Hai Số Phận



tải về 2.37 Mb.
Chế độ xem pdf
trang7/29
Chuyển đổi dữ liệu01.03.2024
Kích2.37 Mb.
#56685
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   29
Hai So Phan - Jeffrey Archer

Chúc mừng anh được hưởng học bổng Hamilton về toán vào trường đại


học Harvard. Chi tiết sẽ gửi sau.
Chủ tịch, Hiệu trưởng Lawrence Lowell.
Matthew sung sướng nhìn người bạn thân nhất của mình nay đã thành
công, nhưng anh cũng hơi buồn nghĩ đến bây giờ lại phải xa nhau. William
cũng cảm thấy nhưng không nói gì. Hai người lại phải chờ chín ngày nữa mới
biết được là Matthew cũng trúng tuyển vào trường Harvard.
Liền đó có một bức điện khác gửi đến, lần này là của ông Charles Lester
chúc mừng con trai và mời cả hai chàng về dự tiệc trà tại Khách sạn Plaza ở
New York. Cả hai cụ bà cũng có điện chúc mừng William, tuy nhiên bà nội
Kane cũng nói với Alan Lloyd rằng thằng bé đã làm được không ít hơn cái
người ta mong muốn ở nó và không nhiều hơn cái mà bố nó đã làm được
trước kia.
Vào ngày hẹn, hai chàng thanh niên tung tăng đi trên đại lộ Năm, trong
lòng hết sức tự hào. Các cô gái đi qua đường nhìn vào họ nhưng họ làm như
không để ý. Bước vào cửa khách sạn Plaza, họ đàng hoàng đi đến phòng lớn
bên trong có mọi người trong gia đình đang chờ đón. Hai cụ nội ngoại Kane
& Cabot ngồi ở mấy chiếc ghế bành giữa phòng, bên cạnh đó có một bà già
nữa William cho đó là bà nội của Matthew, giống như bà nội Kane của mình.
Rồi có ông bà Charles Lester, có cô con gái Susan (cô ta chẳng lúc nào rời
mắt khỏi William) và có Alan Lloyd. Còn hai ghế trống để đó chờ William và
Matthew.
Bà nội Kane vẫy gọi một người hầu đừng gần đó nói:
“Một ấm trà mới và đem thêm bánh đến nữa nhé.”
Người hầu chạy vội vào bếp đem trà và bánh ra ngay.
“Cha cháu còn sống thì hôm nay sẽ rất tự hào về cháu đó, William,” một
người lớn tuổi nói.
Người hầu đứng đó không hiểu anh thanh niên kia đã làm được cái gì mà
người ta phải khen như vậy. William thì không để ý gì lắm đến người hầu, trừ
có chiếc vòng bạc anh ta đeo ở cổ tay. Anh đoán có lẽ chiếc vòng bạc ấy là từ


nhà hàng Tiffany mà ra, nhưng anh lấy làm lạ tại sao người hầu kia lại có
được một thứ đồ trang sức giá trị như thế.
“William,” bà nội Kane nói. “Ăn hai bánh là đủ rồi. Đây không phải là
bữa ăn cuối cùng trước khi vào trường Harvard đâu.”
Anh quay nhìn bà nội một cách âu yếm, và rồi chợt quên đi chiếc vòng
bạc kia.


CHƯƠNG 
13
Đêm đó Abel nằm trong căn phòng nhỏ của anh ở khách sạn Plaza mà
không sao ngủ được. Anh nghĩ đến người con trai có tên là William mà người
ta bảo là nếu cha anh còn sống thì sẽ tự hào về anh ta. Tự nhiên anh cũng
thấy đó chính là điều anh muốn thực hiện. Anh muốn được người ta coi mình
là ngang hàng với những người như William trên đời này.
Từ khi đến New York, Abel đã phải trải qua một cuộc vật lộn gay go. Anh
về ở một căn phòng chỉ có hai giường, thế nhưng anh lại phải ở chung với
George và hai người anh em họ khác của George. Kết quả là Abel chỉ có thể
được ngủ khi nào một trong hai chiếc giường ấy không có người. Ông chú
của George không sao có việc làm ngay cho Abel được. Sau mấy tuần lễ rất
lo lắng vì tiêu gần hết số tiền tiết kiệm mà chưa tìm được việc gì mặc dầu
phải chạy đi chạy lại từ Brooklyn sang vùng Queens, cuối cùng anh xin được
một chỗ ở cửa hàng thịt. Họ trả cho anh chín đôla một tuần làm việc sáu ngày
rưỡi và chỉ cho anh được nằm ngoài hiên. Cửa hàng đó nằm giữa một khu
cộng đồng người Ba Lan nhỏ bé và nghèo ở phía Đông thành phố. Abel bắt
đầu lấy làm sốt ruột với tính cách sống biệt lập của đồng bào anh ở đây, trong
số đó còn có rất nhiều người không chịu học tiếng Anh.
Abel vẫn thường thấy George cứ mỗi ngày cuối tuần lại đi với các bạn gái,
hết cô này đến cô khác. Riêng anh, hầu hết các tối trong tuần đều đi học
trường đêm để nâng cao khả năng viết và đọc tiếng Anh. Anh không lấy làm
xấu hổ về chuyện mình học chậm, vì từ hồi tám tuổi đến giờ anh có dịp nào
được học nữa đâu. Trong hai năm, anh đã trở nên thông thạo với ngôn ngữ
mới này, hầu như khi nói ra không còn ngượng ngịu mấy nữa. Anh cảm thấy
mình đã sẵn sàng đi khỏi cửa hàng thịt này rồi. Nhưng đi đâu? Và đi bằng


cách nào? Bỗng một hôm trong khi đang chuẩn bị một cái chân cừu cho
khách, anh thoáng nghe thấy một trong những khách hàng quen là người
chuyên cung cấp lương thực cho khách sạn Plaza phàn nàn với chủ hàng là
ông ta sẽ phải đuổi một người phục vụ trẻ tuổi vì anh ta ăn cắp vặt. Ông ta
nói: “Gấp quá, tôi biết tìm đâu ra người thay thế bây giờ được?” Chủ hàng
không biết giúp ông ta giải quyết thế nào. Nhưng Abel thì biết ngay. Anh
khoác bộ quần áo duy nhất của mình vào, đi bộ suốt bốn mươi bảy khu phố
và qua năm quãng đường nữa vào thành phố nhận công việc nói trên.
Một khi yên thân ở Plaza rồi, anh ghi tên vào một lớp học đêm Anh ngữ
cấp cao ở trường Đại học Columbia. Đêm nào anh cũng học rất đều, một tay
mở từ điển, một tay viết lia lịa. Mỗi buổi sáng, giữa giờ phục vụ ăn sáng và
bày bàn cho bữa trưa, anh tranh thủ chép những bài xã luận của Thời báo
New York, mỗi khi gặp từ nào không chắc chắn thì lại giở cuốn từ điển
Webster cũ ra xem.
Ba năm sau đó, Abel leo dần lên các cấp phục vụ trong khách sạn Plaza
cho đến lúc anh được cử vào phục vụ trong phòng Gỗ Sồi, hưởng lương mỗi
tuần hai mươi lăm đôla với những khoản khách cho thêm. Trong cuộc sống
riêng của mình, Abel không còn thiếu gì nữa.
Ông thầy dạy Abel có ấn tượng tốt với những tiến bộ của anh, đã khuyên
Abel xin học thêm lớp ban đêm nữa để chuẩn bị thi lấy bằng Tú tài văn
chương. Lúc rỗi rãi anh chuyển từ chỗ đọc những bài báo về ngôn ngữ sang
đọc những bài về kinh tế, rồi bắt đầu chép riêng những bài trong Nhật báo
phố Wall chứ không chép những bài trong Thời báo nữa. Cái thế giới mới
này đối với anh hết sức hấp dẫn. Anh bị cuốn hút vào đó đến mức, ngoại trừ
George, còn những bạn Ba Lan cũ trước đây anh không gặp họ được vào lúc
nào nữa.
Trong khi phục vụ ở khách sạn Plaza, anh vẫn luôn luôn nghiên cứu tìm
hiểu về những người nổi tiếng của các gia đình Baker, Loeb, Whitney,
Morgan và Phelp
[11]
và cố hình dung được tại sao người giàu lại khác với
mọi người như vậy. Anh đọc Henry Louis Mencken
[12]
, đọc báo Mercury


Mỹ, đọc Scott Fitzgerald
[13]
, Sinclair Lewis và Theodore Dreiser
[14]
để có
thêm kiến thức càng nhiều càng tốt. Anh đọc kỹ từ Thời báo New York trong
khi những người phục vụ khác chỉ liếc qua tờ Tấm gương. Anh đọc tờ Nhật
báo phố Wall vào giờ nghỉ trong khi những người khác ngủ gà ngủ gật. Anh
không biết là những kiến thức mới này sẽ đưa anh đến đâu, nhưng anh không
một lúc nào nghi ngờ câu châm ngôn của Nam tước đã nói với anh rằng
không gì có thể thay thế được cho việc học hành tử tế.
Vào một ngày thứ năm của tháng Tám năm 1926 - anh nhớ rất kỹ ngày
này vì hôm đó Rudolph Valentino qua đời và rất nhiều bà đi mua sắm trên đại
lộ Năm đều mặc đồ đen để tang anh ta - Abel đang phục vụ như mọi ngày
thường ở một chiếc bàn góc phòng. Những bàn ở góc phòng bao giờ cũng
dành cho các nhà kinh doanh lớn, họ thường ngồi ăn một cách kín đáo và nói
chuyện riêng không ai nghe thấy được. Anh thích được phục vụ ở các bàn
đặc biệt này, vì đây là khu vực người ta bàn chuyện mở rộng kinh doanh và
qua những mẩu chuyện anh thoáng nghe được của họ thường có những thông
tin rất quý. Sau khi họ ăn xong, nếu khách là người của một ngân hàng hay
một công ty cổ phiếu lớn, Abel sẽ tìm cách kiểm tra giá cổ phiếu của những
công ty ấy. Nếu giọng điệu của những ông khách này trong khi nói chuyện có
vẻ lạc quan, thì anh sẽ đầu tư một trăm đôla vào công ty nhỏ với hy vọng sẽ
được công ty mẹ vực lên. Nếu vào cuối bữa ăn mà ông khách gọi mang xì gà
lên, Abel sẽ tăng tiền đầu tư lên hai trăm đôla. Cứ mười lần như vậy thì giá
cổ phiếu anh chọn theo kiểu đó chỉ trong sáu tháng đã tăng lên gấp đôi, cũng
tức là thời gian Abel bám lấy chứng khoán. Trong bốn năm làm việc ở khách
sạn Plaza và làm theo cách đó, anh chỉ mất tiền có ba lần thôi.
Trong việc phục vụ hôm nay, anh thấy có một điều rất không bình thường
ở cái bàn góc phòng này là khách đã gọi ngay xì gà ngay từ trước bữa ăn.
Abel nhìn vào sổ ghi khách đặt bàn trước thấy có tên là Woolworth. Abel gần
đây có nói đến tên ông ta nhưng anh không xác định ngay được. Còn ông
khách cũng ngồi kia là Charles Lester, khách thường xuyên của Plaza và là
một nhà ngân hàng có cỡ ở New York. Trong khi phục vụ bữa ăn, anh cố


nghe xem họ nói chuyện gì. Khách thì hoàn toàn không quan tâm gì đến
người phục vụ mặc dầu anh tỏ ra chú ý nghe họ bàn bạc. Abel không thể phát
hiện được chi tiết gì quan trọng, nhưng anh biết được loáng thoáng là sáng
hôm đó kết thúc một vụ làm ăn và đến cuối ngày người ta sẽ công bố. Anh
chợt nhớ ra. Anh đã đọc thấy tên ông này trên tờ báo Nhật ký phố Wall.
Woolworth chính là người có ông bố đã từng lập ra cửa hàng đầu tiên nổi
tiếng là chỉ bán những thứ từ năm đến mười xu. Ra bây giờ người con định đi
quyên vốn để mở rộng hệ thống cửa hàng ấy. Khi khách hàng ăn tráng miệng
- phần lớn khách đều chọn thứ bánh dâu pho-mát (do Abel gợi ý) - anh tranh
thủ ra ngoài phòng ăn một lúc rồi gọi điện cho đại diện của anh trên phố
Wall.
“Ông Woolworth đang buôn bán gì ấy nhỉ?” anh hỏi.
Đầu dây kia im lặng một chút rồi nói:
“Cổ phiếu thôi. Gần đây hoạt động lắm, không rõ tại sao.”
“Vào cuối ngày hôm nay nếu nghe thấy công ty thông báo thì anh lấy tài
khoản của tôi ra mua nhé.”
“Họ sẽ thông báo gì?” Người đại diện không hiểu hỏi lại.
“Lúc này chưa tiết lộ được,” Abel đáp.
Người đại diện chột dạ. Xưa nay anh ta vẫn biết là chớ hỏi kỹ về những
nguồn thông tin của khách hàng. Abel vội trở lại phòng Gỗ Sồi, vừa kịp để
đem cà phê lên cho khách. Họ còn ngồi nán lại một lúc và chỉ đến lúc họ
chuẩn bị ra về thì Abel mới quay lại bàn đó. Ông cầm biên lai cảm ơn Abel
về việc anh phục vụ chu đáo. Ông ta quay sang ông bạn rồi hỏi anh:
“Này, cậu em có muốn tiền thưởng không nào?”
“Dạ, cảm ơn ông,” Abel nói.
“Vậy thì cậu em nên mua cổ phiếu Woolworth.”
Hai người khách phá lên cười. Abel cũng cười, cầm lấy 5 đôla ông khách
chìa ra cho và cảm ơn ông ta. Trong sáu tuần sau đó, anh kiếm được 2.412


đôla lợi nhuận từ cổ phiếu Woolworth mà ra.
Mấy ngày sau, sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình, Abel được chấp nhận
vào quốc tịch Mỹ và anh quyết định nhân dịp này phải tổ chức liên hoan
chiêu đãi. Anh mời George với Monika đến dự. Monika là người tình mới
nhất của George. Ngoài ra còn có một cô gái tên là Clara, người tình cũ của
George. Anh rủ họ đi xem John Barrymore trong phim Don Juan, sau đó đến
nhà hàng Bingo ăn bữa tối. Hồi này, George vẫn chỉ là thợ tập việc trong lò
bánh của ông chú anh ta với lương tám đôla một tuần. Mặc dầu vẫn coi
George là bạn thân nhất, nhưng Abel hiểu là giữa hai người đã có sự khác
biệt vì George là một anh rỗng túi còn Abel thì đã có trên tám nghìn đôla gửi
ngân hàng và bây giờ đang là học sinh năm cuối của trường Đại học
Columbia chuẩn bị thi tú tài về kinh tế. Abel biết là mình đang đi đến đâu,
còn George thì bây giờ không dám mở miệng nói với ai rằng mình sẽ là thị
trưởng New York nữa.
Bốn người có một tối liên hoan rất vui, nhất là do Abel biết ăn ở chỗ nào
ngon. Ba người bạn kia được một phen chén thỏa thích. Khi nhà hàng đưa
biên lai ra, George hoảng sợ thấy số tiền của bữa ăn đó nhiều hơn lương
tháng của anh ta. Abel trả tiền một cách thản nhiên coi như số tiền đó chả
nghĩa lý gì. Vả lại, nếu đã không chịu được thế thì vào nhà hàng làm gì. Coi
như không, đừng nói gì hoặc đừng tỏ ra ngạc nhiên, đó là điều những người
giàu có đã dạy cho anh biết như thế.
Đến tận hai giờ sáng cuộc liên hoan mới kết thúc. George và Monika trở
về phía Đông cuối thành phố, còn Abel thì thấy mình được hưởng Clara. Anh
đưa cô ta vào phía cửa sau khách sạn Plaza qua thang máy chuyên chở đồ
giặt rồi đưa về phòng anh trong đó. Cô ta không chờ phải giục giã mới trèo
lên giường và Abel cũng vội vã vào nằm ngay với cô ta để còn ngủ một chút
sáng mai dậy sớm làm việc. Anh lấy làm hài lòng đã hoàn thành nhiệm vụ
với cô ta vào lúc hai giờ rưỡi sáng. Anh nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến
sáu giờ thì chuông đồng hồ gọi dậy. Lúc đó anh vẫn còn đủ thì giờ hành động
với Clara một lần nữa trước khi đứng dậy mặc quần áo.


Clara ngồi trên giường phụng phịu nhìn Abel thắt ca vát rồi hôn cô ta một
cái tạm biệt.
“Em nhớ lúc ra về cũng bằng lối cửa lúc đêm qua nhé, kẻo lôi thôi cho anh
lắm đấy,” Abel nói. “Bao giờ thì gặp lại em?”
“Anh không gặp lại đâu,” Clara lạnh lùng đáp.
“Tại sao thế?” Abel ngạc nhiên hỏi. “Anh làm gì đâu?”
“Không, chính là cái anh không làm ấy chứ.” Cô ta nhảy xuống giường và
vội vã mặc áo vào.
“Cái gì anh không làm?” Abel hỏi. “Em muốn đi ngủ với anh kia mà,
không phải thế à?”
Cô ta quay lại nhìn thẳng vào anh.
“Đúng là em muốn thế, nhưng về sau mới biết là anh với Valentino cũng
chả khác gì nhau, nghĩa là cả hai cùng chết rồi. Anh có thể là của quý khách
sạn Plaza vào những lúc người ta đói ăn, nhưng ở trên giường thì anh chẳng
là cái gì hết.” Mặc xong quần áo, cô ra cửa còn nắm lấy tay vịn và ngoái lại
nói. “Có lẽ anh chưa thuyết phục được cô nào đi nằm với anh phải không? -
Rồi đóng sầm cửa lại.”
Abel đứng ngớ người. Suốt ngày hôm đó, anh băn khoăn về câu nói của
Clara. Anh không thể tìm được một ai để bàn về vấn đề này. Có nói với
George chỉ tổ cho anh ta cười thêm. Còn nhân viên khách sạn Plaza thì ai
cũng tưởng anh biết đủ mọi thứ. Anh hiểu rằng vấn đề này, cũng như các vấn
đề khác anh đã gặp trên đường đời, đều có thể vượt qua được miễn là mình
hiểu biết và có kinh nghiệm.
Sau bữa trưa được nghỉ nửa ngày, anh tìm đến hiệu sách Scribner ở đại lộ
Năm. Trước đây cửa hàng này đã giúp anh giải quyết được nhiều vấn đề về
kinh tế và ngôn ngữ, nhưng anh không tìm ra được cái gì có vẻ như giúp anh
giải quyết được những vấn đề về tình dục. Các nhãn sách đều chẳng nói được
gì, và cuốn gọi là Khó xử về tinh thần thì hoàn toàn không thích hợp.


Abel bỏ hiệu sách đi ra, không mua gì, và cả buổi chiều la cà trong một
nhà hát bẩn thỉu ở đường Broadway, không xem chiếu bóng mà chỉ luẩn quẩn
suy nghĩ về điều Clara nói lúc sáng. Cuốn phim đang chiếu là một chuyện
tình có Greta Garbo đóng, mãi đến cuối phim mới có cảnh hôn hít, thành ra
cũng chẳng giúp đỡ gì hơn được cho anh so với hiệu sách Scribner.
Ở rạp chiếu bóng ra thì trời đã tối. Ngoài đường đang có gió lạnh. Abel
lấy làm lạ thấy về đêm đường phố cũng ồn ào và nhiều đèn sáng như ban
ngày vậy. Anh bắt đầu đi bộ lên đường 59, hy vọng gió mát sẽ làm cho đầu
óc mình tỉnh táo hơn chút ít. Anh dừng lại ở góc đường 52 để mua tờ báo
buổi chiều.
“Tìm gái hả?” một giọng nói ở góc đường bên quầy bán báo lên tiếng.
Abel ngẩng đầu lên nhìn. Bà ta chừng ba mươi lăm tuổi, mặt bự phấn sáp,
môi bôi một thứ son kiểu mới. Chiếc áo lụa trắng có một khuy đã cởi sẵn. Bà
ta mặc váy ngắn cũn cỡn.
“Chỉ năm đôla thôi, mất xu nào đáng xu ấy,” bà ta nói và vẹo mông sang
một bên để hở một đường bên váy lên đến tận bẹn.
“Ở đâu?” Abel hỏi.
“Có nhà riêng ở gần đây.”
Bà ta hất đầu chỉ cho Abel biết là hướng nào. Lần đầu tiên, Abel trông
thấy rõ mặt bà ta dưới ánh đèn đường. Bà ta cũng không phải không hấp dẫn.
Abel gật đầu đồng ý. Bà ta cầm lấy tay anh rồi hai người cùng đi.
“Nếu bị cảnh sát giữ thì anh bảo là bạn cũ và tên tôi là Joyce nhé,” bà ta
nói.
Họ đi đến đầu phố rồi vào một ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu có nhiều buồng cho
thuê. Abel kinh sợ thấy phòng bà ta nhếch nhác quá. Tất cả bên trong chỉ có
một bóng đèn trần, một chiếc ghế, một chậu rửa mặt với một chiếc giường
đôi ọp ẹp mà hình như trong ngày hôm đó đã được dùng đến nhiều lần.
“Chị ở đây à?” anh ngần ngại hỏi.


“Trời ơi, không đâu. Chỗ này chỉ để làm ăn thôi.”
“Tại sao chị làm chuyện này?” Abel hỏi, trong bụng nghĩ không biết mình
có nên tiếp tục kế hoạch này không.
“Tôi phải nuôi hai đứa con, mà chồng thì không có. Anh bảo còn cách nào
khác nữa? Nào, anh có muốn hay không đây?”
“Có nhưng không phải như chị nghĩ,” Abel nói.
Bà ta nhìn anh chột dạ.
“Anh không phải là cái đám chuyên hành hạ người ta như Hầu tước de
Sade
[15]
 đấy chứ?”
“Chắc chắn là không rồi,” Abel hỏi.
“Anh không châm thuốc lá vào người tôi chứ?”
“Không, không có chuyện đó đâu,” Abel giật mình đáp. “Tôi muốn được
chỉ bảo tử tế. Tôi muốn học.”
“Học? Anh nói đùa đấy à? Anh bạn thân mến, dễ anh tưởng đây là trường
đêm chuyên dạy về ngủ với gái sao?”
“Đại khái là như vậy,” Abel nói và ngồi xuống góc giường, nói lại cho bà
ta nghe đêm trước Clara đã phản ứng với anh thế nào. “Chị xem có thể giúp
tôi được không?”
Người đàn bà kia nhìn Abel một lúc lâu, tự hỏi không biết anh chàng này
có định bịp mình không.
“Được thôi,” bà ta nói. “Nhưng cứ mỗi buổi ba mươi phút là anh sẽ mất
năm đôla đấy.”
“Đắt hơn bằng tú tài Columbia,” Abel nói. “Tôi cần học mấy bài tất cả.”
“Còn tùy ở chỗ anh học nhanh hay chậm chứ,” bà ta nói.
“Được, ta bắt đầu luôn đi,” Abel nói và rút trong túi ra năm đôla.
Anh đưa tiền cho bà ta. Bà ta nhét tiền vào trong bít tất. Như vậy rõ ràng
là bà ta sẽ không cởi tất cả ra nữa.


“Cởi quần áo ra, anh bạn,” bà ta nói. “Mặc quần áo thế này thì chẳng học
được gì đâu.”
Anh cởi ra rồi, bà ta nhìn ngắm anh bằng con mắt thông thạo.
“Anh không phải như Douglas Fairbanks
[16]
, phải không nào? Nhưng thôi,
anh đừng lo. Tắt đèn đi rồi thì người anh thế nào cũng không quan trọng nữa.
Cái quan trọng là anh có thể làm được gì cơ.”
Abel ngồi xuống cạnh giường. Bà ta bắt đầu giảng giải cho anh biết là
phải làm những gì đối với người đàn bà. Bà ta lấy làm lạ không những Abel
không tỏ ra thèm muốn gì mình, mà lại còn ngạc nhiên thấy hai tuần sau đó
ngày nào anh cũng đến rất đều.
“Bao giờ thì tôi biết là mình học xong?” Abel hỏi.
“Rồi anh sẽ biết,” Joyce đáp. “Nếu anh làm cho tôi sướng được thì đến
một cái xác ướp Ai Cập anh cũng làm cho sướng được.”
Bà ta dạy cho anh biết đâu là những chỗ nhạy cảm trên cơ thể bà ta, và
bảo anh phải biết kiên nhẫn trong khi làm tình. Những dấu hiệu như thế nào
khiến anh có thể biết được là anh làm cho người ta thỏa mãn. Abel nghe rất
kỹ và làm theo từng cái bà ta dặn. Lúc đầu anh có hơi máy móc, nhưng bà ta
đảm bảo rồi anh sẽ thành công không thể tưởng tượng được. Quả nhiên, đến
tuần thứ ba và sau khi đã có thể làm cho người đàn bà Joyce này trở nên sống
động và háo hức trong vòng tay của mình. Lần đầu anh nghe thấy tiếng rên rỉ
của Joyce và cảm thấy sung sướng một cách lạ kỳ. Bà ta cứ bấu chặt lấy anh
rên rỉ hoài, lúc to, lúc nhỏ, cho đến lúc bà ta phải hét lên rồi buông tay ra, rã
rời.
“Anh bạn ơi, thế là anh đỗ thủ khoa rồi đấy nhé.” Thở được rồi, bà ta nói.
Nhưng Abel thì chưa thấy gì.
Abel tốt nghiệp cả hai bằng. Anh tự thưởng cho mình bằng cách rủ cả mấy
người, George, Monika và Clara nữa, đi xem trận đấu quyền Anh vô địch thế
giới giữa Gene Tunney với Jack Dempsey và mua vé hạng nhất. Đêm đó, sau
khi xem trận đấu rồi, Clara miễn cưỡng làm cái bổn phận đi nằm với Abel vì


anh ta chi cho cô khá nhiều tiền. Nhưng đến sáng hôm sau thì chính Clara lại
cầu khẩn Abel là đừng có bỏ rơi cô ta.
Mặc dầu vậy, Abel không bao giờ rủ cô ta đi nữa.
○○○
Tốt nghiệp Đại học Columbia rồi, Abel cảm thấy không hài lòng với cuộc
sống ở khách sạn Plaza. Tuy nhiên, anh chưa hình dung được mình sẽ tiến lên
nữa như thế nào. Mặc dầu anh đã phục vụ một số trong những người giàu
nhất và thành công nhất ở Mỹ, nhưng anh chưa hề bao giờ dám nói chuyện
trực tiếp với những người đó, vì anh sợ làm như thế có thể mất việc như chơi.
Dù sao, anh nghĩ các vị khách đến ăn ở đây sẽ chẳng ai thực sự quan tâm đến
nguyện vọng của một người hầu bàn. Abel quyết chí mình sẽ trở thành một
người đứng đầu những tay phục vụ bàn.
Một hôm có ông bà Ellsworth Statler đến ăn trưa ở phòng Gỗ Sồi trong
khách sạn Plza là nơi Abel đang làm thay người khác một tuần. Anh nghĩ
bụng vận may của mình đã đến. Anh làm mọi cách để có thể gây ấn tượng
cho nhà chủ và bữa ăn hôm đó thật là tuyệt. Lúc ra về, ông Slatler cảm ơn
Abel một cách nồng nhiệt và cho anh mười đôla. Nhưng rồi chỉ thế là hết,
Abel nhìn theo khách đi ra phía cửa ngoài khách sạn, không biết làm thế nào
nữa.
Sammy, người đứng đầu những tay hầu bàn, vỗ vào vai anh hỏi:
“Ông Statler cho cậu gì đấy? Ông ấy không cho tiền thưởng ư?” Sammy
nghi ngờ hỏi.
“Ồ, có chứ,” Abel nói. “Mười đôla.”
Anh đưa tiền cho Sammy.
“Khá đấy nhỉ,” Sammy nói. “Tớ đã tưởng cậu định lòe tớ, Abel. Mười
đôla, với ông Statler như thế cũng là tốt lắm đấy. Có lẽ cậu đã làm cho ông ta
phải cảm động.”


“Không, tôi có làm gì đâu.”
“Cậu nói thế là sao?” Sammy hỏi.
“Nhưng thôi, không quan trọng.” Abel đáp và định bỏ đi.
“Khoan đã, Abel, có mẩu giấy này cho cậu đây. Ông khách ở bàn mười
bảy, ông Leroy muốn nói chuyện riêng với cậu đấy.”
“Về cái gì thế, Sammy?”
“Ai mà biết? Có lẽ ông ta thích đôi mắt xanh của cậu chăng.”
Abel liếc nhìn ra bàn 17. Bàn đó chỉ dành cho những khách hiền lành
không đòi hỏi gì và là khách vô danh nữa. Vị trí của chiếc bàn gần ngay cửa
ra vào bếp. Abel thường tránh không phục vụ bất cứ bàn nào cuối phòng.
“Ông ta là ai thế?” Abel hỏi. “Ông ta muốn gì.”
“Tớ không biết,” Sammy nói và cũng không buồn ngẩng lên. “Tớ không
quen tìm hiểu về lịch sử đời sống của khách như cậu. Cho họ ăn tử tế, yên trí
có tiền thưởng càng nhiều càng tốt rồi mong họ trở lại nữa, thế thôi. Cậu có
thể cho đó là triết lý đơn giản, nhưng với tớ thế là tốt lắm rồi. Có lẽ ở
Columbia họ quên không dạy cho cậu những cái cơ bản. Thôi, cậu ra đó đi,
Abel, và nếu được tiền thưởng thì mang ngay về đây.”
Abel nhìn vào cái đầu hói của Sammy, cười rồi bước đến bàn 17. Có hai
người đang ngồi ở đó. Một người mặc chiếc áo ngoài sặc sỡ mà Abel không
thích lắm, người kia là một cô gái khá xinh đẹp có mớ tóc vàng xoăn mà anh
đoán là bồ của ông khách và trong bụng nghĩ thế nào cũng được nghe khách
phàn nàn về chuyện cái cửa ra vào gần bếp, đòi phải đưa bàn đi chỗ khác để
làm oai với cô gái tóc vàng kia. Không ai thích ngửi cái mùi trong bếp xông
ra và những người phục vụ đi ra đi vào khiến cánh cửa bật thình lình liên tiếp.
Nhưng cũng không thể không dùng đến chiếc bàn đó, vì khách sạn thì rất
đông người ở, mà người New York vốn đã quen hễ thấy người lạ là không
bằng lòng. Tại sao Sammy lại để anh phải đối phó với những khách có vẻ khó
chơi như thế này? Abel từ từ bước đến bên người khách mặc áo sặc sỡ.


“Thưa, ông muốn nói với tôi ạ?”
“Đúng thế,” ông ta đáp bằng một giọng miền Nam. “Tên tôi là Davis
Leroy, còn đây là con gái tôi, Melanie.”
Abel quay sang nhìn đôi mắt xanh của cô ta, một đôi mắt anh chưa từng
thấy bao giờ.
“Trong năm ngày qua, Abel, tôi đã quan sát anh rất kỹ,” ông Leroy nói
tiếp với giọng Nam lê thê ấy.
Nếu ai hỏi vặn lại thì Abel sẽ phải thừa nhận rằng anh chưa bao giờ để ý
đến ông Leroy mà chỉ cách đây năm phút mới biết.
“Tôi rất có ấn tượng về những gì đã trông thấy, Abel, vì xem ra anh là
người có hạng, có hạng thật sự, mà tôi thì vẫn chú ý đến những người như
vậy. Ellsworth Statler không chọn những người như anh thì thật là ngốc.”
Abel bắt đầu nhìn ông Leroy kỹ hơn. Đôi má đỏ hồng và chiếc cằm bạnh
của ông ta khiến Abel nghĩ ông ta không biết cấm rượu là gì. Những đĩa thức
ăn trước mặt đã ăn sạch chứng tỏ ông ta ăn cũng rất khỏe. Nhưng cái tên đó
của ông ta, bộ mặt của ông ta, như không có nghĩa gì với anh cả. Nếu là bữa
ăn trưa bình thường, thì Abel đã có thể rất biết kỹ về lý lịch của bất cứ ai ngồi
ở ba mươi bảy trong số ba mươi chín chiếc bàn trong phòng Gỗ Sồi rồi.
Nhưng hôm đó bàn ông Leroy ngồi lại là một trong hai bàn mà anh không
biết.
Vẫn cái giọng miền Nam cất lên.
“Tôi không phải là một trong những nhà đại triệu phú thường ngồi ở mấy
chiếc bàn trong góc của anh mỗi khi họ đến Plaza đâu nhé.”
Abel ngạc nhiên. Nếu là khách bình thường thì không ai có thể biết giá trị
của những bàn khác nhau trong phòng ăn này.
“Nhưng tôi làm ăn cũng không đến nỗi tồi đâu. Thực ra, một ngày kia
khách sạn của tôi cũng sẽ có thể gây ấn tượng tốt được như khách sạn này,
Abel.”


“Tôi tin chắc như vậy, thưa ông.” Abel đáp.
Leroy? Cái tên này sao không nói lên điều gì nhỉ.
“Để tôi nói thẳng cho anh biết nhé. Khách sạn đầu đàn trong số những
khách sạn của tôi cần có một người phó quản lý mới phụ trách nhà ăn. Nếu
anh quan tâm đến điều đó thì khi nào xong việc anh lên phòng gặp tôi.”
Ông ta đưa cho anh một tấm thiếp.
“Xin cảm ơn ông,” Abel nói và nhìn vào thiếp: Davis Leroy. Công ty

tải về 2.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương