HỘI ĐỒng giám mục việt nam giáo lý giáo hội công giáo biên soạN CHO giáo dân việt nam



tải về 1.61 Mb.
trang11/23
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.61 Mb.
#33085
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   23

HỘI THÁNH CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
(x. SGLC từ 1136 đến 1209)
"Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh.... Nhưng muốn thâu đạt được hiểu năng toàn vẹn ấy, tín hữu cần đến tham dự Phụng vụ Thánh với tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, ngay thẳng, hòa hợp với tâm trí mình, với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời, để đừng nhận lãnh ơn sủng đó cách vô ích". (PV 10.11)

I. AI CỬ HÀNH?
Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là gồm cả Đầu cùng các chi thể của Ngài (PV 7). Có những chi thể đang được chung hưởng hạnh phúc trọn vẹn với Thiên Chúa, ở đó, các ngài cử hành Phụng vụ Thiên quốc nhờ Chúa Kitô "đang ngự bên hữu Thiên Chúa như thừa tác viên của Cung Thánh, của Nhà Trạm đích thực" (PV 7). Còn Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta tham dự bằng cảm mến trước Phụng vu Thiên quốc, nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa.
Vì Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nên sinh hoạt phụng vụ không phải là sinh hoạt riêng tư, nhưng là những cử hành của Hội Thánh. Cũng chính vì thế, Hội Thánh khuyến khích việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc, và có vẻ riêng tư (PV 26-27).
Cộng đoàn cử hành phụng vụ là cộng đoàn những người đã được rửa tội và được chia sẻ chức năng tư tế của Chúa Kitô (GH 10). Tuy nhiên khi cử hành, không phải ai cũng có chức năng như nhau. Các Giám mục, Linh mục và phó tế là những người được tuyển chọn và thánh hiến qua Bí tích Truyền Chức Thánh; vì thế, các ngài hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu, để phục vụ cho mọi chi thể. Ngoài ra, còn có các thừa tác vụ khác: đọc sách, dẫn giải, giúp lễ, ca đoàn. Tất cả mọi người "chỉ thi hành trọn những gì thuộc lãnh vực của mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ" (28).
II. CỬ HÀNH THẾ NÀO?
1. Dấu chỉ và biểu tượng:
Dấu chỉ và biểu tượng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và sinh hoạt của con người. Vì vừa có tinh thần, vừa có thể xác, con người diễn tả nội dung tinh thần qua những dấu hiệu của thân xác và vật chất. Đồng thời những dấu hiệu đó còn là phương thế để con người trao đổi, giao tiếp với tha nhân.
Khi Thiên Chúa nói với con người, Ngài cũng nói qua các tạo vật hữu hình. Qua thế giới vật chất, con người nhận ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cũng vì thế, những thực tại vật chất có thể trở thành phương thế diễn tả hoạt động của Thiên Chúa thánh hóa con người: dội nước, xức dầu, bẻ bánh.
Trong Cựu Ước, dân Chúa lãnh nhận từ Thiên Chúa những dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt, diễn tả giao ước cũng như kÿ công của Thiên Chúa. Có thể nhắc đến những dấu chỉ và biểu tượng: cắt bì, xức dầu, đặt tay, hiến lễ, và đặc biệt là lễ Vượt Qua.
Khi Chúa Kitô đến, Ngài đã dùng những hình ảnh trong sinh hoạt đời thường của con người, để giúp họ hiểu về Nước Trời; Ngài đã thực hiện các phép lạ qua những cử chỉ biểu tượng và dấu chỉ thể lý. Đồng thời Ngài mang lại ý nghĩa mới cho những dấu chỉ thời Cựu ước.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện công cuộc thánh hóa ngang qua các dấu chỉ Bí tích. Các dấu chỉ này được lấy ra từ sinh hoạt thiên nhiên và đời sống xã hội cũng như từ Cựu Ước, nhưng Hội Thánh thanh tẩy chúng để diễn tả và hiện tại hóa công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
2. Lời và hành động:
Cử hành Bí tích là thực hiện cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là con cái. Cuộc gặp gỡ và đối thoại ấy được thể hiện qua lời nói và hành động. Vì thế, trong cử hành Bí tích, phụng vụ Lời Chúa và những cử chỉ gắn liền với nhau: lời diễn tả ý nghĩa của hành động, và hành động thực hiện nội dung của lời.
Để nuôi dưỡng đức tin của tín hữu, cần nhấn mạnh đến những dấu chỉ kèm theo việc công bố Lời như: Rước sách Lời Chúa, Nơi công bố Lời, bài giảng của chủ tế, lời đáp trả của cộng đoàn.


3. Thánh nhạc trong Phụng vụ:
Ngay từ trong Cựu Ước, cử hành Phụng vụ đã gắn liền với việc hát Thánh vịnh, cùng với nhạc khí kèm theo; và Hội Thánh tiếp nối truyền thống tốt đẹp này. Để thực hiện đúng chức năng của mình, Thánh nhạc phải hội đủ ba yếu tố cần thiết: giúp phát triển lời cầu nguyện, cổ võ sự đồng thanh nhất trí của cộng đoàn, và làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng (PV 112).
Hội Thánh cũng khuyến khích việc đưa âm nhạc truyền thống của mỗi dân tộc vào cử hành phụng vụ, và nhờ đó cử hành phụng vụ sẽ sinh động và ích lợi hơn.
"Phải quí trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó địa vị thích hợp; đồng thời đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào Phụng vu (PV 119).
4. Ảnh tượng:
Mục đích của ảnh tượng là để trình bày Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, và sứ điệp Tin Mừng của Ngài. Những ảnh tượng tôn kính Mẹ Maria và các Thánh cũng qui về mục đích ấy.
Chiêm ngắm ảnh tượng cùng với suy gẫm Lời Chúa và hát thánh thi phụng vụ, tất cả tạo nên sự hài hòa nhằm đưa mầu nhiệm được cử hành vào sâu trong tâm khảm người tín hữu, để rồi được diễn đạt ra trong cuộc sống hằng ngày.
III. CỬ HÀNH KHI NÀO?
1. Mùa Phụng vụ:
Ngay từ thời Cựu ước, dân Chúa đã có những ngày lễ cố định hằng năm để tưởng nhớ và tạ ơn Chúa vì những kÿ công Ngài thực hiện; đồng thời giáo huấn các thế hệ sau.
Hội Thánh hôm nay cũng cử hành phụng vụ vào những ngày cố định để tôn vinh mầu nhiệm Chúa Kitô, nhờ đó "Hội Thánh rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn Ơn Cứu Chuộc" (PV 102).
2. Chúa Nhật:
Chúa Nhật là ngày của Chúa, ngày Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh. Vì Chúa Nhật có tầm quan trọng đặc biệt nên "phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc" (PV 106).
Tâm điểm của Chúa Nhật là Thánh lễ "Trong ngày đó, các tín hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự Sống lại và vinh quang của Đức Giêsu; đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã dùng sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô từ trong cõi chết, mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động" (PV 106).
3. Năm Phụng vụ:
Lễ Phục Sinh là cao điểm của năm Phụng Vụ, trong đó Hội Thánh cử hành hết sức trọng thể mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, cùng với cuộc thương khó hồng phúc của Ngài.

Ngoài ra, Hội Thánh còn "trình bày trọn mầu nhiệm Chúa Kitô qua chu kỳ một năm, từ Nhập thể, Giáng Sinh đến Thăng Thiên, Hiện xuống, cùng với sự mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Chúa lại đến" (PV 102).


Như vậy, mỗi năm Phụng vụ, theo thứ tự, người tín hữu sẽ đi qua các Mùa:
- Mùa Vọng
- Mùa Giáng Sinh
- Mùa Chay
- Mùa Phục Sinh
- Mùa Thường Niên.
Ngoài ra, trong Năm Phụng vụ, Hội Thánh còn "tôn vinh Đức Maria vinh hiển - Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly". Đồng thời Hội Thánh cũng kính nhớ các Thánh Tử Đạo và các Thánh khác; qua đó, Hội Thánh công bố mầu nhiệm phục sinh nơi các ngài và trình bày cho các tín hữu những gương mẫu tuyệt vời, lôi kéo họ đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô (PV 103-104).
4. Phụng vụ các giờ kinh:
Kinh Nhật tụng là tiếng nói của Hội Thánh, nghĩa là của toàn thể Nhiệm thể công cộng ngợi khen Thiên Chúa và cầu bầu cho phần rỗi của cả thế giới (PV 83-99). Đồng thời Kinh Nhật tụng còn nhằm mục đích thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa (PV 84), và là nguồn đạo đức, của ăn cho kinh nguyện riêng tư. Vì thế, Kinh Nhật tụng chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh.
Để việc cử hành phụng vụ các giờ kinh mang lại kết quả phong phú, không những người đọc cần hòa hợp tâm trí với lời mình đọc, mà còn phải trau dồi kiến thức về phụng vụ và Kinh Thánh, nhất là về các Thánh Vịnh (PV 90).
IV. CỬ HÀNH Ở ĐÂU?
"Việc thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý" (Ga,4,24) không bắt buộc phải gắn bó với nơi chốn cố định nào. Vì chính Thân Mình Chúa Kitô Phục Sinh là đền thờ thiêng liêng, tuôn chảy dòng nước ban sự sống, nên khi các tín hữu tụ họp lại, liên kết với Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, họ trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa (x. 2Cr. 6,16).
Tuy nhiên, khi hoàn cảnh cho phép, người tín hữu xây dựng các nhà thờ làm nơi thờ phượng. Nhà thờ là Nhà Cầu Nguyện, là nơi ở của Chúa, cụ thể hóa hình ảnh của Hội Thánh đang hiện diện nơi đó, và chính nơi đó Chúa Kitô hiện diện và hành động để cứu độ con người.
Cuối cùng, nhà thờ mang ý nghĩa cánh chung. Nhà thờ là biểu trưng cho nhà Cha trên trời mà chúng ta đang đi tới. Bước qua ngưỡng cửa để vào bên trong, nhà thờ là biểu tượng cho việc đi từ thế giới tội lỗi mà vào đời sống mới. Vì thế, nhà thờ là nhà của mọi con cái Thiên Chúa, luôn luôn rộng mở và chào đón mọi người.

V. SỐNG TÂM TÌNH PHỤNG VỤ
1. "Các hoạt động phụng vụ không phải là hoạt động riêng tư, nhưng là cử hành của Hội Thánh... phải quí chuộng việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc và có vẻ riêng tư" (PV 26,27) Như thế mỗi khi cử hành phụng vụ, cụ thể nhất là phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta cần tham dự thật tích cực, bằng lời kinh, tiếng hát, những câu tung hô và cả những cử chỉ bên ngoài; để diễn tả ý nghĩa cộng đoàn của cử hành phụng vụ.
2. Thiên Chúa vẫn đến với ta qua những dấu chỉ. Hầu hết các gia đình công giáo đều trưng bày ảnh tượng Thánh trong nhà, để nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của Chúa. Hơn thế nữa, nếu chúng ta nhậy bén, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện qua nhiều dấu chỉ khác của đời thường: từ phong cảnh thiên nhiên đến nụ cười của trẻ thơ, nỗi đau của người nghèo... Tất cả đều có thể nhắc nhở ta về sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.

Bài 29
BÍ TÍCH THÁNH TẨY
(x. SGLC từ 1213 đến 1284)

"Thật, tôi bảo thật ông: không có ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi Nước và Thần Khí. Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là Thần Khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: Các ông cần được sinh ra bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết nó từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần khí mà sinh ra thì cũng vậy" (Ga 3, 15-16)


"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 15, 15-16).

Bí tích Thánh Tẩy là bước đầu tiên trong hành trình gia nhập Kitô giáo. Đời sống Kitô hữu chỉ thực sự bắt đầu với Thánh Tẩy. Bởi vì Bí tích Thánh tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô giáo, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh, và các Bí tích khác.


I. Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY.
Tên gọi "Thánh Tẩy" bắt nguồn từ nghi thức chính yếu của việc cử hành Bí tích này: người dự tòng được "dìm xuống nước", "ngụp lặn trong nước” hay được đổ nước trên đầu, nói lên ý nghĩa được mai táng với Đức Giêsu trong cái chết, để được sống lại với Người, trở thành "thọ tạo mới" (2Cr 5,17; G1 6,5). Đây cũng là "Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới" (Tt 3,5). Nhờ "sinh ra bởi nước và Thần Khí", người được rửa tội nhận được "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người (Ga 1,9), họ trở thành "con cái ánh sáng (1Tx 5,5) và là ánh sáng" (Ep 5,8).

II. BÍ TÍCH THÁNH TẨY TRONG CUỘC CỨU RỖI
Trong Phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh, khi thánh hóa nước rửa tội, Hội Thánh nhắc lại những biến cố lớn trong lịch sử cứu độ, báo trước Bí tích Thánh tẩy. Ngay từ buổi đầu sáng thế, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước, để ban cho nước có khả năng phát sinh sự sống (x. St 1,1-2). Nước đại hồng thủy vừa hủy diệt tội lỗi, vừa cứu thoát gia đình ông Nôê. Hội Thánh thấy con tàu Nôê báo trước ơn cứu độ nhờ Bí tích Thánh tẩy. Nước Biển Đỏ đã giết chết dân tội lỗi, và giải thoát dân Thiên Chúa (x. Xh 14, 1-31). "Chúa đã giải thoát con cháu Abraham khỏi vòng nô lệ, mà dẫn qua Biển Đỏ ráo chân, để họ tượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được Thánh tẩy sau này" (Vọng Phục Sinh, làm phép Nước Rửa Tội).
Nước tượng trưng cho sự sống, nhưng nước cũng tượng trưng cho sự chết. Bởi vậy, nước Thánh Tẩy có thể tượng trưng cho Mầu Nhiệm Vượt Qua: được rửa tội là cùng chết với Đức Kitô, và cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).

Đức Giêsu đã đến để thực hiện và hoàn tất những hình ảnh về Bí tích Thánh Tẩy được loan báo trong Cựu Ước. Người đã tự nguyện hạ mình để cho ông Gioan làm phép rửa tại sông Giođan, hầu báo trước Bí tích Thánh Tẩy mà Người sẽ thiết lập trong mầu nhiệm Phục Sinh. Máu và Nước từ cạnh sườn Chúa chịu đóng đinh trên thập giá (x.Ga 19,3-4) ám chỉ Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thánh Thể. Và từ giây phút ấy, chúng ta có thể được "sinh ra bởi nước và Thần Khí" để "có thể được vào Nước Thiên Chúa" (Ga 3,5.


Ngay từ Lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh đã cử hành Bí tích Thánh Tẩy (x. Cv 2,38), sau đó các tông đồ và những cộng tác viên đã ban phép Thánh tẩy cho tất cả những ai kính Đức Giêsu: người Do Thái cũng như người ngoại giáo (x. Cv 2,41; 8, 12-13; 10, 48; 16, 15).
III. SỰ CẦN THIẾT CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Chính Đức Giêsu khẳng định Bí tích Thánh tẩy là cần thiết để được cứu độ (x. Ga 3,5), và Hội Thánh cũng quả quyết theo Chúa mình, vì Hội Thánh không có phương thế nào khác ngoài Bí tích Thánh tẩy, bảo đảm cho con người được hưởng hạnh phúc đời đời. Vì thế, Thánh tẩy được coi là Bí tích quan trọng nhất, và cần thiết nhất, mặc dù không cao trọng bằng bằng Bí tích Thánh Thể. Cha mẹ Kitô giáo phải lo cho con cái sinh ra được rửa tội trong vòng một tháng. Thừa tác viên thông thường của Bí tích Thánh Tẩy là Giám mục, Linh mục và Phó tế. Trong trường hợp khẩn thiết, thì bất cứ ai (kể cả người ngoại) cũng có thể rửa tội, miễn là có ý muốn làm điều Hội Thánh làm khi rửa tội, và sử dụng công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Tuy nhiên không chỉ có Thánh Tẩy bằng nước mới đưa đến ơn cứu độ: đây là đường lối chính thức và thông thường. "Thiên Chúa đã liên kết ơn cứu độ với Bí tích Thánh Tẩy, nhưng chính Người không bị các bí tích ràng buộc". Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (x. 1Tm 2,4) nên ai sống theo lương tâm và thi hành ý muốn Thiên Chúa, cũng có thể được cứu độ (x. GH 16). "Vì Chúa Kitô đã chết cho tất cả, và vì mọi người chỉ có một ơn gọi cuối cùng là kết hợp với Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, cách nào đó, chỉ có Chúa biết thôi" (MV 22).
Những người chịu chết vì đức tin mà chưa được rửa tội, thì được coi như Thánh Tẩy bằng máu (thí dụ các Thánh Anh Hài). Những người ước muốn được Thánh tẩy, dù chưa theo đạo hay đang thời kỳ dự tòng, mà chết trước khi được toại nguyện, được kể vào trường hợp Thánh tẩy bằng ước muốn. Riêng các trẻ em chết mà chưa được rửa tội, Hội Thánh tin tưởng phó thác các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa, và hy vọng có một con đường cứu độ dành cho các em (x. Nghi thức an táng trẻ nhỏ).
IV. ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Người Kitô hữu đã chịu Thánh tẩy là người đã chết cho tội lỗi để sống cho Thiên Chúa (x. Rm 6,11), do vậy hai hiệu quả chính của Bí tích Thanh tẩy là rửa sạch tội lỗi và sinh lại trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Ga 3,5).
- Được tha thứ tội lỗi: Mọi tội lỗi đều được tha: tội nguyên tổ, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội. Tuy nhiên, vẫn còn đau khổ, bệnh tật, yếu đuối và sự hướng chiều về tội lỗi. vì thế, cuộc sống Kitô hữu là cuộc chiến đấu cam go và liên tục, chống lại tội lỗi và các khuynh hướng xấu.
- Trở nên thụ tạo mới: (x. 2Cr 5,7) Bí tích Thánh tẩy làm cho một người thành một con người mới, thành nghĩa tử của Chúa Cha (x. G1 4,5-7) "được thông phần bản tính Thiên Chúa" 2Pr 1,4), thành chi thể của Chúa Kitô (x. 1Cr 6,19; 12,27), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x 1Cr 6,19). Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa và ơn công chính hóa, cùng với ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, các hồng ân Chúa Thánh Thần, và các nhân đức khác. Tất cả đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí tích Thánh tẩy.
- Tháp nhập vào Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô: Bí tích Thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô, là Hội Thánh (x. 1Cr 12,13) "thành những viên đá sống động... để xây nên đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế Thánh" (x 1pr 2,5). Họ tham dự vào chức tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô. Trở thành phần tử của Hội Thánh, người Kitô hữu liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô và với anh em. Họ được quyền lãnh nhận các Bí tích sự sống, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh trợ giúp thiêng liêng. Đồng thời họ có bổn phận xây dựng Hội Thánh bằng tình hiệp thông và phục vụ nhau, vâng lời các vị lãnh đạo, tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của dân Thiên Chúa (x. GH 17; TG 7,23). Cũng phải nói thêm là: Bí tích Thánh tẩy không chỉ là mối giây hiệp nhất giữa những người Công giáo, mà còn giữa tất cả các Kitô hữu, những anh em Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo, đã được rửa tội đúng phép, nhưng chưa hoàn toàn hiệp thông với Hội Thánh Công giáo.
- Dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa:
Được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Chúa Kitô (x Rm 8,29) nhờ Thánh Tẩy, người Kitô hữu được ghi một dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa. Vì thế, mỗi người chỉ nhận Bí tích Thánh tẩy một lần mà thôi. Dấu ấn này xác nhận người Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô, hiến thánh họ để thi hành chức tư tế cộng đồng bằng việc tham dự vào việc phụng vụ của Hội Thánh, bằng đời sống thánh thiện và chứng nhân. Người Kitô hữu phải gìn giữ dấu ấn này cho đến cùng, nghĩa là trung thành với những đòi hỏi của Bí tích Thánh Tẩy, để được hưởng sự sống và vinh quang Thiên Chúa.
V. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Ý nghĩa và ân sủng của Bí tích Thánh tẩy được trình bày rõ ràng trong các nghi thức cử hành. Qua các cử chỉ và lời nói, chúng ta hiểu được sự phong phú mà Bí tích biểu thị và thực hiện nơi người tân tòng.
- Dấu Thánh giá được ghi trên trán người dự tòng, cho thấy họ thuộc về Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại nhờ Thánh Giá.
- Việc công bố Lời Chúa soi sáng Người dự tòng và cộng đoàn, đồng thời gợi lên lời đáp trả của đức tin.
- Lời nguyện trừ tà được vị chủ sự đọc cùng với việc xức dầu dự tòng giải thoát họ khỏi tội lỗi và khỏi ma quỉ, rồi họ công khai từ bỏ Xatan.
- Nước rửa tội được thánh hiến nhờ quyền năng Thánh Thần, để người dự tòng được "sinh ra bởi nước và Thần Khí" (Ga 3,5).
- Nghi thức chính yếu là đổ nước ba lần trên đầu người dự tòng (hoặc dìm xuống ba lần) nói lên và thực hiện việc chết đối với tội lỗi, và bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Việc xức dầu Thánh làm cho người tân tòng trở nên Kitô hữu, nghĩa là "được xức dầu" bằng Chúa Thánh Thần, để tham dự vào chức tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô.

- Áo trắng trao cho người tân tòng, tượng trưng "mặc lấy Chúa Kitô" (G1 3,27).
- Nến sáng được thắp từ cây nến Phục Sinh, biểu thị Chúa Kitô soi sáng người tân tòng, và nhờ đó trở thành "ánh sáng cho trần gian" (mt 5,14); xP1 2,15).

Sau cùng là Kinh Lạy Cha phép lành trọng thể.


VI. AI CÓ THỂ NHẬN LÃNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY?
Tất cả những người chưa được rửa tội đều có thể nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy. Bí tích Thánh Tẩy trong Hội Thánh Công giáo thường được ban cho người lớn cũng như trẻ em.
* Rửa tội cho người lớn:
Ngay từ thời các tông đồ, người lớn nhập đạo phải trải qua thời kỳ dự tòng gồm nhiều giai đoạn. Công đồng Vatican II đã tái lập thời kỳ dự tòng dành cho người lớn (x. Nghi thức gia nhập Kitô giáo dành cho người lớn - 1972). Thời kỳ dự tòng hoặc thời gian huấn luyện gồm việc dạy giáo lý kèm theo những nghi thức phụng vụ, có mục đích giúp đương sự đáp lại lời mời cứu độ của Thiên Chúa, và hiệp thông với cộng đoàn Hội Thánh, hoán cải và tiến đến một đức tin trưởng thành, để sẵn sàng nhận lãnh ba Bí Tích nhập đạo. "Đây chính là thời gian huấn luyện đời sống Kitô giáo đầy đủ... để nhờ đó, môn đệ liên kết với Chúa Kitô là Thầy mình. Các người dự tòng được khai tâm về mầu nhiệm cứu rỗi, tập sống theo Phúc Âm, và qua các nghi lễ được cử hành theo từng giai đoạn, họ được đưa vào đời sống đức tin phụng vụ và bác ái của dân Chúa" (x. PV 64-65).
* Rửa tội cho trẻ em:
Có nhiều người đề nghị hoãn việc rửa tội cho trẻ sơ sinh tới khi chúng biết lựa chọn và ý thức được điều cam kết. Truyền thống rửa tội cho trẻ em được Hội Thánh xác nhận là bắt đầu từ thế kỷ thứ hai. Nhưng rất có thể ngay từ đầu, các Tông đồ cũng đã rửa tội cho trẻ em, khi có những gia đình mà "cả nhà" đều chịu phép rửa (x. Cv 16, 15 .. 33; 18,8; 1Cr 1,16). Cả người lớn lẫn trẻ em đều cần được tẩy xóa tội lỗi, và sinh ra trong đời sống mới, nhờ Bí tích Thánh tẩy. Thiên Chúa ban ơn cứu độ hoàn toàn nhưng không cho con người, cho nên nếu không cho trẻ em lãnh nhận Bí Tích Thánh tẩy để trở nên con cái Thiên Chúa là một thiệt thòi rất lớn. Do đó, Hội Thánh và cha mẹ phải lo cho các em được rửa tội càng sớm càng tốt sau khi sinh (x. G1 8,67).
VII. ĐỨC TIN VÀ BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Cũng như mọi Bí tích, Bí tích Thánh tẩy là Bí tích Đức tin. Bí tích Thánh Tẩy không những đòi hỏi phải có đức tin để lãnh nhận, mà còn thông ban đức tin. Hội Thánh ban Thánh tẩy cho trẻ nhỏ dựa trên đức tin của cộng đoàn, nhất là của cha mẹ và người đỡ đầu. Dù là của người lớn hay của trẻ nhỏ, đức tin của mỗi người tín hữu đều khơi nguồn và gắn liền với đức tin của Hội Thánh. Đức tin của những người đã được rửa tội chỉ mới là mầm mống và khởi đầu, cần được lớn lên tới mức trưởng thành.
Cha mẹ và người đỡ đầu được Hội Thánh trao cho trách nhiệm giúp đỡ những người đã được rửa tội (người lớn cũng như trẻ nhỏ) để ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy được phát triển. Họ phải dùng lời nói cũng như gương sáng của một đời sống đạo tốt lành, để giúp đỡ con cái hay con đỡ đầu. Hơn nữa, họ còn phải lo cho con cái hay con đỡ đầu được theo học giáo lý thích hợp với hoàn cảnh và tuổi tác. Toàn thể cộng đoàn Hội Thánh cũng có phần trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển ơn Thánh tẩy. Vì thế, hằng năm trong Đêm Vọng Phục Sinh, Hội Thánh cho các tín hữu nhắc lại lời hứa rửa tội.

VIII. SỐNG BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Người Kitô hữu chỉ lãnh nhận Thánh tẩy một lần trong đời, nhưng họ phải cố gắng sống ơn Thánh tẩy suốt cuộc đời. Sống ơn Thánh tẩy là nên Thánh. Công Đồng Vatican II đã kêu gọi mọi tín hữu nên Thánh như sau:
"Được Thiên Chúa kêu gọi, và được công chính hóa trong Đức Giêsu.... các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, bí tích Đức Tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa, và được thông phần vào bản tính Người. Và do đó, thực sự đã trở nên Thánh. Cho nên với ơn Chúa, họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận. Họ được thánh Tông đồ khuyên:
- Sống xứng đáng là các Thánh (Ep. 5,3).
- "Là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại" (C1 3,12).
- Và dùng hoa trái của Thánh Thần để thánh hóa mình (x. G1 5,22; Rm 6,22).
"Nhưng vì chúng ta ai cũng có nhiều lỗi lầm (x. Gc 3,2) nên chúng ta luôn cần đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, và hằng ngày phải cầu nguyện "xin tha nợ chúng con" (Mt 6,12).
Để đạt tới sự trọn lành đó, tín hữu phải sử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban, nhiều ít tùy ý Người, để nên giống Người khi theo vết chân Người, và khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng tìm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. (GH 40).

Bài 30
BÍ TÍCH THÊM SỨC
(x. SGLC từ 1285 đến 1321)
"Nhờ ơn Bí tích Thêm sức, tín hữu gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, và được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm, như những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô".

(GH 11).
Cũng như sự sống tự nhiên của thân xác, sự sống thần linh của người Kitô hữu do phép Thánh tẩy, cần lớn lên và đạt tới mức trưởng thành (x. Ep 4,13; C1 1,28). Bí tích Thêm sức được coi là Bí tích trưởng thành của đời sống Kitô hữu. Bí tích Thêm Sức củng cố và hoàn tất những hiệu quả của Bí tích Thánh tẩy. Cả hai Bí tích này biệt lập với nhau, nhưng bổ túc cho nhau và cùng với Bí tích Thánh Thể, làm nên bộ ba, hoàn thành hành trình gia nhập Kitô giáo.



tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương