HỘI ĐỒng quý chức quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục



tải về 1.51 Mb.
trang16/22
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.51 Mb.
#16972
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   22

CHƯƠNG VI
THAM GIA VÀO

THỪA TÁC VỤ QUẢN TRỊ

Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày hai mục chính:


I.Quản trị

II.Quản lý.



Mục I
THỪA TÁC VỤ QUẢN TRỊ

Ý trí đầu tiên của các đấng bề trên, khi chọn các chức việc họ đạo, là nhằm mục đích thiêng liêng, sau đó mới nhắm vào việc quản trị của họ đạo. Mục đích thứ hai hoàn toàn tùy thuộc vào mục đích thứ nhất (1). Đúng vậy. Vì hai chương trước đây, chúng tôi đã bàn về mục đích thứ nhất: tham gia của các chức việc vào thừa tác vụ thánh hóa (officium sanctificandi) và vào thừa tác vụ giảng dạy (officium docendi) của các linh mục. Trong chương này, chúng tôi sẽ bàn về thừa tác vụ thứ ba, tức sự tham gia của chức việc vào thừa tác vụ điều hành hay quản trị (officium regendi) của linh mục trong việc quản trị họ đạo.


Đời sống tín hữu trong mỗi họ đạo thường phụ thuộc vào sự chỉ đạo của cha xứ và các chức việc. Nguyên tắc này đưa ra vai trò trung gian của các chức việc giữa cha xứ và bổn đạo, nhất là trong việc quản trị họ đạo. Vì vậy, chúng tôi bắt đầu trình bày mục này bằng cách nêu bật những tương liên giữa các chức việc và cha xứ.
I. Những cộng tác viên của cha sở.
1) Tầm quan trọng của việc cộng tác này.
Các chức việc hẳn luôn biết rằng cha xứ là người duy nhất có trách nhiệm điều hành họ đạo. Tuy nhiên, trong việc quản trị xứ đạo, ngài sẽ được các chức việc trợ giúp (2). Như vậy, các chức việc chính là những người trợ giúp, trợ lực, thi hành, cánh tay mặt hay đại diện của cha xứ trong việc điều hành họ đạo, như được quy định trong cuốn Chức Sở Mục Lệ: các bề trên, khi chọn lựa các chức việc của các họ đạo, trước hết là để các linh mục có những cộng tác viên cẩn trọng, tùy trường hơp có thể giúp các ngài trong những công tác khả thi. Như vậy, họ luôn tùy thuộc các Ngài: tôn kính, vâng lời, tùy phục, trợ lực. Vậy họ luôn phải tỏ ra khuôn mẫu cho mọi người (3). Nói khác đi: "Các chức việc luôn phải đồng thuận với cha xứ" (4), và "các chức việc, nhất là ông trùm họ đạo, phải báo cho cha xứ tất cả những sự việc liên hệ tới vấn đề coi sóc các giáo dân"(5).
Khởi từ mối dây cộng tác giữa cha xứ và Hội Đồng Chức Việc, và sau khi đã nhấn mạnh vai trò cần thiết của cha xứ trong việc tuyển chọn các chức việc, cha Cadière viết: "Cùng với đoàn chức việc, chúng ta có tâm điểm, dụng cụ then chốt để tạo nên sự cộng tác của toàn thể tín hữu trong họ đạo với người mục tử. Để đạt được sự cộng tác toàn vẹn này, trước hết phải quan tâm đến sự cộng tác tốt đẹp giữa cha sở và Hội Đồng Quí Chức. Vì Hội Đồng Quí Chức là 'đầu não' của họ đạo, là 'tâm điểm' của sự cộng tác vững chãi. Và chính cha xứ phải là người 'đào tạo nhóm đầu não' này, là người 'hun đúc' và 'phối trí' tâm điểm này, bởi vì chính ngài là người chọn lựa thành phần của Hội Đồng Quí Chức" (6).
Việc cộng tác này quả thật rất cần thiết cho thừa tác vụ của linh mục trong họ đạo và những nơi khác. Vì các chức việc là "những người dọn đường cho các thừa sai"(7), "những công cụ đầu tiên của hoạt động tông đồ của linh mục" (8), "tai mắt của cha xứ để nghe thấy được những gì xảy ra trong họ đạo" (9), "tay chân của cha xứ trong việc quản trị họ đạo và việc rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại" (10) "cột trụ của họ đạo khi cha vắng mặt" (11), và là "các cha phó-giáo dân (vicaires-laics) của cha xứ" (12).
May mắn là những liên hệ giữa cha xứ và chức việc, nhìn chung, rất tốt đẹp, thân thiết, xây dựng và hữu ích cho cuộc sống của họ đạo. Cha Cadière đã viết: "Từng ngày, từng khoảnh khắc của mỗi ngày, các chức việc lo việc của họ đạo, không phải việc này hay việc khác, nhưng là những việc làm thăng tiến họ đạo… Đối với quí chức, cộng tác là công trình thể hiện chung với cha xứ" (13)
2) Sự cẩn trọng của linh mục.
Chẳng thiếu gì chuyện thường diễn ra giữa cha xứ, các chức việc hay bổn đạo. Cha Cadière đã viết một cách tế nhị: "Tôi không muốn rằng khi có sự bất đồng giữa cha xứ và giáo dân, lỗi lầm bị quy trách cho cha xứ ! Thường thì như vậy. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp mà sự bất hòa là do phía giáo dân" (14).
Chúng tôi lấy câu chuyện của các chức việc tại Tầm Hưng làm ví dụ: "Khi cha Ân đến thay cha Vân tại Họ Tầm Hưng, một trong những ưu tư của ngài là làm sao cho sổ chi tiêu của họ đạo được minh bạch. Vì khi vắng linh mục, trong nhiều họ đạo, các chức việc quản tri tiền bạc mà không ghi chép gì cả. Có thể sẽ có những lạm dụng và thất thoát. Khi cha xứ yêu cầu các chức việc phải trao lại sổ sách, nhiều người bất bình, phản đối và muốn từ chức. Và vì phải tuân theo đúng quy tắc, cha Ân đã không nhượng bộ " (15).
Để tránh tối đa những trường hợp đáng tiếc này, các bề trên có thẩm quyền mong mỏi các chức việc phải biết lắng nghe và luôn tuân phục linh mục, luôn sẵn sàng và tận tụy với nhiệm vụ (16). Và các cha xứ hẳn không bao giờ quên lời nhắn nhủ khôn ngoan của cha Cadière: 'Chúa ơi, việc tuyển chọn các chức việc trong họ đạo thật phức tạp! Cha xứ không nên hành động, quyết định một mình. Ngài phải tham khảo các chức việc trước khi bầu một ứng viên' (17). Rồi còn giáo huấn của Công Nghị Bắc Kỳ năm 1900: 'Cha xứ phải nâng đỡ tối đa uy tín của các chức việc' (18), và Công Đồng Đông Dương bảo: "Để được những thành phần ưu tú trợ giúp, thì cha xứ phải chu toàn nhiệm vụ của mình trước' (19).
II. Quí chức là trung gian giữa cha xứ và giáo dân.
Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Qui Nhơn và giáo phận Huế cùng khuyến cáo rằng 'với những hình thái mà các họ đạo hiện nay đòi hỏi, các chức việc là môi giới giữa cha xứ và bổn đạo, trong việc cưới xin, rửa tội, thăm viếng người bệnh, chôn cất ' (20). Trong những tình huống này, bổn đạo không liên lạc thẳng với cha xứ, mà gặp chức việc có liên hệ trước.
Chúng tôi đã trình bày những gì liên hệ tới bổn phận môi giới của các chức việc trong chương IV. Chúng tôi muốn thêm rằng: bổn phận này đòi hỏi chức việc liên hệ một hy sinh không nhỏ: "Chính tại điểm này chúng ta thấy rõ hơn đức tin, đức mến, sự tận tụy, tinh thần trách nhiệm… của một chức việc, và qua đó, chúng tôi thấy vai trò của ông trong đời sống tín hữu, sự tham gia tích cực của ông vào thừa tác vụ của linh mục. Đáng công phúc và đáng thán phục hơn nữa nếu nhìn vào những thời kỳ bắt đạo ghê gớm hay chiến tranh tàn khốc, giai đoạn mà các họ đạo còn quá nhỏ và cô lập xa nhau. Thường phải mất một ngày đường để đi từ họ đạo lẻ đến họ đạo chính nơi cha xứ cư ngụ. Nhiều khi tình trạng nguy cập của bệnh nhân khiến người chức việc phải đi tìm linh mục giữa đêm khuya. Qua các chức việc, cha xứ loan báo cho bổn đạo biết việc thăm viếng, thời điểm mục vụ…, chính qua trung gian của các chức việc mà cha xứ hiểu rõ tình trạng chung của họ đạo, những trường hợp riêng của mỗi gia đình hay của các thành phần trong cộng đồng, những chuyện tốt xấu đã xảy ra trong họ đạo. Chính vì vậy, đây là qui tắc hành sự của các chức việc: "Các chức việc phải chăm sóc bổn đạo mà họ có trách nhiệm, họ là tai mắt của cha xứ, thấy và nghe được những gì xảy ra trong họ đạo" (21)
Theo như cha Louvet đã thuật: ‘Mỗi khi cha xứ đến thăm họ đạo, sau khi tiếp đãi đầu tiên, các chức việc ngồi lại dưới sự chủ tọa của cha xứ, tường trình cho ngài về tình trạng của họ đạo, những khó khăn chính đã được điều chỉnh khi ngài vắng mặt. Cha xứ phải được tường trình hết, đưa ra những quyết định, tái lập hòa giải, nếu chẳng may đã bị xáo trộn' (22). Chính vì thế các chức việc phải trình bày rõ ràng tình trạng tinh thần của họ đạo: những người đã xưng tội và rước lễ mùa Phục Sinh, những ai đã chịu lễ lần đầu nhưng chưa chịu phép thêm sức, những trẻ em đã tới 12 tuổi nhưng chưa chịu lễ lần đầu; họ phải ghi những gia đình và đôi lứa thường hay bất bình, những người mới tới, những người đã bỏ họ đạo đi nơi khác. Vậy là họ có thể trả lời cho cha xứ khi ngài muốn thăm dò tin tức (23).
Để chu toàn vai trò trung gian giữa cha xứ và các bổn đạo, quí chức phải chăm sóc mọi bổn đạo không phân biệt ai (24), coi phận vụ này thật quan trọng, chu toàn với lòng nhiệt thành, yêu thích và mẫn cán (25). Nhưng trước hết và trên hết, họ phải cố gắng là khuôn mẫu cho mọi người, sống nhiệt thành đời sống tín hữu (26).
III. Những người trách nhiệm về sổ sách.
1) Sổ sách chính và sổ sách phụ.
Cuốn Chỉ Nam của các giáo phận qui định rằng: Các cha xứ phải cẩn trọng trong việc ghi lại sổ Rửa Tội, Thêm Sức, Hôn Phối, Chứng Tử và sổ Nhân Danh (status animarum) (27), theo đó, họ phải thận trọng và chỉ ghi về phương diện đạo đức mà thôi, ghi lại những chứng minh hữu ích và những sửa đổi cần thiết để luôn cập nhật hóa. Trong cuốn sổ Rửa Tội, phải ghi rõ cả về Thêm Sức, Hôn Phối, và nếu có, về Truyền Chức, Khấn Dòng. Các linh mục phải bảo trì những sổ sách này và cấm không cho người đời biết.
Ngoài những sổ sách quan trọng nói trên, trong mỗi họ đạo còn cần những sổ sách phụ nữa:

  • Một cuốn sổ ghi danh những hội đạo đức, thánh lễ dành cho những hội này, không kể những thánh lễ thường xuyên mà mọi linh mục phải cử hành (28).

  • Một hay nhiều sổ ghi danh những người đã được đón nhận vào trong một hội đạo đức (29).

  • Một cuốn sổ ghi tên, địa vị, ngày bổ nhiệm các chức việc và họ đạo, theo đúng qui tắc của Hội Đồng Quí Chức.

  • Một cuốn sổ kế toán mà linh mục phải cập nhật hóa tất cả những nố chi, thu của nhà thờ và của các hội đoàn đạo, dù ít đến đâu đi nữa (31).

  • Một cuốn sổ ghi danh tất cả những bất động sản và tài sản thuộc về họ lẻ hay mỗi họ đạo, ghi địa thế (tỉnh, tổng, xã, làng), địa điểm (đồng ruộng hay đất đai), diện tích (mẫu, thửa), và nếu có thể, ghi cả loại thuế nữa (32).

  • Một cuốn sổ ghi các động sản và tiền của của họ đạo, ghi rõ số chi, thu (33).


2) Bổn phận của các chức việc đối với các loại sổ trên đây.
Thực hiện những cuốn sổ trên đây đúng theo luật định và thực tế sự việc không phải là chuyện dễ dàng. Phải nhiều kiên tâm, nhẫn nại và mất rất nhiều thời gian: vì vậy, ngoài sự trợ giúp của các thầy giảng và các nữ tu, cha xứ cần tới sự hỗ trợ của các chức việc, nhất là trong những họ đạo không có thầy giảng hay nữ tu và có sự hiện diện thường xuyên của cha xứ.
Trong trạng huống này, các chức việc, nhất là các ông trùm và thư ký của Hội Đồng Quí Chức, có bổn phận phải gìn giữ và ghi lại cẩn thận các sổ Rửa Tội, Hôn Phối, Chứng Tử và Nhân Danh. Đức cha Gioan Baotixita Hồ ngọc Cẩn đã trao tới họ những lời này: "Các chức việc phải nhiệt tâm ghi lại có bao nhiêu trẻ sơ sinh và bao nhiêu người đã qua đời, bao nhiêu người mới gia nhập họ đạo, bao nhiêu người đã đi nơi khác lập nghiệp, bao nhiêu người có học, bao nhiêu người không giữ đạo, bao nhiêu trẻ mồ côi… Để ghi lại những điều này cho hợp với thực tế, họ phải biết mọi gia đình, mọi thành phần của họ đạo, tính tình cách thế giữ đạo v.v…(34)
Những người có trách nhiệm lo cuốns ổ Hội Đoàn cũng phải kiên tâm ghi chép đầy đủ và rõ ràng tên tuổi những người thu nhận vào một hội đoàn. Rồi người thủ quỹ hay người đặc trách có nhiệm vụ về những cuốn sổ liên hệ tới việc điều hành các tài sản của nhà thờ và họ đạo. Xưa kia, các cuốn sổ này đươc cất giữ trong một hòm gỗ có ba chìa khóa. Một chìa trao cho cha xứ, hai chìa kia được ủy thác cho hai chức việc (35). Khi liên hệ tới tiền nong, lúa gạo hay vật dụng gì khác, phải ghi thật rõ ràng .
Một hay hai lần trong một năm, tất cả các chức việc phải ngồi lại để điều chỉnh mọi sổ sách nhất là hai mục chi thu. Khi tất cả đã ổn thỏa, ông trùm họ đạo sẽ trao tất cả sổ sách cho cha xứ, và ngài sẽ chuyển tới linh mục đại diện miền hay cha chính địa phận. Rõ ràng, đây là mục đích tham dự của các chức việc vào sứ vụ điều hành họ đạo của linh mục.
IV. Những người bảo quản trật tự chung
Đời sống tín hữu, đạo đức, luân lý hay điều hành, phải tuân hành có lớp lang. Hội Đồng Chức Việc, khi chỉ huy mọi công tác chung, có bổn phận phải bảo trì trật tự này.
Tất cả các bổn phận của quí chức, mà chúng tôi đã trình bày ở hai chương trước đây, đều tương đương nhiều ít so với bổn phận duy trì trật tự chung: chủ sự các buổi cầu nguyện, điều tra hôn phối, tham gia tang lễ, điều hành các hội đoàn hay hiệp hội, cộng tác vào việc kiến thiết hay điều khiển trường học, vào các việc bác ái v.v… Tóm lại, sự hiện diện tích cực của các chức việc là phải làm sao cho mọi việc tiến hành trong trật tự. Họ phải hiện diện mọi nơi và trong mọi việc chung của họ đạo. Họ là tai mắt, tay chân của linh mục, người có trách nhiệm duy nhất cho việc điều hành thiện ích của họ đạo. Đúng vậy, thừa tác vụ của linh mục đối với việc quản trị họ đạo sẽ bị tê liệt, không có công hiệu, nếu không có sự cộng tác tích cực của các chức việc. Chúng ta sẽ hiểu thấu hơn khi bàn về các cuộc họp của các chức việc, quy luật của họ đạo, tòa hòa giải cho bổn đạo và việc quản trị tài sản của họ đạo.
Để kết thúc, chúng tôi xin nêu lên trường hợp ông Phạm Cử Não, ông trùm họ đạo Bãi San, hầu nêu bật việc tham gia cần thiết của quí chức vào công cuộc điều hành chung của họ đạo: có thể nói rằng khi cha xứ vắng mặt, ông trùm Phạm Cử Não là cột trụ của họ đạo Bai San, và khi cha sở có mặt, ông là phụ tá, khi cha sở vắng mặt, ông thay quyền ngài điều khiển họ đạo. Quả vậy, nếu cha Lân đã có thể canh cải được những tục lệ của họ đạo Bãi San và thiết lập được một số công trình mới, thì chính là nhờ sự trợ lực đằm thắm, tận tâm, hữu hiệu của ông trùm Não. Cha xứ ra chỉ thị và phương pháp, nhưng chính ông trùm và các chức việc mới dấn thân thi hành. Cha Lân thường khen ông trùm Não là con người biết hòa giải. Đúng vậy, mỗi khi có hai bổn đạo bất hòa với nhau, ban đêm ông thường kín đáo đi ủy lạo họ và giải hòa đôi bên. Khi cha xứ khiển trách ai, ông thường đến gặp họ ngay, giải thích cho họ biết chấp nhận sai lỗi và tuân phục bề trên. Ông qua đời năm 1907 (36).
V. Khi bổn đạo và quí chức hội họp
1) Khi bổn đạo nhóm họp
Cần phân iệt ba thể thức nhóm họp của các bổn đạo: đại hội của toàn xứ đạo và của từng họ đạo, hội họp của mỗi khu. Việc nhóm họp của toàn xứ đạo sẽ được ông trùm công bố với sự đồng thuận của cha xứ và Hội Đồng Quí Chức. Cha xứ hay ông trùm điều hành buổi họp. Tham dự viên là các chức việc, đại diện của các xứ liên hệ, đại diện của các hội đoàn có trong giáo xứ. Việc nhóm họp của mỗi họ đạo sẽ do ông trùm đứng ra tổ chức và điều khiển, tham dự viên phải là những tín hữu trên 18 tuổi. Còn việc nhóm họp mỗi khu thì sẽ do vị trưởng khu hay ông giáp tổ chức và điều hành, tham dự viên là tất cả những bổn đạo trưởng thành trong khu xóm.
Không có một văn kiện nào, một quy thức nào qui định ngày giờ hay bao nhiêu buổi nhóm họp của bổn đạo. Tùy thông lệ và nhu cầu của mỗi họ đạo: có thể, việc nhóm họp của họ đạo diễn ra trước lễ thánh bổn mạng hay chủ nhật truyền giáo, cuối năm hay dịp thi giáo lý hoặc ngày chầu Mình Thánh hàng năm. Việc nhóm họp của mỗi họ đạo hay của mỗi khu xóm, thường được tổ chức trước hay sau ngày hội của toàn xứ tùy nhu cầu.
2) Khi quý chức nhóm họp.
Những phiên họp của chức việc thường do ông chánh trương hay trùm cả tổ chức và chủ tọa, hay do cha xứ, nếu ngài có mặt. Nhưng nếu là những cuộc họp của họ đạo, thì do ông trùm của họ đạo tổ chức và điều hành. Ngày giờ và các phiên họp thường không có một quy tắc nào hết mà tùy nhu cầu của họ đạo. Các tài liệu chính thức thường cho biết một vài ngày tháng tiêu biểu về những phiên họp này, đặc biệt liên quan tới việc quản trị. Đức cha Colomber (1884) đưa ra qui ước chọn ngày lễ thánh Phêrô và Phaolô, hay một ngày thuận lợi nào đó; cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội thì đề ngày chúa nhật Phục Sinh hay ngày lễ Các Thánh; cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế thì sau ngày gặt hái; thư chung của đức cha Gendreau thì đề nghị một ngày nào đó trong khoảng 27.11 và 3.1 năm sau (37).
Theo ghi chú của cha Louvet: "Các chức việc nhóm họp dưới sự chỉ đạo của cha xứ, họ trình lên ngài tình trạng của họ đạo và những khó khăn chính họ gặp phải khi ngài vắng mặt. Cha xứ phải am tường và phải đưa ra quyết định"(38). Tuy nhiên, chúng ta có thể phỏng đoán là trong những thời kỳ bắt đạo và chiến tranh, các cuộc hội họp chức việc bao giờ cũng theo một chương trình và có một bản tường trình. Tiếc là chúng ta không tìm thấy một tài liệu cổ, dù đã hết tâm tìm kiếm. Luôn luôn chỉ có một luận cứ "chiến tranh, xáo trộn chính trị, hoặc vấn đề thuyên chuyển đã hủy diệt tất cả tài liệu'. May thay, chúng ta còn tìm những bản tường trình tương đối mới, tại nhà con trai của một trong những chức việc cựu trào nhất của họ đạo Cầu Kho (giáo phận Sài Gòn), trình bày như sau: các chức việc nhóm họp tại nhà xứ, thường là ngày chủ nhật, cha xứ chủ tọa phiên họp, hầu như mọi chức việc đều hiện diện, chương trình nhóm họp đơn giản và thực tiễn bản tường trình rất đơn giản và rõ ràng:
- ngày và nơi hội họp,

- các chức việc có mặt và vắng mặt,

- vấn đề tranh luận,

- quyết định đưa ra,

- các chức việc hiện diện tùy cấp bậc, đồng ký,

- cha xứ ký và có con dấu.


3) Tường trình về một phiên họp của các chức việc.
Chúng tôi xin đan cử dưới đây biên bản tường trình một phiên họp của các chức việc thuộc họ đạo Cầu Kho, dưới sự chủ tọa của cha xứ. Biên bản được tất cả các chức việc có mặt tại Nhà Xứ, đồng lòng chấp thuận.
- Ngày chủ nhật 20 tháng 10 năm 1940.

- Hiện diện: cha xứ họ đạo Cầu Kho, Phêrô Nguyễn Phước Khanh; chủ tọa Ông Gueldre và ông Thân; qui ông có trách nhiệm: ông Qui, Thông, Mậu, Quý, Kỷ, Vân, Sang, Canh.

- Vắng mặt: ông Diệu.

- Các vấn đề đã được tranh luận và quyết định:

a) Các chức việc phân phối đất đai thuộc nhà xứ để cho thuê theo phần, trong khoảng tháng 11 và 12 năm 1940, làm lại danh sách và quyết định giá thuê phải thực hiện vào năm 1941; sẽ chọn một chức việc có thì giờ để đi đo trước từng lô đất và đặt giới hạn với hai người phu. Cha xứ và các chức việc sẽ đồng ý chọn một người hữu trách (Biên), ông Gioan Baptista Canh, để lo đo các lô đất của họ đạo vào tháng 11 và 12 năm 1940, bắt đầu thực hiện vào năm 1941, và hướng vấn đề về đất đai trong họ đạo.

b) Các chức việc sẽ điều tra các căn nhà đã được phân ra để cho thuê trên đất của nhà xứ: bao nhiêu gia đình đã thuê? Phải quyết định xem mỗi căn cho thuê hàng tháng phải trả bao nhiêu. Cha xứ và các chức việc quyết định tăng giá 3% hàng tháng.

c) Các chức việc phải điều tra một vài căn nhà (đã được thuê) cho người bên lương, người có đạo bị tai tiếng, những nơi cờ bạc, dâm đãng... và tường trình về mỗi căn một cách minh bạch, rồi làm biên bản cho cha xứ và hội đồng các chức việc của họ đạo

d) Những người thuê đất của nhà xứ để làm ăn hay buôn bán phải trả thêm 3% hàng năm, trên tổng số tiền thuê đã trả hàng tháng (I). T.S.V.P.


Các điều mục trên đã được bàn cãi và đồng thuận chấp nhận:

+ của các chức việc, ký tên: quý ông G.Gueldre, J. Mậu, P. Thân, J.B.KA. Qúy, J.B. Canh, E. Thông, P. Vân, P. Diệu, P. Sang



+ của cha xứ Cầu Kho, cha P. Nguyễn phước Khanh, có đóng dấu.
VI. Nội quy của họ đạo.
1) Lịch sử hình thành.
Trong chương bàn về "Bổn phận người tín hữu trong họ đạo", sau khi nêu lên trách nhiệm tổ chức phụng vụ chung, nghĩa là những biểu hiện tôn giáo tập thể chung (40), các cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và giáo phận Qui nhơn, đã tuyên bố rằng: "Đời sống tín hữu trong mỗi họ luôn vận hành dưới sự chỉ đạo của cha xứ, các chức việc, cùng sự cộng tác vô vị lợi của mọi thành phần trong họ đạo. Để được hưởng mọi ân ích thiêng liêng và vật chất của tổ chức, các quí chức sẵn lòng chấp nhận mọi gánh nặng và trách nhiệm (41); Những bổn phận chính yếu của giáo dân đã được tóm lược trong nội quy của họ đạo hay quy chế các tín hữu, in bằng chữ nôm. Nội quy này chúng tôi muốn in lại bằng chữ quốc ngữ, để đọc trong các họ đạo mỗi năm hai lần, lễ Giáng Sinh và lễ hai t hánh tông đồ Phêrô và Phaolô (42). Tiếc là tài liệu này không được in lại bằng chữ quốc ngữ, chỉ còn lại bằng chữ nôm nhưng bây giờ không tìm ra được.
Dù không tìm được chứng từ chắc chắn và cụ thể, nhưng tựa trên những thư chung của đức cha P.M. Gendreau, giám mục giáo phận Hà Nội, bàn về nội quy của các họ đạo (43), chúng tôi nghĩ rằng nội quy của các họ đạo, in trong cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội đã phỏng theo (nếu không phải là tóm lược) bản quy chế viết bằng chữ nôm đã có từ lâu trong các tòa giám mục tại Việt Nam. Chúng tôi cũng nghĩ như thế về quy chế của họ đạo đọc thấy trong các cuốn Chỉ Nam của giáo phận Quy Nhơn và giáo phận Huế. Chúng tôi muốn nói thêm rằng, qua những dòng trên, nội quy của các họ đạo trình bày trong cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà nội không khác biệt gì so với những điều viết trong cuốn Chỉ Nam mà các giáo phận Huế, Quy Nhơn và Sài Gòn đã áp dụng.
Ngoài ra, đức cha Hồ Ngọc Cẩn đã viết: "Qui luật của các họ đạo là điều lệ của mỗi họ, và cũng là bản pháp lệ mà các chức việc của các họ đạo phải chú tâm. Mỗi họ đạo phải có một nội qui được soạn ra với sự chấp nhận của các đấng có thẩm quyền của địa phận. Hàng năm nên đọc lại nội quy này để ai nấy cùng am hiểu và duy trì, riêng các chức việc phải tường tận hơn hết và tuân thủ mọi điểm, coi như khuôn mẫu của mọi người trong họ đạo"(44).
Như vậy, điều kiện để qui luật của các họ đạo có giá trị hợp pháp, là phải được đấng bản quyền địa phận phê chuẩn. Bản Chỉ Nam của Hà Nội cũng tuyên bố như vậy (45). Hơn nữa, 43 năm trước khi ấn bản đầu tiên của tập Chỉ Nam này ra đời, đức cha Gendreau đã nhấn mạnh với các cha xứ: "Đôi khi xảy ra những việc đáng tiếc đối với qui luật của các họ đạo. Vì vậy từ nay trở đi, khi các cha xứ muốn sửa lại qui luật hiện có hay thiết lập một qui luật mới, các vị phải đệ trình văn bản cho đức giám mục, nếu ngài chấp nhận, qui luật mới có giá trị"(46). Đức cha Marcou, giám mục Phát Diệm, đã lập lại từng chữ câu này và xuất bản trong cuốn "Thư chung địa phận Thanh" năm 1920 (47).
2) Qui luật trình bày trong tập Chỉ Nam của Hà nội.
Theo cuốn Chỉ Nam của Hà Nội, qui luật của các họ đạo gồm hai phần: Khoán lệ cải lương và khoán lệ trừng giới.
a) Khoản lệ cải lương

Nhắm đặc biệt vào tang lễ và cưới hỏi. Cuốn Chỉ Nam thấy rằng "nhiều họ đạo còn duy trì những thủ tục về tang ma và cưới hỏi, đã khiến bao gia đình phải sạt nghiệp sau tang lễ của cha mẹ. Lại nữa nhiều đôi bạn trẻ, nhất là các thiếu nữ phải hoãn lại ngày cưới, tới độ phải sống độc thân vì cheo làng quá nặng (48). Như vậy, cần canh cải những tục lệ này trở thành những thói tục tốt, có lợi cho đời sống tư nhân cũng như đời sống chung của họ đạo (49).


Tang lễ: Cuốn Chức Sở Mục Lệ (1884), nhất là cuốn Tử Hầu (1907), Công Nghị Tonkin (1900), và tất cả các cuốn Chỉ Nam đều nhấn mạnh rằng:
+ Tiêu cực:

1 - Phải cấm tất cả những gì có màu sắc dị đoan trong tang lễ của bổn đạo.

2 - Phải cấm tất cả những tục lệ ngoại giáo, như mời dân làng và họ đạo tới dự tiệc, nhất là khi xác người quá cố còn quàn tại nhà.

3 - Trong mọi trường hợp, phải liệm xác trước 12 giờ sau khi qua đời, và không được giữ xác quá ba ngày tại nhà.


+Tích cực:

I - Đám tang của bổn đạo được họ đạo tham gia chung. Khuyến khích các bổn đạo tham dự và cầu nguyện cho người quá cố.

2 - Về tang lễ, cũng cần khích lệ các bổn đạo hành xử sao cho đúng với những chỉ thị của Giáo Hội và tập quán công giáo. Tham gia đông đảo trong đám tang và bước đi trong thinh lặng.

3 - Mong mọi gia đình mang những người quá cố tới nhà thờ, để linh mục có thể cử hành mọi lễ nghi theo sách Nghi Thức. Cũng cần phải có thói quen cử hành một Thánh Lễ ngày an táng, lúc thi hài còn ở nhà thờ.

4 - Nơi nào không có giá biểu cho tang lễ, người ta có thể có ít nhất hai hạng: một hạng đòi hỏi những chi phí đáng kể mà chỉ những gia đình giàu mới có thể trả, hạng hai cho những gia đình tương đối khá giả.

5 - Tang lễ cho người nghèo thường miễn phí và luôn thích ứng như vậy.

6 - Một phần ba giá biểu thuộc về nhà thờ của họ đạo phần còn lại linh mục chi cho ca trưởng và các em trong ca đoàn (50).
Vấn đề cưới cheo: Qua thư chung của đức cha Lefèbvre, chúng ta biết tục nộp cheo không áp dụng trong nhiều làng. Tuy nhiên, tại miền Nam và miền Trung, các thừa sai bắt bổn đạo phải bỏ tục lệ này đi (51). Các cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và giáo phận Quy Nhơn yêu cầu các cặp vợ chồng phải 'khai báo' với các chức sắc trong làng trước khi làm phép cưới đạo (52). Quy luật của cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội xác quyết rằng:

+ Tiền cheo từ nay được ấn định là một đến hai đồng cho những cặp vợ chồng sống trong cùng một giáo xứ, và từ hai đến bốn đồng cho những cặp sống tại giáo xứ khác.

+ Thay vì mua trầu cau như hiện vật biếu mỗi gia đình trong làng, các cặp vợ chồng đóng góp vào quỹ của họ đạo một khoản tiền, ít nhiều, tùy theo sự khá giả của gia đình. Khoản tiền này sẽ được dùng để trùng tu nhà thờ hay sửa đường xá của làng v.v…(53)



tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương