả của quan hệ đó là xã hội loài người được hình thành.
Có thể xem xét ba quan điểm trên như các giai đoạn nhất định trong quá trình xã hội hoá - từ
thích nghi (giai đoạn 1) đến sự thay đổi, cải tạo xã hội (giai đoạn 2) và bản thân (giai đoạn 3) ở
trong đó. Tuy nhiên không nên hiểu rằng các giai đoạn phát triển của con người cũng tiến hành một
cách tuần tự. Từ khi đứa trẻ sinh ra, quá trình xã hội hoá cần phải được thực hiện với định hướng tới
giai đoạn ba.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xã hội hóa trẻ em bao gồm các nhân tố của môi trường hẹp và môi
trường rộng.
Môi trường hẹp bao gồm bản thân trẻ, gia đình và trường mầm non với những người lớn, sinh
hoạt của họ và các đồ dùng, đồ chơi.
Môi trường rộng là làng xóm, khối phố, đất nước, hành tinh với phong cảnh thiên nhiên, di tích
lịch sử, những công trình công cộng và đặc biệt là người lớn với những quy tắc sống, những chuẩn
mực hành vi, ứng xử, các phong tục, tập quán và truyền thống văn hoá đặc trưng.
Như vậy, cho trẻ làm quen với môi trường xã hội cần được dựa trên khái niệm về con người và
những kiến thức về quá trình xã hội hoá trẻ em, để từ đó xây dựng nội dung, phương pháp giáo dục
phù hợp, đảm bảo sự phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: