HỘI ĐỒng quý chức quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục



tải về 1.51 Mb.
trang21/22
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.51 Mb.
#16972
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22

5) Bầu cử:
a) Cử tri: Tất cả đàn ông, đàn bà thuộc giáo xứ từ 20 tuổi theo quy luật của Hội Đồng Quí Chức và 18 tuổi theo quy chế của Hội Đồng Giáo Xứ, có quyền bầu cử.
b) Phương thức bầu cử: Có ba hình thức để chọn: bầu cử phổ thông và trực tiếp, bầu cử gián tiếp, chỉ định của cha sở. Qui luật của Hội Đồng Quí Chức và thông lệ ngày trước chọn hình thức thứ nhì và thứ ba (176); Các qui chế của Hội Đồng Giáo Xứ chọn hình thức thứ nhứt và thứ nhì, nhưng dành cho cha sở làm chủ tọa các cuộc bầu cử. Hơn nữa, ngoại trừ quy chế của 2 giáo phận Sài Gòn và Phú Cường, tất cả các nơi khác đều chọn một cách kỹ càng theo hình thức trực tiếp và gián tiếp:
Bầu cử trực tiếp: Tất cả các tín hữu từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử các thành viên của ban điều hành khu vực của mình và các thành viên ban điều hành giáo xứ của mình. Tất cả thành viên của một hội đoàn, của một phong trào hay của một hội thân hữu thì bầu cử những người trách nhiệm cho các tổ chức đó .
Bầu cử gián tiếp: Tất cả thành viên đã được chọn bầu vào các các ban chấp hành và các ban quản trị và tất cả các viên chức đã được chọn vào ban điều hành của các hội thân hữu, các phong trào và các đoàn thể hiệp hội có quyền bầu cử để tuyển chọn các thành viên của ban thường vụ (177).
c) Những người được trúng cử: Tất cả các qui chế đều dành cho cha sở quyền chuẩn nhận kết quả của cuộc bầu cử. Không có sự đồng ý của cha sở thì cuộc bầu cử không có giá trị. Cha sở phải đệ trình lên giám mục bản danh sách của những người vừa mới được trúng cử vào ban thường vụ để được chuẩn phê chung quyết kết quả bầu cử và để cấp phát văn bằng chứng nhận cho mỗi người (178). Quy định này đã ghi trong cuốn Chức Sở Mục Lệ và cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội(179). Sau cùng, lễ ra mắt của các viên chức mới của ban thường vụ phải được tổ chức một cách trọng thể và nhân dịp nầy cha sở chính thức công bố cho giáo dân biết tên tuổi và chức vị của các thành viên mới được bầu cử. Các tân chức lên đứng trước cộng đoàn và cha sở hay đức giám mục (quy chế của Huế), tuyên thệ trung thành với bổn phận của mình, hợp tác chân thật với cha sở và với các thành viên khác của Hội Đồng Giáo Xứ, đem hết khả năng của mình phục vụ cho giáo xứ, cho vinh danh Thiên Chúa và cho phần rỗi các linh hồn. Tất cả các quy chế ngày nay đều chấp nhận nghi lễ ra mắt này (180), còn cuốn Chức Sở Mục Lệ thì chỉ quy định: sau khi cấp phát văn bằng chứng nhận, cha sở, trong buổi lễ ngày chúa nhật tiếp theo, sẽ công bố danh tánh của tân chức cho các tín hữu biết (181).
6) Giá trị đại diện và năng lực
Sau khi đọc các qui chế của Hội Đồng Giáo Xứ, chúng tôi nhận thấy rằng: quả thật, khi chú trọng vào những tư cách cá nhân, năng lực, tài cán và uy tín cộng đoàn, người ta đã không quên tư cách đại diện và cộng đồng tính của cơ chế nầy. Nét khác biệt rõ ràng giữa những thành viên trong Hội Đồng Quí Chức ngày xưa so với các thành viên của Hội Đồng Giáo Xứ ngày nay, là đa số các thành viên trong Hội Đồng Quí Chức đều lớn tuổi, vì thế nhiều người muốn dịch từ 'notable' là "kỳ mục" "kỳ lão", "cao niên". Ngược lại, trong Hội Đồng Giáo Xứ thì những người đại diện trẻ trung, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của họ đạo, bao gồm cả phái nữ. Như vậy, Hội Đồng Giáo Xứ là một tổ chức đại diện trung thực cho cả một cộng đồng. Và cũng chính là nhờ hình thức bầu cử khiến cho 'tính cách đại diện' được bảo đảm. Hơn thế nữa, trên nhiều môi trường hoạt động tông đồ của giáo dân hôm nay thì tính cách đại diện cho cộng đồng bảo đảm với chúng ta về năng lực của mỗi thành viên và của cả Hội Đồng Giáo Xứ.
Chúng ta không thể chối bỏ thiện chí, nhiệt tình và đức độ của các quí chức già nua, tuy nhiên những nhận định của chúng ta cũng không khác với những điều đức tổng giám mục Philippe Nguyễn Kim Điền đã viết sau đây: "Ngày nay, Hội Đồng Quí Chức không đáp ứng được các nhu cầu của thời đại" (182). Một trong những lý do chính yếu là vì hội đồng nầy thiếu năng lực trong nhiều lãnh vực hoạt động của sứ vụ tông đồ: "Họ là những người đức hạnh, có uy tín, nhiệt thành nhưng bao nhiêu đó không đáp ứng đủ cho các nhu cầu và những vấn đề của giáo phận và của xã hội; quan điểm và nhận thức của họ quá khác biệt với những quan điểm và nhận thức của những giáo dân trẻ trung và của trào lưu tiến bộ hiện nay trên thế giới. Hậu quả là, những hoạt động của họ trở thành vô hiệu quả và họ trở thành vô năng lực trong khi thi hành chức vụ của mình. Tình trạng càng trở nên xấu thêm nếu cha sở quan niệm rằng Hội Đồng Quí Chức chỉ là một công cụ thừa hành và là chỗ 'ký gởi' quyền uy của mình".
Chúng tôi còn muốn thêm rằng: Hội Đồng Giáo Xứ được tạo phác bởi các qui chế là khí cụ tông đồ được tổ chức vừa rất hoàn mỹ, vừa rất chuyên biệt, trong khi Hội Đồng Quí Chức chỉ phản ảnh một phương pháp được cơ cấu hóa. Theo Công Đồng Vatican, người ta phải đề xuất những phương cách mục vụ thích hợp để yểm trợ đời sống tinh thần và giải quyết những vấn đề thúc bách của mọi tầng lớp tín hữu (183), người ta phải tạo dựng công trình hoạt động tông đồ tùy theo những môi trường cần phải đạt tới (184).
7) Những kỳ hội họp.
Trong những văn bản cũ viết về Hội Đồng Quí Chức không thấy nói tới các phiên họp định kỳ ngoại trừ những ngày mà thành viên thủ quỹ đệ trình sổ chi thu cho cha sở và các quí chức(185). Như thế có nghĩa là các quí chức chỉ được mời đi hội khi nào trong họ đạo có việc cần thiết. Ngược lại, tất cả các qui chế của Hội Đồng Giáo Xứ đều xác định rõ ràng những ngày tháng cho những kỳ hội họp khác nhau. Những kỳ hội họp này được phân ra thành 3 loại khác nhau: hội thường lệ, hội bất thường và đại hội. Những buổi hội thường lệ của ban thường vụ và của những ban điều hành đặc biệt khác được quy định vào mỗi tháng hoặc mỗi hai tháng một lần (185). Kỳ hội đặc biệt hay hội bất thường, được tổ chức khi nào giáo xứ có nhu cầu đặc biệt (186); đại hội (còn gọi là đại hội thường niên) sẽ được tổ chức vào ngày lễ Quan Thầy của giáo xứ (187).
Chỉ riêng quy chế của giáo phận Huế trình bày chương trình tổng quát cho các buổi hội họp: buổi họp gồm 3 phần: trước tiên, học hỏi về một đề tài do một thuyết trình viên hướng dẫn; kế đến, bá cáo tình hình của giáo xứ hoặc của mỗi lãnh vực hoạt động, sau cùng, thảo luận về những đề nghị và thiết lập các phương án mới v.v… (188)
Thời gian của mỗi kỳ nhóm họp thường lệ hay đặc biệt sẽ là một giờ ba mươi phút theo qui chế của giáo phận Sài Gòn và Phú Cường (189). Không thấy đề cập đến giờ giấc cho các kỳ nhóm họp trong các qui chế của các giáo phận khác.
8) Giá trị của những quyết định từ những kỳ hội họp
Cha sở (cha xứ) là người trước hết chịu trách nhiệm về sự tiến triển tốt đẹp của họ đạo được trao phó cho ngài. Vì thế trước kia, Hội Đồng Quí Chức luôn luôn hoạt động dưới quyền điều khiển của cha sở và phải vâng theo chỉ thị của ngài. Điều nầy rõ ràng trong các văn kiện cũ (190). Khi nói về Hội Đồng Mục Vụ (và những hội đồng tương tự). Tự sắc về 'Giáo Hội' tuyên bố rằng 'hội đồng nầy chỉ có tiếng nói tư vấn' (191). Tất cả các qui chế của Hội Đồng Giáo Xứ đều công nhận một cách minh nhiên qui định nầy: Tất cả các quyết định của Hội Đồng Giáo Xứ trong ba hình thức hội họp nói trên, chỉ có giá trị khi được cha sở chấp nhận (192). Ngoài ra, qui chế của giáo phận Long Xuyên còn tuyên bố thêm rằng: cha sở hay cha phụ tá của ngài mới có quyền chủ tọa các buổi hội thường lệ hay đặc biệt và buổi đại hội thường niên của Hội Đồng Giáo Xứ (193).
Theo thiển ý của chúng tôi, việc xem Hội Đồng Giáo Xứ như một cơ cấu chỉ có quyền tư vấn, là phù hợp với bản chất phẩm trật trong Giáo Hội và trong cộng đoàn giáo xứ. Thật vậy, các cha sở là những người cộng tác của giám mục. Các ngài là những chủ chăn đúng nghĩa được trao phó việc chăm sóc các linh hồn trong một phần đất nhất định của giáo phận, dưới quyền của giám mục (194). Vì là chủ chăn, các ngài cũng có những trách nhiệm riêng đối với giáo xứ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các cha sở có thể quyết định ngược lại hay coi thường những nguyện vọng (recommandations) của cộng đoàn đã được biểu quyết bởi đa số phiếu của Hội Đồng Giáo Xứ. Với tư cách là người lãnh đạo cộng đoàn, cha sở chủ trì Hội Đồng Giáo Xứ, nhưng chủ trì không có nghĩa là ban ra những quyết định độc đoán không có sự đồng thuận với các thành viên của Hội Đồng Giáo Xứ. Vì thế, ngoại trừ những quyết định có tính cách trái ngược rõ ràng với qui luật của Giáo Hội hay với chỉ thị của giáo phận, một cha sở khôn ngoan sẽ không cố tình phủ nhận những ý kiến của đa số thành viên trong Hội Đồng Giáo Xứ.
9) Nhiệm kỳ của thành viên hội đồng
Trong cuốn Chức Sở Mục Lệ, nhiệm kỳ của thành viên chủ tịch (trùm cả) là suốt đời, còn nhiệm kỳ của những thành viên khác trong hội đồng là 5 năm (195). Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội ấn định một nhiệm kỳ là 6 năm áp dụng cho tất cả các thành viên trong Hội Đồng Quí Chức và tất cả thành viên đều được quyền tái cử (196). Tuy nhiên trên thực tế, nhiều khi các thành viên thuộc một gia đình hay một gia tộc, họ thay phiên nhau đảm nhận các chức vị quan trọng trong giáo xứ hay họ đạo. Trong trường hợp này, họ đạo sẽ chịu nhiều thiệt hại. Ngày nay các quy chế Hội Đồng Giáo Xứ chấp nhận một nhiệm kỳ từ 3 đến 5 năm cho tất cả thành viên trong Hội Đồng Giáo Xứ và họ có thể tái cử vào chức vị cũ trong Hội Đồng Mục Vụ hoặc một chức vị mới (197).
10) Những khó khăn
Chuyển tiếp từ Hội Đồng Quí Chức sang Hội Đồng Giáo Xứ là một bước tiến lớn lao trong việc thích ứng mục vụ của các giám mục, linh mục và giáo dân công giáo Việt Nam. Tất cả đều ý thức sâu xa về những nhu cầu mục vụ rộng lớn của các giáo xứ trong thời hậu Công Đồng (Vatican II), về những sự thay đổi nhanh chóng của một xã hội bị xáo trộn quá nhiều vì chiến tranh, bị phân hóa bởi những ảnh hưởng khác nhau đến từ Âu Mỹ, bởi những khuynh hướng chính trị quốc gia và cộng sản… Tất cả đều muốn đáp ứng lời kêu gọi của Công Đồng 'Các Hội Đồng giám Mục phải biết thích nghi thỏa đáng với những phương pháp và những cơ chế thích hợp theo những hoàn cảnh về thời gian, không gian và nhân sự (198); ‘lời kêu gọi của đức giáo hoàng Phaolô VI' Giáo Hội phải tự canh tân nội tình và thích ứng các cơ cấu của Giáo Hội theo nhu cầu của thời đại hầu chu toàn sứ mệnh cứu thế (199); và sau cùng, những nguyện vọng tha thiết về việc canh tân các giáo xứ và các họ đạo của Dân Chúa (200). Do đó, đa số các giám mục Việt Nam đã thiết lập trong giáo phận của mình một ủy ban soạn thảo quy chế Hội Đồng Giáo Xứ, rồi đích thân, đức giám mục đã trân trọng phổ biến và cho áp dụng qui chế đó trong tất cả các họ đạo thuộc giáo phận, hay ít ra áp dụng tạm thời trong 3 năm (aggiornamento). Có thể nói, các qui chế đã được tiếp nhận nồng nhiệt bởi đa số hàng linh mục và giáo dân. Tuy nhiên, khi các qui chế được đem ra áp dụng thì gặp phải rất nhiều trở ngại! Trở ngại từ não trạng của các linh mục và giáo dân, trở ngại từ sự thiếu thốn nhân sự trong giáo xứ, trở ngại vì tình hình xã hội và chính trị trong nước.
a) Tâm lý bảo thủ của nhiều linh mục: Thông thường các linh mục đã được đào tạo và được bổ nhiệm để hành động đơn độc một mình như là những cấp chỉ huy độc nhất có trách nhiệm điều hành tốt một giáo xứ. Các linh mục thường hay tự đặt mình lên trên cộng đoàn theo bổn phận phục vụ các nhu cầu tinh thần cho giáo dân trong các họ đạo và chỉ chịu trách nhiệm trước giám mục giáo phận mà thôi. Vì thế, các ngài không muốn chia sớt gánh nặng mục vụ cho giáo dân trong họ đạo, sợ rằng quyền uy cá nhân của mình bị mất mát. Mặt khác, có nhiều linh mục sợ canh tân không phải vì họ thiếu khả năng thực hiện, nhưng vì họ nghĩ rằng những canh tân sẽ xáo trộn tính cách hài hòa truyền thống của họ đạo. Do đó, các ngài ưa chuộng Hội Đồng Quí chức cổ xưa hơn là Hội Đồng Giáo Xứ mới mẻ ngày nay. Kết quả là tập qui chế mới mẻ đức giám mục gửi tới, chỉ nằm ngủ trong góc văn phòng giáo xứ với những lớp bụi mỗi ngày thêm dầy cộm.
b) Tâm lý tiêu cực của giáo dân: Có những họ đạo mà trong đó giáo dân đã nhiễm thói quen tiêu cực. Hầu như theo bản năng, họ không thể chấp nhận cho giáo dân đảm trách những chức vụ mà từ trước đến nay vốn chỉ dành riêng cho các hàng linh mục. Họ dễ dàng phê phán hoặc bài bác các việc làm của cha sở và của các tín hữu khác, nhưng họ lại cho rằng không tội vạ gì phải dây mình và việc điều hành cộng đoàn. Đó là việc của cha sở. Hậu quả là họ lạnh lùng trước mọi vấn đề trong họ đạo. Họ chỉ có việc đi xem lễ, mỗi cuối năm họ đóng góp tiền bạc một cách tượng trưng. Như thế là đủ rồi. Hội Đồng Giáo Xứ với qui chế hiện nay, đối với họ, là tân thời và cấp tiến quá !. Họ không tìm thấy điều gì liên hệ mật thiết với cuộc sống của họ !
c) Thiếu thốn nhân sự hoạt động: Chiến tranh đã xảy ra từ lâu và gây bao thảm hại, nhất là vùng nông thôn. Những người trẻ bị động viên vào quân đội, những tín hữu được đào tạo và có khả năng đều phải lẩn trốn đi nơi khác để mưu sinh và tránh né sự bách hại của những kẻ thù hằn. Nơi họ đạo chỉ còn lại những người già nua, đàn bà và trẻ nít! Tất cả đều nghèo khốn và sống trong sợ sệt hãi hùng. Trong tình huống như thế, sự thiết lập một Hội Đồng Giáo Xứ thật là khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi. Thiếu nhân lực và mọi phương tiện để hoạt động! Họa may mà thiết lập được, thì sự hữu hiệu của Hội Đồng Giáo Xứ cũng không hơn gì Hội Đồng Quí Chức. Đã có dư luận cho rằng chỉ có danh xưng của Hội Đồng được thay đổi thôi, mọi thứ còn lại vẫn như cũ! Rõ thật là nhân định bất thắng thiên'.
d) Dưới chế độ cộng sản: Chiến tranh 30 năm qua nay đã chấm dứt. Đất nước đã thống nhất và dưới quyền cai trị của Nhà Nước cộng sản. Tuy không có những cuộc bách hại kiểu thời vua chúa, ngược lại quyền tự do tôn giáo đã được long trọng công bố nhiều lần bởi chính quyền và được ghi ra trong hiến pháp. Nhưng trên thực tế, giống như Giáo Hội Công Giáo ở miền Bắc, Giáo Hội Công Giáo miền Nam đã từ lâu ở trong tình huống bị chèn ép một cách tinh vi và đời sống của các giáo phận và các giáo xứ đang rơi vào tình trạng tê liệt. Trong một tình thế bi thảm như vậy, việc áp dụng các qui chế của Hội Đồng Giáo Xứ tất nhiên là rất khó khăn. Dù sao thì mọi việc qua đi trong sự quan phòng của Thiên Chúa và từ nơi Thiên Chúa mà chúng ta mới luôn luôn có đầy tràn hy vọng.
Chúng tôi muốn chấm dứt phần trình bày của chương này bằng một lời ca ngợi thán phục gởi đến các vị thừa sai ngày trước đã thích ứng cơ cấu các chức sắc trong các làng xã dân sự cổ truyền vào Hội Đồng Chức Việc hay Hội Đồng Quí Chức của các họ đạo Công Giáo Việt Nam. Hội đồng này rõ thật không phải là một hệ thống hoàn hảo về tông đồ giáo dân, nhất là theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II. Dù sao, theo trào lưu lịch sử Truyền Giáo tại Việt Nam thì Hội Đồng Quí Chức đã tạo dựng những hoạt động tông đồ rất tích cực. Những hoạt động này, mặc dù đã được thực hiện từ hơn 400 năm qua, luôn thực sự rất gần với các giáo huấn của Công Đồng về tông đồ giáo dân ngày naỵ
Vì vậy, đối chiếu Hội Đồng Quí Chức ngày xưa với Hội Đồng Giáo Xứ ngày nay, chúng tôi không muốn nói rằng Hội Đồng Quí Chức đã bị thay thế bởi Hội Đồng Giáo Xứ, mà chỉ muốn nói một cách công bình rằng Hội Đồng Quí Chức đã được trau chuốt thêm cho thích hợp với các nhu cầu hiện nay của các giáo xứ và của Giáo Hội Việt Nam.

--------------------------------


Chú thích
1 Mục đích việc thiết lập Hội Đồng Quí Chức, xem CSML 2,5,

2 Bầu cử các Chức việc, xem CSML 6-9.

3 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.847

4 GM, 30 trg AAS 58 (1966) tr.688

5 GH, 28 trg AAS 57 (1965) tr.35

6 ĐT, 2 trg AAS 58, (1966) tr.714

7 TĐ,10 trg AAS 58, (1966) tr.847

8 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.847

9 TĐ, 2, 21 trg AAS 58 (1966) tr.839,63

10 TĐ, 16 trg AAS 58 (1966) tr.851

11 GH, 31 trg AAS 57 (1965) tr.37

12 TĐ, 31 trg AAS 58 (1966) tr.863

13 TĐ, 3 trg AAS 58 (1966) tr.839

14 TĐ, 120 trg AAS 58 (1966) tr.960

15 HN, 7 trg AAS 578 (1965) tr.97

16 TĐ, 23 trg AAS 58 (1966) tr.856

17 TĐ, 4 trg AAS 58 (1966) tr.840

18 GH, 31 trg AAS 57 (1965) tr.38

19 TĐ, 7 trg AAS 58 (1966) tr.844

20 GH, 36 trg AAS 57 (1965) tr.41

21 TĐ, 8 trg AAS 58 (1966) tr.844

22 TĐ, 31 trg AAS 58 (1966) tr.862

23 TĐ, 3 trg AAS 58 (1966) tr.839

24 TĐ, 10 tg AAS 58 (1966) tr.846

25 TĐ, 4, 10 trg AAS 58 (1966) tr.840,846

26 GM, 14 trg AAS 58 (1966) tr.679

27 GD, 4 trg AAS 58 (1966) tr.728

28 GM, 2-4 trg AAS 58 (1966) tr.687-679

29 GM, 30 trg AAS 58 (1966) tr.689

30 LM, 4,6 trg AAS 58 (1965) tr.996; 999-1000

31 GH, 41 trg AAS 57 (1965) tr.47

32 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.846

33 TG,15 trg AAS 58 (1966) tr.965

34 TĐ,30 trg AAS 58 (1966) tr.861; TG,17 trg. AAS 58 (1966) tr.967-968

35 GH, 37 trg AAS 57 (1965) tr.42-43; TĐ, 24 trg AAS 58 (1966) tr.856;LM, 9 trg AAS 58 (1966) tr.1005-1006

36 GM,30 trg AAS 58 (1966) tr.869

37 TG, 20 trg AAS 58 (1966) tr.970-971

38 LM,17 trg AAS 58 (1966) tr.1017

39 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.846

40 TĐ,25 trg AAS 58 (1966) tr.858

41 TĐ,24 trg AAS 58 (1966) tr.856-857

42 TĐ,23 trg AAS 58 (1966) tr.856

43 TĐ,20 trg AAS 58 (1966) tr.855

44 TĐ,8 trg AAS 58 (1966) tr.846

45 GH,28 trg AAS 57(1965) tr.34

46 MV,28 trg AAS 58 (1966) tr.1048

47 GH,34-36 trg AAS 57(1965) tr.39-41; TĐ,2,10 trg AAS 58 (1966) tr.838-846

48 CSML I

49 TĐ,2 trg AAS 58 (1966) tr.838

50 GH,35 trg AAS 57 (1965) tr.41

51 TĐ,2 trg AAS 58 (1966) tr.839

52 TĐ,2 trg AAS 58 (1966) tr.838

53 TG,20 trg AAS 58 (1966) tr.970

54 TG,37 trg AAS 58 (1966) tr.984

55 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.846

56 CSML 7

57 SI 3 (1929) tr.122

58 TĐ,3 trg AAS 58 (1966) tr.839

59 GH, 35 trg AAS 57 (1965) tr.40

60 GH,34 trg AAS 57 (1965) tr.39

61 MV,43 trg AAS 58 (1966) tr.1063

62 GH,38 trg AAS 57 (1965) tr.43

63 TG,21 trg AAS 58 (1966) tr.972

64 TĐ,29 trg AAS 58 1966) tr.860

65 GH,33 trg AAS 57 (1965) tr.39

66 TG,15 trg AAS 58 (1966) tr.964

67 GM,30 trg AAS 58 (1966) tr.688

68 TĐ,17 trg AAS 58 (1966) tr.852

69 TG,20, 21 trg AAS 58 (1966) tr.970,973

70 LM,5 trg AAS 58 (1966) tr.997

71 GH,40 trg AAS 57 (1965) tr.44-45

72 GH,39 trg AAS 57 (1965) tr.44

73 GH,41 trg AAS 57 (1965) tr.46

74 GH,41 trg AAS 57 (1965) tr.47

75 GH,42 trg AAS 57 (1965) tr.49

76 GH, 41 trg ĂS 57 (1965) tr.47

77 GH,42 trg AAS 57 (1965) tr.48

78 TĐ,16 trg AAS 58 (1966) tr.851

79 TĐ,1 trg AAS 58 (1966) tr.862

80 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.847

81 GH,8 trg AAS 57 (1965) tr.11

82 GH,65 trg AAS 57 (1965) tr.64

83 GM,30 trg AAS 58 (1966) tr.688-689

84 TĐ,30 trg AAS 58 (1966) tr.851

85 TĐ,23 trg AAS 58 (1966) tr.856

86 GH,41 trg AAS 57 (1965) tr.47

87 GH,35 trg AAS 57 (1955?) tr.40; TG, 29 trg AAS 58 (1955) tr.979-980); AA, 20 trg AAS 58 (1966) tr.855

88 CSML,2,28; DHN 150

89 CSML, 17,21

90 CSML, 30; AD tit.IV cap.I I n.1/1 p.112; Cf Louvet E, 'LA COCHINCHINE RELIGIEUSE', I tr.357

91 DNQ 115, DH 101

92 DNQ 112, DH 98

93 AD tit,IV cap. III n 1/1, tr.112

94 CSML 29

95 CSML 61

96 Cf Louvet E .op.cit. I, tr.357

97 GM,30 trg AAS 58 (1966) tr.688

98 GH,33 trg AAS 57 (1965) tr.39

99 TĐ,6 trg AAS 58 (1966) tr.843

100 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr.847

101 TG,28 trg AAS 58 (1966) tr.979

102 TG,21 trg AAS 58 (1966) tr.972

103 TĐ,10 trg AAS 58 (1966) tr. 846

104 Xem NGUYỄN-HỒNG, 'LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT NAM', I, tr.206-210)

105 TĐ,18 trg AAS 58 (1966) tr.853

106 TĐ,18 trg AAS 58 (196) tr.854

107 TĐ,20 trg AAS 58 (1966) tr.855

108 TĐ,20 trg AAS 58 (1966) tr.854

109 Đọc lại chương VI, các tr.120-122, 328-337, 337-346

110 Đọc lại chương V các tr. 285-307

111 CSML 3; đọc lại chương. III các tr.147-148; chương IV các tr.236-245

330 Hội Đồng Quý Chức

112 CSML 3,4

113 TĐ,5 trg AAS 58 (1966) tr.842

114 TĐ,7 trg AAS 58 (1966) tr.844

115 GH,36 trg AAS 57 (1965) tr.41

116 MV,26 trg AAS 58 (1966) tr.1046

117 TĐ,7 trg AAS 58 (1966) tr.844; GH,35 trg AAS 57 (1965) tr.40; MV, 52 trg AAS 58 (1966) tr.103

118 TG,21, 22 trg AAS 58 (1966) tr.972-973; GH,36 trg AAS 57 (1965) P. 41; MV, 61,62 trg AAS 58 (1966) tr.1082-1083.

119 TĐ,6 trg AAS 58 (1966) p. 843

120 MV,25 trg AAS 58 (1966) tr.1045; TG, 22 trg. AAS 58 (1966) tr.973

120' Đọc lại chương VI các tr.310-320

120'' GH,32 trg AAS 57 (1965) tr 38

120''' TĐ, 25 trg AAS 58 (1966) tr.857

121 TĐ,7 trg AAS 58 (1966) tr.844; MV, 9 trg AAS 58 (1966) tr.1030 TĐ, trg AAS 58 (1966) tr.844

122 TĐ, 7 trg AAS 58 (1966) tr.844

123 CSML 61

124 TĐ10 trg AAS 58 (1966) tr.847

125 TĐ,38 trg AAS 58 (1966) tr.693

126 TĐ,32 trg AAS 58 (1966) tr.863

127 MV, 27 trg AAS 58 (1966) tr.1047

128 MV,93 trg AAS 58 (1966) tr.1114

129 LM,6 trg AAS 58 (1966) tr.9997

130 HN,7 trg AAS 57 (1965) tr.97

131 GH,36 trg AAS 57 (1966?) tr.41; TG, 20 trg AAS (1966) tr.971

132 GH,41 trg AAS 57 (1965) tr.47

133 GH,37 trg AAS 57 (1965) tr.43

134 Từ năm 1960 Toà Thánh đã thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam qua sắc lệnh "VENERABILIUM NOSTRORUM" ban hành ngày 2 tháng 11 năm 1960, trg AAS 53 (1960) tr.340-325. Như vậy, tất cả các toà Giám Quản Tông Tòa trở thành địa phận và các vị Giám Quản Tông Tòa trở thành các giám mục chính tòa và các 'chuẩn giáo xứ' trở thành những giáo xứ.

135 Xin lưu ý rằng những trang kế tiếp sau đây chỉ đề cập tới Giáo Hội Công Giáo ở miền Nam Việt Nam mà thôi. Ở miền Bắc Việt Nam thì tổ chức Hội Đồng Quí Chức vẫn còn luôn trong tình trạng tiền công đồng. Và sau đây là các giáo phận Việt Nam có ban hành 'Quy Chế Hội Đồng Giáo Xứ': NhaTrang (1968), Huế (1969), Sài Gòn, Phú Cường, Long Xuyên, Xuân Lộc (1971), Đà Lạt (1973), Cần Thơ (1974).

136 TĐ 10 trg AAS 58 (1966) tr.757-787

137 GM,27 trg. AAS 58 (1966) tr.687: "Valde optandum est ut in unaquaque diocesi peculoaire instutuatur Concilium pastorale, cui episcopus diosesanus ipse praesit et in quo clerici religiosi et laici, specialiter delecti, partes habeant. Hujus Conciliieriea quae ad pastoralia opera spectant investigare, perpendere atque de eis practicas expromere conclusions.

138 TĐ, 26 trg AAS 58 (1966) tr.858

139 GM,27 trg AAS 58 (1966) tr.686

140 TĐ,26 trg AAS 58 (1966) tr.858

141 GM,27 trg AAS 58 (1966) tr.687; TĐ,26 trg AAS 58 (1966) tr.858; ES, 16/3 trg AAS 58 (1966) tr.766

142 GM,27 trg AAS 58 (1966) tr.686

143 PV, 42 trg AAS 56 (1964) tr.III

144 GM, 27 trg AAS 58 (1966) tr.687; TĐ, 26 trg AAS 58 (1966) tr.858; ES, 16/1 trg AAS 58 (196) tr.766

145 TĐ,26 trg AAS 58 (1966) tr.858

146 ES,16/2 trg AAS 58 (1966) tr.766

147 Quy chế của giáo phận Sài Gòn ấn định: "Tại mỗi giáo xứ có một trung tâm đầu não duy nhứt, đó là Hội Đồng Giáo Xứ ' QCHĐGX/SG 3.

148 QCHDGX/SG, PC, 4; - H.I /ĐL/27- CT.2 - XL.2LX.I

149 Tất cả các quy chế đều có chung một định nghĩa: "Hội đồng giáo xứ là một tổ chức gồm những giáo dân ưu tuyển" (Le conseil paroissal est l'organisme comprenant des fidèles d'élite) QCHDGX/SG et PC.4, QCHDGX/H.I /ĐL,27/CT.2.2/XL.2/LX.I /NTI

150 'Sự cộng tác với cha sở đặc biệt được xem như là bản chất, định nghĩa và là mục tiêu của Hội Đồng Giáo Xứ’ ham chiếu những trích dẫn ở trên (chú thích 149)

151 Xem: QCHDGX/SG et PC.7-10 /H.10-17/ ĐL,50-56/ XL.21-30/ CT.9-16/ LX.40-49.

152 Trong giáo phận Nha Trang, đức giám mục là chủ tịch Hội Đồng Giáo Dân cấp địa phận. Hội đồng này có ba phó chủ tịch mà một trong 3 người đặc trách về các vấn đề hành chánh của các Hội Đồng Giáo Xứ, QCGD, III, tr.79

153 QCHDGX/XL, 21: "Hội đồng giáo xứ hợp tác với cha sở để hướng dẫn và điều hành tất cả các ban ngành hoạt động của giáo xứ". / SG et PC.7: "Hội đồng giáo xứ hợp tác với cha sở để phục vụ giáo xứ qua các hoạt động nhằm mục tiêu bảo tồn một cách đồng nhứt và phát triển toàn vẹn những giá trị tinh thần và vật chất của giáo xứ"; - "Ban thường vụ, đại diện cho hội đồng giáo xứ, cộng tác với cha sở, điều hành mọi công việc của giáo xứ và huy động các ban ngành, các hội đoàn v.v... để cùng chung nhau thực hiện các dự án thích hợp" Xem 'Mazzoli A. La Pastorale nella Parrochia moderna', tr.107-108.

154 Xem QCHDGX/LX.40-49 /XL,21-30 /ĐL.50-58 /CT. 9-16 /H. 10-17.

155 QCHDGX/H (1969) tr.3-4

156 QCHDGX/H. 1

157 QCHDGX/SX, tr.21

158 CSML 1,2; ĐQN 112; ĐH.98; QCH ĐGX/SG và PC. 7 /XL.21 /CT.2 /LX.1

159 CSML.7;/QN.114,/DH.100,/DHN.150/QCHĐGX/SA và PC.21/LX.43/ ĐL.37 /XL.II

160 CSML 2,28,30 ĐQN 112 ĐH 98; QCHĐGX/SG và PC 4,7 / ĐL.27,50/ LX. 1,40 /XL. 1,21

161 CSML 14-16, 34, 43, 45-46, QCH ĐGX/SG và PC.9 / ĐL.51

162 CSML 21-22, 26-27, 51, QCHĐGX/XL.21 / CT.16 / LX.40

163 CSML 1,38, QCHĐGX/XL.21-22 /SG và PC.7 / LX.43

164 CSML 3-4 QC ĐGX/CT.10 /SG và PC.9 / ĐL.51

165 Tuy nhiên, tất cả các quy chế đều quy định rằng: "những quyết định của Hội Đồng Giáo Xứ chỉ có giá trị với sự chuẩn nhận của cha sở" QCHĐGX/ LX.36 ? /SG và PC.16 /XL.34 /CT.19 /H.13.

166 Chẳng hạn, mỗi giáo xứ thuộc giáo phận Huế có 9 người đặc trách về các ngành chuyên biệt: Phụng vụ, thánh nhạc, lễ nghi, trật tự chung, giáo dục, tài chánh, xây dựng, hoạt động bác ái, thông tin. Trong một giáo xứ lớn, trách nhiệm của mỗi người đặc trách ngành chuyên biệt còn có thể thiết đặt thêm một ban điều hành riêng cho môi trường hoạt động của mình, tuy nhiên ban này chỉ là một thành phần của Hội Đồng Giáo Xứ mà thôi" QCHĐGX/H.4

167 QCHĐGX/H.21: ứng viên vào Hội Đồng Giáo Xứ có thể là nam hay nữ"; XL.12: "ứng viên có thể là một người phái nữ, nhưng đương sự phải hội đủ điều kiện luật buộc và được chấp nhận bởi tục lệ địa phương" /ĐL.37; "Mọi tín hữu nam hoặc nữ, nếu hội đủ điều kiện đều có thể ứng cử và được bổ nhiệm vào hội đồng mục vụ hay vào ban điều hành ban ngành"

168 "Ứng viên không thể là thành phần lãnh đạo (/XL.9), mà cũng không thể là một cán bộ nồng cốt (/ LX.II /ĐL.32) của một đảng phái chính trị"

169 Những ai tham gia vào những chức vụ quan trọng trong giáo xứ cũng có thể là chức sắc trong làng xã hay trong các cơ quan hành chánh dân sự. Chúng ta cũng mong ước rằng, trong các làng xã công giáo người ta nên chọn lựa một số chức sắc trong làng để bảo vệ sự hài hòa chung" GSML 4; ĐHN 150

170 CSML 6-7

171 QCHDGX/ XL. II

172 QCHDGX/CT.21

173 QCHDGX/LX.16

174 QCHDGX/SSL.37

175 CSML.6; QCHDGX/H22 / ĐL36 /LX.24 /XL.16 /SG, PC.20

176 CSML.6. ĐQN 113, ĐH 99. Chính vì lý do lạm dụng này mà các giáo phận Qui Nhơn và Huế đã khuyến cáo các cha sở: "Việc tuyển chọn một ứng cử viên nào đó bằng một cuộc bầu phiếu là để người đó trở thành đại diện của các tín hữu chứ không phải là người bảo vệ quyền lợi của cha sở" ĐQN 114, ĐH 100).

177 QCHDGX/SG,PC.20 /XL.15-27; /ĐL.39-45 /H.22-24

178 QCHDGX/ĐL.42 /XL.18 /LX.18

179 CSML 6; ĐHN 150

180 QCHDGX/LX.19 và phụ lục tr.27 /XL.20 và phụ lục tr.119-128 /ĐL.43 /H.24

181 CSML.6

182 QCHDGX/H. tr.3

183 GM,18 in AAS 5891966) tr.682

184 AA,326 trg AAS 58 (1966) tr.863

185 Vào ngày lễ các thánh tông đồ Phêrô, Phaolô (CSML,27), vào dip lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh (ĐHN,150), một ngày lễ hội sau mùa gặt lúa (ĐQN.323)

186 Vào mỗi tháng: QCHDGX/ĐL.57 /H.H30 /XL.32 /SG,PC.15. Vào mỗi 2 tháng: /LX.33 /CT.43 /NT.56

187 QCHDGX/SG,PC.15 /LX.34 /XL.32 /H.30 /ĐL.57

188 QCHDGX/H.30

189 QCHDGX/SG và PC.15

190 CSML 2,14,22,28 ĐQN 112,115; ĐH 98,101; ĐHN 150

191 ES, 16/2 rg AAS 58 (1966) tr. 766

192 QCHDGX/XL.34 /LX.36 /CT.19 /SG và PC.16

193 QCHDGX/LX.35

194 CD,30 trg AAS 58 (1966) tr. 688

195 CSML.3

196 ĐHN.150

197 Ba năm: QCHĐGX/SG và PC.24 /LX.28 /H.H25; Bốn năm /XL.39; năm năm /ĐL.46

198 CD,18 trg AAS 58 (1966) tr.682

199 'SUMMI PONCTIFICIS PAULI VI ALLUCATIO SECUNDA SS CONCIL II PERIODO INEUNTE', die 29 sept.1963, trg 'IL CONCILIO VATICANO II', sesta edizione,1967 tr.102.

200 Xem, Nguyễn-Văn Vi, 'Họ Đạo Của Chúng Ta' Scerdos (1971) s6' 120, các tr. 739-76; Tân Yên, 'Hiện Tình Các Họ Nhánh tại Lục Tỉnh' , Sacerdos (1969) số 89 các tr.279-282; Phạm Bá Tước, 'Đi Thăm Cha Sở Họ Đạo Miền Quê', Sacerdos (1971) số 120 các tr.747-750; Nguyễn Ngọc Thụ, 'Họ Đạo Của Ngày Mai', Sacerdos (1970) số 103 các trang 454-458; Nguyễn Văn Thung, 'Mục Vụ Đối Với Giới Trẻ' (1970) số 101 các tr. 275-280; Nguyễn Văn Tuyên, 'Chuẩn Bị Sứ Mệnh Tuyên Giảng Lời Chúa' Nhà Chúa số 3 (1970) tr. 7-13.




tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương