HỘI ĐỒng giám mục việt nam giáo lý giáo hội công giáo biên soạN CHO giáo dân việt nam



tải về 1.61 Mb.
trang10/23
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.61 Mb.
#33085
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   23

V. LUYỆN NGỤC
Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa thì chắc chắn đã được cứu độ, nhưng nếu chưa được thanh luyện hoàn hảo thì phải được thanh luyện cho thật tinh tuyền. Hội Thánh quen gọi là thanh luyện nơi luyện ngục. Thực ra luyện ngục không phải là một nơi nào, nhưng là một tình trạng hồn phải thanh luyện. Giáo lý này dựa vào truyền thống thời Cựu Ước quen cầu nguyện cho những người đã chết (x. 2Mcb 12,46). Và ngay từ thời đầu, Hội Thánh đã quen kính nhớ người chết, đặc biệt là trong thánh lễ, để chuyển cầu cho họ. Hội Thánh còn khuyên ta bố thí, lãnh ân xá, và làm các việc hãm mình đền tội giúp cho họ sớm được vào Nước Trời.
VI. HỎA NGỤC
Những ai đã hoàn toàn cố tình không muốn hiệp thông với Chúa Kitô, là đã tự loại mình ra khỏi hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi người làm thánh. đó là những người cố tình phạm tội nặng, xúc phạm đến Thiên Chúa, đến mọi người khác, đến vũ trụ vạn vật, mà không chút ăn năn hối cải, sau khi chết họ phải ở trong hỏa ngục đời đời.
Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở tới hỏa ngục (x. Mt 5,22-29) đến "lửa không hề tắt" (Mt 3,12) đến nơi "khóc lóc nghiến răng" (Mt 13,42). Thực ra hỏa ngục không phải một nơi nào, mà là tình trạng con người luôn cảm nghiệm phải xa cách Thiên Chúa, là sự sống và hạnh phúc mà mình hằng khao khát, xa cách muôn trùng và muôn đời. Thiên Chúa không tiền định cho ai phải vào hỏa ngục (x. DS 397). Người luôn tôn trọng tự do mỗi người. chính mỗi người quyết định số phận vĩnh cửu của mình, nên Hội Thánh mời gọi mỗi người phải sử dụng tự do của mình với tinh thần trách nhiệm thật cao.
VII. PHÁN XÉT CHUNG
Đến ngày sau hết tất cả mọi người chết sẽ sống lại "người lành cũng như người dữ" (Cv 24,15). Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang có các Thiên Thần hộ tống để xét xử công khai mỗi người trước tất cả mọi dân mọi nước (x. Mt 25, 32-46). Người là Sự Thật nên sẽ làm cho toàn bộ sự thật về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa được phơi trần ra, cùng với mọi hậu quả tốt xấu của nó. Người sẽ cho ta hiểu biết ý nghĩa tối hậu của công trình sáng tạo và kế hoạch cứu độ, hiểu biết những đường lối kÿ diệu mà Thiên Chúa quan phòng đã dùng để dẫn đưa mọi sự tới đích tối hậu.
Phán xét chung sẽ mặc khải cho biết sự công chính của Thiên Chúa toàn thắng những bất công do thụ tạo của Người đã phạm, và tình yêu của Người mạnh hơn sự chết.
VIII. TRỜI MỚI ĐẤT MỚI
Đến thời sau hết, Nước Trời sẽ đạt tới mức toàn hảo, toàn thể nhân loại và vũ trụ được biến đổi thành "Trời mới đất mới" (2Pr 3,13).
Đối với con người, sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng, và Hội Thánh lữ hành là dấu chỉ và dụng cụ, sự hiệp thông đó nhờ Chúa Kitô sẽ đạt tới toàn hảo viên mãn "không còn chết chóc, khóc lóc, đau khổ nữa" (Kh 21,4) mà chỉ còn hiệp thông trong hạnh phúc và bình an vĩnh cửu.

Còn vũ trụ vạn vật cũng được chung hưởng một số phận với những con người công chính, nghĩa là cũng đạt tới cùng đích toàn hảo viên mãn nhờ Chúa Kitô, không còn bị ô nhiễm, bị sử dụng vào chuyện xấu, "không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,21).


IX. HẠNH PHÚC VĨNH CỬU VÀ KITÔ HỮU HÔM NAY
Người Việt Nam nào cũng mong được hạnh phúc, thích làm phúc, và muốn thoát khỏi vô phúc, cũng như tất cả mọi người ai cũng khao khát hạnh phúc. Chúa Kitô đã đến loan báo và bảo đảm về hạnh phúc thật, hạnh phúc ấy chỉ có trong Nước Trời. Và Nước Trời đây chính là sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa Ba Ngôi, với nhau và với vũ trụ vạn vật trong tình yêu, hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Vì thế, Kitô hữu hôm nay cần quan tâm đến mấy điểm cụ thể sau đây:
1. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không thể có ở đời này. Vì con người mang khát vọng tuyệt đối, nên không có gì ở đời này có thể lắp đầy, không người nào và tập thể xã hội nào có thể mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Trái lại, chỉ một mình Chúa Kitô có thể thỏa mãn được khát vọng sâu sắc nhất của con người, vì chính Người đã chia sẻ thân phận con người, đã chết và sống lại, bước vào hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời. Người là khởi đầu và bảo đảm chắc chắn rằng có hạnh phúc đích thực vĩnh cửu trong Nước Trời.
2. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không phải là ảo tưởng nhằm ru ngủ hay lừa dối con người sống tiêu cực thụ động, nhưng là một sự thật được Chúa Kitô mạc khải và thể hiện bằng chính cuộc sống của Người. Sự thật này không được làm suy giảm mối quan tâm của Kitô hữu để phát triển trái đất này, trái lại nó phải khơi dậy và kích thích mối quan tâm đó để họ làm cho các tiến bộ trần thế thực sự góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người tốt đẹp hơn (x. MV 39).
3. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu tùy thuộc vào Amen của Kitô hữu. Kinh Tin Kính kết thúc bằng Amen. Trong tiếng Do thái "Amen" có cùng một gốc với "tin", và gốc này có nghĩa là chắc chắn, có thật trung tín. Tôi tin là tôi Amen đối với mọi lời nói, lời hứa, và mọi điều răn của Thiên Chúa. Tôi tin chắc chắn vì Thiên Chúa là Amen (x.Is 65,16). Đấng trung tín, đáng tin cậy. Thiên Chúa lại biểu hiệu sự trung tín ấy nơi Con của Người là Chúa Kitô, nên Chúa Kitô cũng là Đấng Amen (x. Kh 3,14), là sự thật chắc chắn. Và Chúa Kitô đã dạy: "Tất cả những ai thấy Người Con, và tin vào Người Con thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga ,40). Vì thế, Hội Thánh quen kết thúc mọi kinh nguyện bằng Amen, để biểu lộ và tuyên xưng niềm tin. Kitô hữu sống theo điều mình Amen là bảo đảm chắc chắn được hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu.


PHẦN II
CỬ HÀNH CÁC

MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO

Trong phần 1 chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi, vào kế hoạch cứu độ của Ngài, và những hồng ân quí giá Ngài ban cho nhân loại.
Hồng ân vô giá Thiên Chúa ban cho nhân loại là Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Người Con ấy là bằng chứng lớn lao nhất về tình thương Thiên Chúa dành cho con người (Ga 3,16). Ngài là "Lời cứu độ muôn dân, là cánh tay Cha mở rộng đón tiếp người tội lỗi, là con đường dẫn đưa chúng con tới bình an của Cha" (kinh Tạ ơn - Hòa giải 2). Chịu đóng đinh trên thập giá, Ngài đã "dang tay ra làm dấu hiệu giữa trời và đất, dấu hiệu không thể xóa nhòa về Giao Ước của Cha" (Kinh Tạ Ơn - Hòa Giải 1); nghĩa là Ngài đã hoàn thành công trình cứu độ nơi Mầu Nhiệm Vượt qua (Tử Nạn - Phục Sinh - Thăng Thiên).
Sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh hôm nay chính là để công bố và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô; nhờ đó, tín hữu được sống và làm chứng cho Chúa Kitô.
Vì thế, trong phần 2 này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của Phụng Vụ và những cử hành Phụng Vụ, đặc biệt là các Bí Tích.
KINH BẢY PHÉP BÍ TÍCH
Đạo Đức Chúa Trời có 7 phép Bí Tích:
Thứ Nhất là Phép Rửa Tội
Thứ Hai là Phép Thêm Sức


Thứ Ba là Phép Mình Thánh Chúa
Thứ Bốn là Phép Giải Tội
Thứ Năm là Phép Xức Dầu Thánh
Thứ Sáu là Phép Truyền Chức Thánh
Thứ Bảy là Phép Hôn Phối.

Bài 26
PHỤNG VỤ
(x. SGLC từ 1066 đến 1112)
"Hội Thánh long trọng tuyên xưng đức tin qua Phụng Vụ. Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tôn thờ là cội nguồn và cùng đích các việc cử hành. Chúa Con tái diễn mầu nhiệm Vượt Qua để ở lại với Hội Thánh, Chúa Thánh Thần soi sáng Hội Thánh trở thành Bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Còn Hội Thánh loan báo và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua để các tín hữu sống và làm chứng mầu nhiệm ấy trong thế giới". (SGLC 1066).

I. TẠI SAO CÓ PHỤNG VỤ?
Con người có nhiều mối liên hệ với nhau, như: vợ chồng, cha mẹ và con cái, trong gia đình; thày cô với học trò trong học đường, người dân với tổ tiên, với các anh hùng dân tộc, với các biến cố quan trọng của đất nước; ngoài ra còn có các liên hệ do tôn giáo, do nghề nghiệp... Các mối liên hệ này, được bày tỏ và duy trì bằng lời nói, cử chỉ, hành động, và được tổ chức trong các cuộc lễ hội. Truyền thống Á Đông chúng ta coi đó là lấy lễ nghĩa để bảo tồn tâm tình (Dĩ lễ tồn tâm).
Trong Kitô giáo, thời Cựu Ước, công trình của Thiên Chúa thực hiện cho loài người và vũ trụ, được tiên báo qua những kỳ công vĩ đại của Người, như: sáng tạo, tuyển chọn dân Ít-ra-en, giải phóng dân khỏi nô lệ ai Cập. Và dân Ít-ra-en ghi nhớ các kỳ công đó để ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa. Đến thời Tân Ước, công trình của Thiên Chúa được Chúa Kitô hoàn thành, đặc biệt bằng cuộc khổ nạn hồng phúc, cuộc phục sinh từ cõi chết và lên trời vinh hiển (x. PV 5). Đây chính là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, Người thực hiện Mầu nhiệm này để cứu độ thế giới và tôn vinh Chúa Cha. Sang thời của Hội Thánh, mầu nhiệm này được loan báo và hiện tại hóa trong phụng vụ, để "các tín hữu đem cuộc sống mình diễn tả và biểu lộ cho những người khác mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính" (PV 2).
Như vậy có Phụng vụ là để một đàng Thiên Chúa Ba ngôi tiếp tục thực hiện công trình cứu chuộc là thi ân giáng phúc cho mọi người (x. Ep. 1,9); đàng khác để Hội Thánh vừa cảm tạ Thiên Chúa về phúc lộc khôn tả của Người (2Cr. 9,15), vừa ca tụng vinh quang Người (Ep 1,6), vừa được hưởng nhờ những ân phúc ấy (PV 10).
II. CHÚA CHA: NGUỒN MẠCH VÀ CÙNG ĐÍCH PHỤNG VỤ
Tân Ước tuyên xưng và tôn thờ Chúa Cha là Đấng chúc lành và giáng phúc (x. Ep 1,3), nghĩa là Đấng ban sự sống, sáng tạo, nguồn mạch mọi ơn phúc trong suốt lịch sử cứu độ.
Thực vậy, thời Cựu Ước, Chúa Cha thực hiện những kÿ công vĩ đại, giao ước với ông Abraham, cứu dân Ít-ra-en khỏi nô lệ ai cập. Vì thế, dân nhớ ơn và đáp trả bằng tôn thờ cảm tạ một mình Người. Thời Tân Ước, Chúa Cha sai Chúa Con xuống thế làm người, hoàn thành cuộc vượt qua cõi chết để sống lại vinh hiển, và đổ tràn ơn Cứu Độ cho mọi người. Người còn "nhờ Con của Người mà trao ban cho Hội Thánh ơn phúc chứa đựng mọi ơn phúc là Chúa Thánh Thần" (SGLC 1082). Vì thế, Hội Thánh hôm nay cử hành Phụng Vụ với Chúa Kitô, và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để đáp trả tình thương của Chúa Cha.
Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tuyên xưng và tôn thờ như nguồn mạch mọi chúc phúc cho nhân loại và vũ trụ, và mọi chúc tụng, tôn vinh của toàn thể Hội Thánh đều qui về cùng đích là Chúa Cha (x. Kinh Tán Tụng: chính nhờ Chúa Kitô ....)
III. CHÚA CON HOẠT ĐỘNG TRONG PHỤNG VỤ
1. Khi còn sống trên trần gian, Chúa Kitô dùng lời giảng dạy để loan báo, và dùng mọi hoạt động để thực hiện trước Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người (x. Mt 15,21 và Ga 11, 1-4). Khi đến giờ của Người, Người đã hoàn thành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng chịu chết, sống lại và về trời, "chỉ một lần là đủ" (Rm 6,12). Nhưng Mầu Nhiệm này không phải là một biến cố "như mọi biến cố lịch sử khác đã chìm vào quá khứ" (SGLC 1085). Trái lại, Mầu Nhiệm ấy vượt trên thời gian và luôn được Chúa Kitô hiện tại hóa trong Phụng Vụ (x.PV 6).
2. Khi về trời hưởng vinh quang bên hữu Chúa Cha, Chúa Kitô hiện tại hóa Mầu nhiệm Vượt qua bằng cách đổ tràn Thánh Thần trong Hội Thánh là thân thể Người, và sai các Tông Đồ, cũng như trao quyền thánh hóa cho các Ngài, để loan báo và cử hành Mầu nhiệm ấy. Rồi các Tông Đồ lại trao ban quyền thánh hóa ấy cho những người kế vị qua Bí Tích Truyền Chức (SGLC 1087).
Như vậy trong phụng vụ ở trần gian, Chúa Con luôn ở với Hội Thánh: Người hiện diện trong Thánh Lễ, trong bản thân thừa tác viên, trong hình bánh hình rượu, trong các bí tích, trong khi công bố Lời Chúa, trong khi cầu nguyện và hát thánh vịnh (x. PV 7), và Hội Thánh luôn kết thúc các lời nguyện bằng câu: "Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con".
IV. CHÚA THÁNH THẦN VÀ HỘI THÁNH TRONG PHỤNG VỤ.
Trong kế hoạch cứu độ, Chúa Thánh Thần luôn giữ vai trò làm cho Hội Thánh hiệp thông với sự sống và sứ mệnh của Chúa Kitô.
1. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho Hội Thánh tiếp nhận Chúa Kitô. Ngay từ thời Cựu Ước, Hội Thánh đã được "tiên báo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Ít-ra-en và trong giao ước cũ" (GH 2). Do đó, Hội Thánh đã giữ lại nhiều yếu tố trong việc tế tự của dân Ít-ra-en, như đọc Kinh Thánh Cựu Ước, cầu nguyện bằng Thánh vịnh; và nhất là tưởng niệm những biến cố lớn có liên quan đến Mầu nhiệm Chúa Kitô, như giao ước với ông Abraham, xuất hành, vượt qua biển Đỏ... Chúa Thánh Thần đã lột màn che các hình bóng để ta hiểu: tàu ông Nôe thoát lụt hồng thủy tiên báo sự cứu độ do Bí tích Rửa Tội, Mana trong sa mạc tiên báo "bánh thật bởi trời" (Ga 6,32) là Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh thể. Hội Thánh còn tổ chức Mùa Vọng, Mùa Chay, canh thức Phục Sinh để sống lại những biến cố lớn của Giao ước cũ.
2. Chúa Thánh Thần nhắc nhở Mầu nhiệm Chúa Kitô:
Chúa Thánh Thần "sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26) nghĩa là trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần giúp cho cả người công bố hay giảng giải Lời Chúa, cũng như mọi người lắng nghe, được hiểu biết Lời Chúa và hiệp thông với Chúa Kitô hơn, để cùng nhau đáp ứng bằng một niềm tin sâu sắc hơn: "Chính lời Cứu rỗi nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu: chính đức tin này khai sinh và phát triển sự hiệp thông giữa các tín hữu" (LM 4). Người cũng giúp cả cộng đoàn nhớ lại những kÿ công Chúa Kitô đã thực hiện cho ta, vì "kế hoạch mặc khải được thực hiện bởi cả việc làm lẫn lời nói, cả hai gắn bó chặt chẽ với nhau... Lời nói công bố việc làm và giúp khám phá ra mầu nhiệm chất chứa trong đó". (MK 2). Chúa Thánh Thần nhắc cho Hội Thánh nhớ, để Hội Thánh cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Vì thế trong Thánh Lễ, sau Kinh Truyền Phép là Kinh Tưởng Niệm (Anamnèse) và Kinh Tán tụng: Chính nhờ Chúa Kitô......
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm Chúa Kitô:
Mầu nhiệm Chúa Kitô được Hội Thánh cử hành, và mỗi khi cử hành thì Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm đó. Trước khi truyền phép, chủ tế đọc kinh khẩn cầu (Epiclèse), Chúa Thánh Thần biến đổi lễ vật trở thành Mình Máu Chúa Kitô, để tín hữu có thể hiệp thông với Chúa Kitô, nếm trước cuộc hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong Phụng Vụ là hiệp thông. Hội Thánh cầu chúc: "Ân sủng của Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần" (2Cr 13,13) đầy tràn trong cộng đoàn, để mọi người trở nên đồng hành đồng dạng với Chúa Kitô, xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và tham gia sứ mệnh của Hội Thánh bằng chứng tá và hoạt động bác ái.
V. PHỤNG VỤ LÀ GÌ?
Phụng vụ dịch từ tiếng Hy lạp "leiturgia" nghĩa gốc là hoạt động công cộng, dịch vụ cho dân chúng. Truyền thống Kitô giáo hiểu đó là việc Dân Thiên Chúa tham gia công trình của Thiên Chúa (x. Ga 17,4). Trong Tân Ước, Phụng Vụ có ý chỉ không những việc thờ phượng Thiên Chúa, mà cả việc loan báo Phúc Âm (x.ra 15,16) và thi hành bác ái nữa (x. Rm 15,27), nghĩa là bao gồm việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ mọi người. Phụng vụ mang nhiều ý nghĩa và đặc tính phong phú, có thể tóm lại như sau:
1. Phụng vụ để cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phụng vụ là việc thờ phượng mà Hội Thánh dâng lên Chúa Cha, để cảm tạ về phúc lộc khôn tả Người đã ban trong Đức Giêsu Kitô, và để ca tụng sự vinh hiển của Người, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (PV 6).
2. Phụng vụ là một hoạt động công cộng toàn hảo.
Phụng vụ là việc Hội Thánh tham dự chức tư tế (thờ phượng), ngôn sứ (loan báo Lời Chúa) và vương giả (phục vụ bác ái) của Chúa Kitô, nghĩa là không phải việc của một cá nhân hay một nhóm người, nhưng là việc của toàn thể Hội Thánh, dầu thừa tác viên của Hội Thánh chỉ cử hành một mình mà thôi, song họ cử hành nhân danh nhiệm thể Chúa Kitô, gồm cả Đầu và các chi thể. "Không một hành vi nào khác của Hội Thánh có hiệu lực bằng" (PV 7).
3. Phụng vụ được diễn đạt bằng những dấu chỉ khả giác, bao gồm lời nói, cử chỉ và các biểu tượng, như: bánh, rượu, nước, dầu... và được thể hiện cách khác nhau, theo từng dấu chỉ, như: các Bí Tích, Lời Chúa, lời cầu nguyện, và hát Thánh vịnh (PV 7).
4. Phụng vụ giúp tăng cường đức tin, củng cố đức Cậy và phát huy đức Mến cho tín hữu, để chính đời sống họ có thể biểu hiện Hội Thánh như dấu hiệu hữu hình của mối hiệp thông giữa Thiên Chúa, với con người và với vũ trụ vạn vật, nhờ biết sống hiệp thông trong tình yêu, và ăn ở xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận (PV 10).
5. Phụng vụ có tính cách chung
Phụng vụ làm cho tín hữu đang lữ hành trên trần thế, được cảm mến trước Phụng Vụ trên trời: "Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa... Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang" (PV 8).
VI. KITÔ HỮU VỚI PHỤNG VỤ
Kitô hữu Việt Nam đang sống trong lòng một dân tộc có nhiều lễ hội phong phú, như: lễ Tết Nguyên Đán, lễ Tết Trung Thu, lễ giỗ tổ Hùng Vương, lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc, lễ cưới, lễ giỗ, lễ an táng...
Kitô hữu cũng đang sống trong Hội Thánh có nhiều lễ Phụng vụ đầy ý nghĩa sâu sắc như: lễ Giáng Sinh, nhất là Tuần Thánh và lễ Phục sinh, các lễ kính Đức Maria, kính các Thánh... Khi Kitô hữu tham dự các lễ hội của dân tộc, hoặc lễ Phụng Vụ, cần tìm hiểu và suy nghĩ để áp dụng nguyên tắc "dĩ lễ tồn tâm" cho hợp với tinh thần Kitô giáo.
1. Nhờ lễ nghĩa để bảo tồn chân tâm: Lễ nghĩa đây không phải chỉ là nghi lễ bề ngoài với những lời nói suông, những cử chỉ hành động theo thói quen máy móc hoặc giả tạo, những hình thức có tính dị đoan mê tín (tin tưởng mù quáng nhảm nhí). Lễ nghĩa đích thực bao gồm lời nói, cử chỉ hành động phát xuất từ lòng thành, từ chân tâm. Tâm là tim, là lòng, có ý chỉ tinh thần, tình nghĩa, tình cảm đối với người khác, với gia đình hay dân tộc... bao gồm lòng biết ơn, trân trọng, yêu thương, để đền đáp ơn đáp nghĩa. Cái tâm ấy phải chân thành và chung thủy. Chân tâm là lòng thành, và lòng thành làm cho nghi lễ có tình nghĩa chân thật, không giả dối giả hình.
2. Nhờ phụng vụ để "thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật" (Ga 4,23).
Phụng vụ cũng dùng những lễ nghĩa do Chúa Kitô thiết lập và chủ động, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, để duy trì và bảo tồn cho mọi người trong Hội Thánh cùng có một tấm lòng thành, một chân tâm, vừa biết đón nhận mọi hồng ân cứu độ của Chúa Cha, với tâm tình cảm tạ tôn vinh trong Thần khí và sự thật, vừa biết thông truyền những hồng ân đó cho thế giới một cách hữu hiệu.
Vì thế, Kitô hữu phải tham dự Phụng vụ "một cách có ý thức, chủ động và hữu hiệu" với "một tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, chân thật, hòa hợp tâm trí mình với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời" (PV 11). Nhờ đó, Kitô hữu có thể "sống hiệp thông trong tình yêu với Thiên Chúa và mọi người... được nung nấu và lôi cuốn vào trong tình yêu thúc bách của Chúa Kitô" (PV 10), để trong đời sống thường ngày họ luôn "giữ trọn những điều Chúa Kitô đã dạy (Mt 25,20) và tham gia mọi công cuộc bác ái, đạo đức và tông đồ (PV 9).

Bài 27
BÍ TÍCH
(x. SGLC từ 113 đến 1134)

"Như Chúa Kitô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông đồ đi như vậy... để các ngài thực thi công việc cứu chuộc mà các ngài loan báo, nhờ Hiến tế Thánh Thể và các Bí tích, trung tâm điểm của toàn thể đới sống Phụng vụ" (PV 6).


Bí tích chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt Phụng vụ của Hội Thánh. Có 7 Bí tích: Thánh Thẩy, Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối. Trước khi tìm hiểu từng Bí tích cần có cái nhìn tổng quát về ý nghĩa của Bí tích trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

I. BÍ TÍCH CỦA CHÚA KITÔ
Gọi Bí Tích là Bí tích của Chúa Kitô vì "tất cả các Bí tích của luật mới đều do Đức Giêsu Kitô thiết lập" (DS 1600-1601).
Tất cả mọi lời nói và hành động của Đức Giêsu trong cuộc sống trần thế đã mang giá trị cứu độ. Những lời nói và hành động ấy thực hiện trước năng lực của Mầu Nhiệm Vượt Qua. Và khi mọi sự được hoàn thành, Ngài trao ban năng lực ấy cho Hội Thánh, để rồi qua các thừa tác viên trong Hội Thánh, Chúa Kitô tiếp tục ban phát năng lực cứu độ cho con người khi họ lãnh nhận Bí tích. Vì thế, các Bí tích là những kÿ công của Thiên Chúa trong Giao ước mới và vĩnh cửu.
II. BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH
Chúa Kitô đã không ấn định cách minh nhiên (rõ ràng) con số 7 của Bí tích. Nhưng theo dòng thời gian, trong sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tư cách là người quản lý trung thành các Mầu nhiệm của Thiên Chúa (1Cr 4,1), Hội Thánh đã xác định 7 Bí tích.
Hội Thánh cử hành Bí tích qua các thừa tác viên của mình, nhờ Bí tích Thánh tẩy, mọi tín hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Chúa Kitô. Ngoài ra, nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, còn có một số tín hữu lãnh nhận chức tư tế thừa tác, bắt nguồn từ sứ mạng Chúa Kitô trao phó cho các Tông đồ, và các Tông đồ trao lại cho các người kế vị. Vì thế, thừa tác viên cử hành là sợi dây nối kết hành động Bí tích với chính Chúa Kitô, suối nguồn và nền tảng mọi Bí tích.
Ngoài ân sủng được trao ban, khi lãnh nhận ba Bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, người tín hữu còn được ghi dấu đặc biệt, gọi là Tích Ấn, nhờ đó họ tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô và đời sống Hội Thánh, với những nhiệm vụ khác nhau. Tích Ấn là dấu không thể xóa nhòa, và vì thế, đối với 3 Bí tích này, người tín hữu chỉ lãnh nhận một lần mà thôi.
III. BÍ TÍCH ĐỨC TIN
Bí tích còn được gọi là Bí tích Đức Tin, vì lãnh nhận Bí tích giả thiết phải có đức tin, đồng thời cử hành Bí tích là diễn tả và nuôi dưỡng đức tin.
Khi Chúa Kitô trao phó sứ mạng cho các tông đồ, Ngài nói: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 18, 18-20). Như thế, để được thanh tẩy, nghĩa là cử hành Bí tích, phải được nghe Lời Chúa và qui thuận với Lời, tức là đức tin.
Đồng thời, khi cử hành Bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin được đón nhận từ các Tông đồ, vì thế mới có câu "Lex orandi, lex credendi" (Luật cầu nguyện là Luật tin). Hội Thánh tin khi Hội Thánh cầu nguyện và cử hành Bí tích. Và khi người tín hữu lãnh nhận Bí tích Hội Thánh cử hành, đức tin của họ được nuôi dưỡng và phát triển.
IV. BÍ TÍCH BAN ƠN CỨU ĐỘ VÀ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Thánh Âu Tinh định nghĩa Bí Tích là Dấu chỉ hiệu nghiệm, vì không những Bí tích là dấu chỉ hữu hình diễn tả ân sủng vô hình, mà Bí tích còn chuyển thông ân sủng nữa. có được như thế, là vì chính Chúa Kitô hành động trong Bí tích nhờ Thánh Thần của Ngài (PV 7).
Cũng vì thế, hiệu quả của Bí tích được gọi là Hiệu quả do sự (ex opere operato), nghĩa là do chính việc cử hành Bí tích phù hợp với ý muốn của Hội Thánh, chứ không phải do sự thánh thiện của cá nhân thừa tác viên cử hành. Tuy nhiên hiệu quả của Bí tích cũng còn tùy thuộc vào thái độ và tình trạng của người lãnh nhận.
Hội Thánh xác quyết rằng: đối với người tín hữu, các Bí tích của Giao Ước mới cần thiết để được cứu độ. Ân sủng Bí tích chính là Thánh Thần làm cho ta nên con cái Thiên Chúa, giúp ta được kết hợp với Đấng Cứu độ, và được thần hóa, được tham dự vào sự sống của chính Thiên Chúa (x. 2Pr. 1,4).
Cũng vì thế, khi nhận lãnh ân sủng Bí tích, ta đã được tham dự vào sự sống đời đời ngay từ bây giờ "trong khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta ngự đến" (Tt 2,13). Maranatha, "Lạy Đức Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20).
V. BÍ TÍCH TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Bảy Bí tích trải suốt cuộc sống con người, và thánh hóa những thời điểm quan trọng nhất của đời người: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, lìa đời. Như thế, qua cử hành Bí tích, ở những thời điểm quyết định nhất, và mỗi ngày, Chúa Kitô nói với ta: "Cha ở với con". Ngày xưa Chúa Kitô đã ở với những người cùng thời để chữa lành bệnh tật, xoa dịu khổ đau, thứ tha tội lỗi, tặng ban sự sống. Ngày nay, Chúa Kitô vẫn tiếp tục ở với ta, và có ngài là có tất cả. "Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Chúa Kitô, và được kết hợp với Ngài" (Phil 3,8-9).
Ý thức đó thúc đẩy ta đón nhận và cử hành các Bí tích với tất cả đức tin, để đi vào cuộc gặp gỡ chính Chúa Kitô qua Hội Thánh, cuộc gặp gỡ hồng phúc, vì là cuộc gặp gỡ ban Ơn Cứu Độ.

Bài 28

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương