HỘI ĐỒng giám mục việt nam giáo lý giáo hội công giáo biên soạN CHO giáo dân việt nam



tải về 1.61 Mb.
trang12/23
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.61 Mb.
#33085
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   23

I. NGUỒN GỐC BÍ TÍCH THÊM SƯC
Được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần trong lòng Trinh Nữ Maria, và được Chúa Thánh Thần ngự xuống khi chịu phép rửa tại sông Giođan, lúc khai mạc cuộc đời hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn hiệp thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần nơi bản thân, cũng như khi thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng Mêsia (x. Mt 3,13-17); Ga 1,33-34). Nhưng Đức Giêsu không lãnh nhận tràn đầy Chúa Thánh Thần cho riêng mình, mà còn cho tất cả những ai tin vào Người: đó là dân của Đấng Mêsia (x. Ed 36, 25-27; Ge 3, 1-2). Vì thế, Chúa Phục Sinh đã thông ban Thánh Thần cho các Tông Đồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, và tràn đổ ơn Thánh Thần cách đặc biệt vào ngày lễ Ngũ Tuần như Người đã hứa (x. Cv 2,1-4).
Sau đó, để thi hành ý muốn của Chúa Kitô, các Tông đồ đã đặt tay trên những người mới theo đạo, để ban Chúa Thánh Thần, nhằm hoàn tất ơn Thánh Tẩy (x. Cv 8, 15-17; 19, 5-6). Việc đặt tay ban Thánh Thần của các Tông Đồ, được coi là nguồn gốc Bí tích Thêm Sức trong Hội Thánh. Sau đó, một thời gian việc xức dầu thánh được thêm vào cùng với việc đặt tay. Cả hai nghi thức này làm nên thành phần chủ yếu của Bí Tích Thêm Sức.
II. NGHI THỨC VÀ THỪA TÁC VIÊN CỦA BÍ TÍCH THÊM SỨC
Nghi thức Bí Tích Thêm Sức chính yếu ở việc xức Dầu Thánh trên trán người đã chịu Thánh Tẩy, và việc đặt tay cùng với lời đọc: "Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần".
Việc xức dầu nói lên ý nghĩa của tên gọi Kitô hữu (Người được xức dầu) bắt nguồn từ Chúa Kitô, "Đấng được xức dầu", vì "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người" (Cv 10,38). Từ thời xa xưa, việc xức dầu mang nhiều tính biểu tượng. Dầu có sức thanh tẩy, chữa lành và tăng thêm sức mạnh. Trong Cựu ước, các vua và các tư tế đều được xức dầu tấn phong. Chúa Kitô là "Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận" (Ga 6,27), nên người Kitô hữu cũng được ghi dấu ấn của Chúa Thánh Thần, nhờ việc xức dầu, để xác nhận người đó hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, và sống cho Người, đồng thời được Thiên Chúa bảo đảm trong cơn thử thách của ngày tận thế. Dấu ấn này thiêng liêng và không thể tẩy xóa, nên người Kitô hữu chỉ lãnh nhận Bí tích Thêm Sức một lần trong đời mà thôi.
Trước nghi thức chủ yếu của Bí tích Thêm Sức, Đức Giám mục giơ hai tay trên những người lãnh nhận bí tích này. Cử chỉ này là dấu hiệu ban Chúa Thánh Thần, có nguồn gốc từ thời các Tông đồ. Kết thúc nghi thức Bí tích Thêm Sức là cái hôn bình an (ở Việt Nam, thường là cái vả nhẹ lên má), nói lên và bày tỏ mối hiệp thông với Đức Giám mục, và với tất cả mọi tín hữu.
Thừa tác viên chính thức và thông thường của Bí tích Thêm Sức là các Đức Giám mục, và khi có lý do chính đáng, các giám mục có thể ủy quyền cho các Linh mục. Khi một linh mục rửa tội cho người lớn, thì cũng chính linh mục đó có quyền ban Phép Thêm Sức trong cùng một lần cử hành duy nhất. Nếu một Kitô hữu có nguy cơ tử vong, thì bất cứ linh mục nào cũng phải ban phép Thêm Sức cho người đó.
III. HIỆU QUẢ BÍ TÍCH THÊM SỨC
Bất cứ Bí tích nào cũng ban ơn Chúa Thánh Thần, nhưng trong Bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên các người lãnh nhận, cũng như xưa đã xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Như vậy, Bí tích Thêm Sức đào sâu và làm cho lớn lên ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy:
- Ơn làm con cái Thiên Chúa nhờ Thánh tẩy, được sâu xa và bảo đảm hơn,
- Kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô,
- Làm tăng thêm những ân huệ của Chúa Thánh Thần,
- Gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn,
- Và làm thành chứng nhân của Chúa Kitô, để bảo vệ và ban truyền đức tin bằng lời nói và việc làm, để can đảm tuyên xưng Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh.
IV. ĐIỀU KIỆN LÃNH NHẬN BÍ TÍCH THÊM SỨC
Tất cả những người đã chịu Thánh Tẩy đều có thể và phải lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, để việc gia nhập Kitô giáo được hoàn tất. Tuy nhiên, để lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cách hiệu quả, cần có những điều kiện sau đây:
- Người lãnh nhận đã đến tuổi khôn, tức là tuổi biết phân biệt lành dữ. Bí tích Thêm Sức được gọi là "Bí tích trưởng thành Kitô giáo". Nhưng cũng nên lưu ý rằng: trưởng thành siêu nhiên là do ơn Chúa, không nhất thiết lệ thuộc vào sự trưởng thành tự nhiên của tuổi tác.
- Phải học giáo lý một thời gian để chuẩn bị lãnh Thêm sức. Giáo lý Thêm Sức nhằm dẫn đưa người Kitô hữu kết hợp với Chúa Kitô thân mật hơn, yêu mến và sẵn sàng với tiếng gọi của Chúa Thánh Thần, ý thức và sống mầu nhiệm hiệp thông với Hội Thánh toàn cầu, và cụ thể là với cộng đoàn giáo xứ.

- Phải ở trong tình trạng ân sủng, không vướng mắc tội nặng. Tốt hơn là nên đi xưng tội, và tha thiết cầu nguyện, để có thể lãnh nhận ân sủng Chúa Thánh Thần cách thích hợp.


- Ngoài ra, cần chọn một người làm cha hay mẹ đỡ đầu, để nâng đỡ đời sống đức tin. Nên giữ lại cha hoặc mẹ đỡ đầu khi chịu Thánh Tẩy, để nêu rõ tính thống nhất của hai bí tích này.
V. BỔN PHẬN CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ LÃNH BÍ TÍCH THÊM SỨC
Nhờ Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu được tăng cường sức mạnh để bảo vệ và mở rộng đức tin của mình. Việc đọc và suy gẫm Lời Chúa thường xuyên, không những nuôi dưỡng mà còn phát triển đức tin nơi người Kitô hữu. Trung thành và thường xuyên đến với cộng đoàn Hội Thánh trong các cử hành Phụng vụ (x. Dt 10,25), nhất là cộng đoàn Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đó là cách liên kết với Hội Thánh có hiệu quả, để duy trì và phát triển đức tin. Tham gia các hội đoàn, hoặc lãnh nhận một công việc phục vụ trong giáo xứ (như dạy giáo lý), sẽ giúp người Kitô hữu thi hành bổn phận Thêm Sức. Ngoài ra, người đã lãnh Thêm Sức cũng có bổn phận làm tông đồ, nghĩa là làm cho người khác nhận biết, yêu mến và phục vụ Chúa Kitô, đối với những người cùng đức tin, cũng như với những người chưa tin. "Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt" (Dt 10,24).
"Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô, và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên, có sức lôi kéo người ta đến đức tin, và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Tuy nhiên, việc tông đồ này không chỉ tại ở việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin, để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn, vì "tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2Cr 5,14) (TĐ 6).


Bài 31
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
(x. SGLC từ 1322 đến 1344)
"Trong bữa tiệc sau hết, đêm bị nộp, Đấng Cứu chuộc chúng ta đã thiết lập Hy tế Tạ ơn bằng Mình Máu Người, để nối dài Hy tế Khổ giá qua các thời đại, cho tới khi Người lại đến, và để trao cho Hội Thánh, hiền thê yêu quí của Người, việc tưởng niệm sự chết và sống lại của Người: đó là Bí tích Tình Yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái. Bữa tiệc Vượt Qua trong đó Chúa Kitô được tiếp nhận như lương thực, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, và ta có đảm bảo được vinh quang tương lai" (PV 47).

I. BÍ TÍCH THÁNH THỂ : NGUỒN SUỐI VÀ CHÓP ĐỈNH ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

Ngày Chúa Nhật người ta thấy Kitô hữu tấp nập tới nhà thờ dự lễ. Đó là một sinh hoạt nổi bật và thường xuyên trong đời sống Kitô hữu. Vì dự lễ là cử hành Bí tích Thánh Thể, cử hành chính Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, tâm điểm của kế hoạch cứu độ. Thực vậy, "các bí tích khác cũng như tác vụ trong Hội Thánh, và các nhiệm vụ tông đồ, đều liên kết và qui hướng về Bí tích Thánh Thể; vì Bí tích ấy chứa đựng toàn kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, là chính Chúa Kitô, Mầu nhiệm Vượt Qua của chúng ta. Người là Bánh Hằng Sống ban sự sống cho nhân loại" (LM 5).


Bí tích Thánh Thể còn là chóp đỉnh toàn thể việc Phúc Âm hóa (x. LM 5). Phúc Âm hóa là sứ mệnh của Hội Thánh, Hội Thánh phải loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, nghĩa là loan báo và xây dựng sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người và vũ trụ vạn vật. Thế mà Bí tích Thánh Thể vừa là dấu chỉ hiệp thông, vừa thực hiện sự hiệp thông với Thiên Chúa, và sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa, nhờ đó mà Hội Thánh thực sự là Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể vừa là tuyệt đỉnh của hành động Thiên Chúa thánh hóa thế giới trong Chúa Kitô, vừa là tuyệt đỉnh của việc tôn thờ mà loài người nhờ Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha.
II. BÍ TÍCH THÁNH THỂ LÀ GÌ ?
Bí tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa Kitô, và là chóp đỉnh sứ vụ của Hội Thánh, nên chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc và phong phú, không thể hiểu hết được. Hội Thánh dã luôn tuyên xưng: "Đây là mầu nhiệm Đức Tin". Tuy nhiên ta có thể hiểu được một số khía cạnh chính của Bí tích, nhờ các tên quen dùng để gọi Bí tích ấy, như:
1. Lễ tạ ơn (1Cr 11,24), vì dân Do Thái quen chúc tụng cảm tạ, thường là trong bữa ăn, để ca ngợi những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện, như sáng tạo, cứu độ, thánh hóa.
2. Tiệc của Chúa (1Cr 11,20), vì nhớ đến bữa Tiệc ly Chúa đã dự với các Tông đồ trước khi chịu khổ nạn, và cũng nhắc tới bữa tiệc cưới của Chiên Con trong Nước Trời (Kh 19,9).
3. Lễ Bẻ Bánh (Cv 2,42), vì cử chỉ này Đức Giêsu thường làm khi chúc lành và chia Bánh (Mt 14,19), nhất là trong Bữa Tiệc Ly (Mt 26,26), và khi hiện ra với hai môn đệ đi về Emmau (Lc 24,30).
4. Hội họp Tạ ơn (1Cr 11, 17.33) nói đến việc các tín hữu họp lại thành cộng đoàn, để cử hành Thánh lễ Tạ Ơn. Đó là dấu chỉ hữu hình về Hội Thánh.
5. Cuộc tưởng niệm (1Cr 11,25) để nhắc nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, là Mầu nhiệm Vượt Qua, tâm điểm của lịch sử cứu độ.
6. Hiến tế, Thánh Lễ, Hiến tế Tạ Ơn... Vì Bí tích Thánh thể hiện tại hóa hiến tế độc nhất của Chúa Kitô, để Hội Thánh có thể cùng dâng lên Thiên Chúa (Dt 13,15).
7. Phụng vụ Thánh, Mầu nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Đức tin (SGLC 1330), vì việc cử hành Bí tích Thánh Thể vừa là tâm điểm của toàn thể đời sống Phụng vụ, vừa diễn đạt Phụng vụ một cách cô đọng nhất. Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể vẫn luôn là mầu nhiệm Đức Tin.
8. Hiệp thông, Hiệp lễ (1Cr 10, 16-17) Vì Bí Tích Thánh Thể vừa là dấu chỉ sự hiệp thông, vừa là dụng cụ để hiệp thông con người với Chúa Kitô. Khi rước lễ hay hiệp lễ là ta được thông phần Mình và Máu Chúa, để trở thành một Thân Thể. Ta còn được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và với mọi người nữa.
9. Lễ Misa (tiếng Latinh là Missa, lấy trong lời chúc kết lễ: Ite Missa est), vì việc cử hành Mầu nhiệm Cứa độ trong Phụng vụ được kết thúc bằng việc sai các tín hữu đi vào cuộc sống thường ngày, để thực thi ý Chúa.
Theo Hiến chế về Phụng vụ, Chúa Kitô đã lập Bí tích Thánh Thể để ủy thác cho Hội Thánh:
- Việc tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Người,
- Bí tích Tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái,
- Bữa tiệc Vượt Qua, trong đó khi rước chúa, tâm hồn được đầy ơn sủng và
- Đảm bảo cho ta được vinh quang tương lai (PV 47).
III. ĐỨC GIÊSU LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1.Khi nào?
Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh thể trong Bữa Tiệc sau hết với các Tông đồ, cũng là Tiệc Vượt Qua của người Do Thái, trước khi Người chịu khổ hình (x. Lc 22,14-16).
2. Thế nào?

Bài tường thuật của Thánh Phaolô là văn kiện Tân ước tiên khởi cho biết: "Trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy" (1Cr 11, 23-25).


IV. ĐỨC GIÊSU BAN QUYỀN CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Khi lập Bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rằng: "Hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ Thầy". Người không chỉ muốn các Ngài tưởng niệm Người, cũng như công việc Người làm mà thôi, nhưng theo ý nghĩa của Tân Ước, tưởng niệm vừa là nhớ đến, vừa là hiện tại hóa điều mình tưởng niệm. Như thế, Người muốn để hiến tế Người dâng chỉ một lần trên thập giá được hiện tại hóa, và công trình cứu độ được thực hiện (x. GH 3). Nhờ các tông đồ, Người đã làm cho các Giám mục, những vị kế nghiệp các tông đồ, có thể tham dự vào cuộc thánh hiến, và vào sứ mệnh của Người. Các giám mục lại trao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho các Linh mục. Giám mục và Linh mục trở thành tư tế đích thực của Giao ước mới. (x. GH 28).
Đức Giêsu đã ban quyền cử hành Bí Tích Thánh thể cho các tông đồ và các vị kế nghiệp các tông đồ là các Giám Mục. Các giám mục lại trao quyền cho các linh mục qua Bí Tích Truyền Chức. Do đó, chỉ các linh mục được phong chức thành sự mới có thể chủ sự để cử hành Bí tích Thánh Thể, và thánh hiến bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa.
V. ĐỨC GIÊSU NGỰ TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1.Khi nào?
Đức Giêsu ngự trong hình bánh hình rượu khi Truyền Phép, và Người ngự ở đó bao lâu hình bánh hình rượu còn.
2. Thế nào?
Đức Giêsu Kitô hiện diện bằng nhiều cách: trong Lời Chúa, trong kinh nguyện của Hội Thánh "Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy" (Mt 18,20), trong người nghèo, bệnh nhân, tù nhân (Mt 25, 31-46), trong các bí tích mà Người thiết lập, trong Thánh lễ và trong bản thân thừa tác viên. Nhưng ở đỉnh cao nhất là Người hiện diện trong hình bánh rượu (PV 7). Cách Người hiện diện như thế chỉ có một không hai. "Bí tích Thánh Thể chứa đựng thực sự Mình và Máu cùng linh hồn và thiên tính của Đức Giêsu Kitô, nghĩa là trọn vẹn Chúa Kitô" (DS 1651). Nhờ Lời Chúa Kitô và tác động Chúa Thánh Thần khi truyền phép, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô, và Chúa Kitô hiện diện trong đó. "Tất cả bản thể bánh được biến đổi thành bản thể Mình Chúa Kitô, và tất cả bản thể rượu thành bản thể Máu của Người; sự biến đổi này được Hội Thánh Công Giáo gọi một cách chính xác là biến bản thể (DS 1642). "Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình, và trọn vẹn trong mỗi phần nhỏ của hình bánh, hình rượu, đến nỗi có bẻ bánh cũng không chia Chúa Kitô được" (x. DS 1641).
VI. KITÔ HỮU VỚI BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Kitô giáo là đạo dẫn đưa con người vào mối hiệp thông với Chúa Kitô, nhờ đó được hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật trong tình yêu và hạnh phúc. Kitô giáo lại có Bí tích Thánh Thể do Chúa Kitô thiết lập, để Bí tích này vừa là dấu chỉ hiệp thông, vừa là phương thế xây dựng và bảo tồn sự hiệp thông kể trên. Bí tích Thánh Thể thực là mầu nhiệm Đức Tin. Vì thế, Kitô hữu cần tìm hiểu suy niệm mỗi ngày sâu sắc hơn, để có thái độ thích đáng đối với Bí tích cao quí tuyệt vời này.
1. Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu: "Hội Thánh hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào Mầu nhiệm Đức Tin này, không như những khách bàng quan câm lặng, nhưng là những người thấu đạt mầu nhiệm đó" (PV 48). Kitô hữu phải nhờ các nghi lễ, các kinh nguyện, Lời Chúa, và nhất là hiệp thông với Thánh Thể Chúa, để ngày càng cảm nghiệm hơn rằng:
- Tình yêu Chúa Kitô là cao sâu, vì Người là Thiên Chúa mà lại muốn cho ta là người phàm được hiệp thông với Người, Người còn lập Bí tích Thánh Thể để ta hiệp thông với Người cách dễ dàng hơn. Nhờ đó, ta được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (2Pr 1,4).
- Tình yêu Người thật là rộng lớn, vì Người mời gọi tất cả mọi người thuộc mọi dân nước, không phân biệt giai cấp xã hội, không phân biệt chủng tộc hay màu da; bất cứ ai đều có thể tiếp nhận Người thật trọn vẹn, để được cứu độ (x. GH 13).
- Tình yêu Người thật chung thủy vững bền, vì từng giây từng phút, suốt dòng lịch sử, Người hằng ở cùng chúng ta cho tới ngày cánh chung (Mt 28,20). - Tình yêu Người còn đi đến tận cùng (Ga 13,1) của lòng yêu mến, yêu đến chết "để làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45), để họ được sống bởi Người (Ga 6,57), được sự sống đời đời (Ga 6,51), và còn được sống lại ngày sau hết (Ga 6,54), để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng (MV 39).
2. Kitô hữu tôn thờ Bí tích Thánh Thể: Đối với Bí Tích Thánh Thể là Mầu Nhiệm Đức Tin, và là Bí tích Tình Yêu, Hội Thánh mời gọi Kitô hữu lấy tình yêu đáp trả lại bằng việc tôn thờ Thánh Thể Chúa. Tôn thờ là yêu mến tha thiết, là nhìn nhận mình chỉ là thụ tạo trước Đấng Sáng Tạo toàn năng và cao cả, để thờ lạy, cảm tạ, tôn vinh, và hoàn toàn vâng phục ý Người. Tôn thờ Thánh Thể trong Phụng vụ Thánh Lễ là biểu lộ niềm tin Chúa hiện diện trong hình Bánh Rượu, bằng thái độ quì gối hoặc bái sâu. Và đỉnh cao nhất của lòng yêu mến tôn thờ là hiệp thông với Chúa bằng "ăn thịt và uống Máu Người" (Ga 6,56) (Rước Lễ), hoặc ước ao hiệp thông với Người (Rước lễ thiêng liêng). Ngoài Thánh Lễ, Hội Thánh còn hết sức cẩn thận gìn giữ Mình Thánh, để đem cho các tín hữu tôn thờ trọng thể (Chầu Mình Thánh, Giờ Thánh), hoặc kiệu Thánh Thể long trọng, hoặc để trao cho các bệnh nhân hay những người vắng mặt. Việc viếng Thánh Thể cũng là bằng chứng lòng biết ơn, là dấu chỉ tình yêu, và là bổn phận tôn thờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta. (SGLC 1418).

Bài 32
THÁNH LỄ
(x. SGLC từ 1345 đến 1419)
"Điều tôi đã lãnh nhận từ Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn... đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao ước mới: mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa" (1Cr 11, 23-27).
"Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6, 54).
Trong Thánh Lễ, Đức Giêsu dâng Mình lên Thiên Chúa Cha làm lễ vật giao hòa, và ban Mình làm lương thực nuôi sống các tín hữu. Thánh Lễ vừa là hiến tế, vừa là Tiệc Thánh.
I. THÁNH LỄ LÀ HIẾN TẾ CỦA CHÚA KITÔ
Đức Giêsu đã hiến dâng chính mình trên thập giá, làm lễ tế hy sinh, để đền tội cho muôn dân, và "chỉ dâng một lần là đủ" (Dt 7,27). Nhưng Người muốn nối dài hiến tế thập giá trong Thánh Lễ, để liên kết chúng ta và chi thể của Người vào hiến tế độc nhất vô song của Người. Tính chất hiến tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20). Chúa Kitô dâng mình trên thập giá cũng chính là Chúa Kitô được Hội Thánh hiến dâng trong Thánh Lễ, nhờ thừa tác vụ Linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng: "Ngày xưa, Chúa Kitô dâng chính mình trên bàn thờ thập giá cách đẫm máu; trong Thánh Lễ, hy tế thần linh cũng là Chúa Kitô, nhưng được dâng lên không đổ máu" (DS 1743).
II. THÁNH LỄ LÀ BÀN TIỆC HIỆP THÔNG
Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao điểm của đời sống Hội Thánh. Trong Thánh lễ, Chúa Kitô liên kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người vào hy lễ chúc tụng và tạ ơn. “Bí tích Thánh thể biểu thị và thể hiện chính thực chất của Hội Thánh, là hiệp thông vào đời sống của Thiên Chúa, và hiệp nhất dân Thiên Chúa" (Huấn thị "Mầu Nhiệm Thánh Thể" 6). Bởi vì trong Chúa Kitô "Hội Thánh là Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (GH 1). Nhờ kết hợp với Mình và Máu Chúa Kitô, tất cả mọi tín hữu trở nên một thân thể (x. 1Cr 10, 16-17). Bí tích Thánh Thể là Bí tích hiệp thông: các tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đầu, và các tín hữu hiệp thông với nhau, như những chi thể của một thân thể duy nhất. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc yêu thương hiệp nhất, và nhờ cử hành Bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ, chúng ta được kết hiệp với Phụng vụ trên trời, và dự trước cuộc sống vĩnh cửu.
III. HỘI THÁNH DÂNG THÁNH LỄ VÌ LÝ DO NÀO?
Ngay từ những ngày đầu, cộng đoàn Hội Thánh đã ý thức cử hành Thánh Lễ theo như lệnh tuyền của Chúa Kitô, bao lâu còn lữ hành trên trần thế. Vì vậy trong Thánh Lễ, Hội Thánh tuyên xưng rằng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến" (Lời tung hô sau truyền phép). Hội Thánh dâng lễ vì những ý nào?
1. Để tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa Cha:
Bí tích Thánh Thể trước hết là "hy tế tạ ơn". Trong hy tế Thánh Thể, nhờ Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, Hội Thánh tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ân huệ Người đã ban qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể còn là "hy tế ca ngợi","chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô", Hội Thánh dâng lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, nhân danh toàn thể thọ sinh.
2. Để tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô và của Hội Thánh:
Bí tích Thánh Thể là tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, hiện tại hóa và hiến dâng trong Phụng vụ của Hội Thánh là thân thể Người. Theo Kinh Thánh, tưởng niệm không chỉ là nhớ lại, mà còn làm cho những biến cố đã qua thành hiện tại và hiện diện sống động giữa cộng đoàn. Khi Hội Thánh cử hành Thánh Thể, cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Chúa Kitô trên thập giá luôn sống động, để đem lại ơn cứu độ cho mọi người ở mọi thời đại. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (GH 3). Đàng khác, Thánh Lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là thân thể của Chúa Kitô, Hội Thánh tham dự vào lễ tế của Chúa Kitô là Đầu. Trong Thánh lễ, hy tế của Chúa Kitô trở thành hy tế của mọi chi thể trong thân thể. Toàn thể đời sống của các tín hữu: bản thân, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công ăn việc làm, đều được kết hợp với Chúa Kitô trong lễ dâng toàn hiến.
3. Để chuyển cầu cho các tín hữu và toàn thể nhân loại:
Trong Thánh Lễ, toàn thể Hội Thánh kết hiệp với Chúa Kitô trong việc hiến dâng và chuyển cầu. Cộng đoàn Phụng vụ Thánh Thể nhắc nhở và cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục giáo phận, Linh mục chủ tế cũng như mọi tín hữu. Và không phải chỉ có những tín hữu còn tại thế, mà cả những vị được hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô. Hội Thánh dâng lễ trong tâm tình kính nhớ "Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, các tông đồ và toàn thể các Thánh". Thánh Lễ cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, để họ chóng được vào hưởng ánh sáng và bình an của Chúa Kitô. Sau cùng toàn thể nhân loại, cũng như tất cả vũ trụ cũng được hưởng nhờ ơn phúc của Thánh Lễ.
VI. THÁNH LỄ CÓ MẤY PHẦN?
Thánh Lễ diễn tiến theo một cấu trúc cơ bản được duy trì nhiều thế kỷ cho đến nay. Thánh Lễ chia làm hai phần chính, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, được đóng khung bằng nghi thức đầu lễ và nghi thức kết lễ.
* Nghi thức đầu lễ:
Cộng đoàn tín hữu tụ họp lại một nơi để cử hành Thánh Lễ. Chính Chúa Kitô triệu tập cộng đoàn, và chủ tọa buổi lễ. Đại diện hữu hình của Người là Đức Giám mục hay Linh mục chủ tọa cộng đoàn, diễn giảng các bài đọc, tiếp nhận lễ vật, và đọc kinh Tạ Ơn. Nghi thức đầu lễ bao gồm việc sám hối.
1. Phụng Vụ Lời Chúa:
- Đọc các bài Kinh Thánh rút ra từ Cựu ước và Tân ước.
- Bài diễn giảng giúp mọi người hiểu, đón nhận và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
- Lời nguyện tín hữu (hay Lời nguyện chung) cầu cho mọi người (x. 1Tm 2,1-2).
2. Phụng vụ Thánh Thể:
- Chuẩn bị lễ vật: bánh, rượu được đem lên bàn thờ, và chủ tế dâng lên Thiên Chúa, lễ vật sẽ trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Cùng với bánh rượu, các tín hữu có thể mang theo tặng phẩm, để giúp đỡ những người túng thiếu.
- Kinh Tạ Ơn (Kinh nguyện Thánh Thể): là trung tâm của cuộc cử hành Thánh Thể.

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương