CÔng tác thị trưỜng châu phi, TÂY Á, nam á


BÁO CÁO CÔNG TÁC THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI, TÂY Á, NAM Á



tải về 0.97 Mb.
trang3/9
Chuyển đổi dữ liệu15.11.2017
Kích0.97 Mb.
#34304
1   2   3   4   5   6   7   8   9

BÁO CÁO CÔNG TÁC THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI, TÂY Á, NAM Á

PHỤC VỤ HỘI NGHỊ THAM TÁN THƯƠNG MẠI 2011

I. Tổng quan tình hình thị trường:

Bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008, tiếp theo là các biện pháp cứu trợ không triệt để, mang tính đối phó ngắn hạn của các nền kinh tế lớn trên thế giới trong năm 2009, nên bước sang năm 2010 và 2011 nền kinh tế thế giới tiếp tục ở trong tình trạng bất ổn và hiện đang theo chiều hướng diễn biến khó lường. Đặc biệt trong nửa cuối năm 2011, hàng loạt nền kinh tế lớn không đủ khả năng đối phó với các khoản nợ quốc gia và thâm hụt ngân sách. Theo báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đánh giá của Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, những cảnh báo của Hội nghị Bộ trưởng Tài chính các nước G20 và nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ rơi vào vòng xoáy khủng hoảng mới, còn trầm trọng hơn so với thời điểm năm 2008.

Báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới” của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) mới đây đã hạ mức dự báo tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2011 và 2012 xuống còn 4%, thấp hơn 0,3% so với mức dự báo do chính tổ chức này đưa ra hồi tháng 6 năm 2011 và thấp hơn nhiều so với mức 5,1% của năm 2010.

Tuy vậy, do tác động tích cực của các gói kích cầu kinh tế, sự hồi phục mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin,... theo dự báo của WTO, tăng trưởng thương mại năm 2011 sẽ đạt khoảng 6,5%, sau khi tăng kỷ lục 14,5% năm 2010 (từ mức suy giảm 12% năm 2009).



II. Tình hình thị trường các nước khu vực Châu Phi, Tây Á, Nam Á:

1. Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội các nước khu vực Châu Phi, Tây Á, Nam Á:

1.1. Các nước khu vực Châu Phi:

Bất chấp những diễn biến bất ổn, phức tạp về chính trị (tại Tuy-ni-di, Ai Cập, Bờ Biển Ngà, Li-bi,..) và tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế châu Phi nhìn chung vẫn có sự chuyển mình đáng chú ý, nhất là các nền kinh tế trong vùng hạ Xahara. Theo dự báo của OECD và AfDB, kinh tế châu Phi sẽ tăng trưởng 3,7-4% trong năm 2011, trong đó kinh tế khu vực Bắc Phi năm 2011 chỉ đạt mức tăng 0,7%, khu vực miền Nam châu Phi là 4,5%, vùng Trung Phi 5,3% và khu vực Đông Phi 6,7%.

Đối với vùng hạ Xahara, kinh tế vùng này được dự báo tăng trưởng khoảng 5,6% trong năm 2011 và có thể sẽ tăng 6,5% trong năm 2012. Một số nước châu Phi từ năm 2011 sẽ đạt mức tăng trên 7%, như Ni-giê-ria, Ăng-gô-la do có lợi thế từ dầu mỏ. Trong khi đó, do tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nam Phi đang có dấu hiệu chững lại, IMF dự báo nền kinh tế lớn nhất châu Phi này chỉ đạt 3,4% trong năm nay và 3,6% năm 2012.

Thương mại thế giới phát triển được coi là động lực cho châu Phi. Tăng trưởng ở các nước mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ hay Bra-xin khiến nhu cầu ở ngoài nước bùng nổ, đặc biệt là đối với hàng thiết yếu. Số nhà đầu tư vào châu Phi tăng mạnh giúp thúc đẩy các dự án cơ sở hạ tầng cho phát triển. Tuy nhiên, thương mại giữa các vùng, các nước châu Phi cũng cải thiện đáng kể, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của toàn bộ khu vực này.

Về thương mại, nếu như năm 2009 kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn châu lục đạt 779 tỷ đô-la Mỹ, trong đó, xuất khẩu đạt 379 tỷ đô-la Mỹ (giảm 32%) và nhập khẩu là 400 tỷ đô-la Mỹ (giảm 16% so với 2008), thì năm 2010 xuất khẩu của Châu Phi tăng lên 500 tỷ đô-la Mỹ, tăng 31% và nhập khẩu đạt 463 tỷ đô-la Mỹ, tăng 15% so với 2009, gần về mức năm 2008 (theo WTO).

Trong số các nước Châu Phi, Ai Cập đã bị ảnh hưởng mạnh nhất về mặt kinh tế bởi cuộc cách mạng “Mùa xuân Ả-rập”, ước tính mỗi ngày nền kinh tế thiệt hại hơn 300 triệu đô-la Mỹ. Kinh tế Ai Cập hiện vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, mức độ phục hồi chậm và chưa bền vững. Đối với các nước như Ma-rốc, An-giê-ri, Nam Phi và Ni-giê-ria, nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng ổn định. Các biện pháp đã được Chính phủ các nước này áp dụng để cải cách về mặt luật pháp, thể chế và điều hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh, thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.

Về kinh tế đối ngoại: đa số các nước Châu Phi có cùng đặc điểm xuất khẩu tăng trưởng chậm hơn nhập khẩu dẫn đến cán cân thương mại liên tục thâm hụt, năng suất lao động và thu nhập của người lao động ở mức thấp. Bên cạnh đó, mặc dù đã tham gia ký kết Hiệp định tự do mậu dịch - FTA với nhiều nước và khu vực trên thế giới, tuy nhiên hiệu quả thực hiện các FTA này chưa cao. Hiện tại, các nước Châu Phi vẫn duy trì bảo hộ ở mức khá cao thông qua hệ thống thuế quan và các rào cản phi thuế quan khác. Thuế nhập khẩu được xem là trở ngại chính đối với những mặt hàng đến từ các nước không ký FTA nhằm bảo hộ sản xuất trong nước và giảm thâm hụt cán cân thanh toán. Đối với An-giê-ri, để tạo điều kiện cho nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuât, Chính phủ quy định: “được phép thanh toán không dùng L/C để nhập khẩu nguyên liệu và máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và dịch vụ, tiếp tục miễn thuế nhập khẩu và thuế TVA đối với một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu về để bán nguyên trạng thì vẫn phải thanh toán bằng phương tiện duy nhất là L/C”. Trong khi đó, Ni-giê-ria vẫn đang sử dụng Danh mục gồm các loại hàng hóa cấm nhập khẩu vì mục đích thương mại (được dỡ bỏ tùy theo từng thời kỳ). Năm 2010, Nam Phi đã chính thức gia nhập vào khối các nước BRICS và là nước theo dõi chặt chẽ vấn đề bán phá giá, áp thuế hoặc cấm nhập nhiều mặt hàng nhập khẩu từ các nước Trung Quốc, Đài Loan, Ấn độ, Mỹ trong những năm qua.

1.2. Các nước khu vực Trung Đông:

Kinh tế Trung Đông năm 2011 cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi cơn bão bất ổn chính trị do làn sóng cách mạng “Mùa xuân Ả rập”, các cuộc biểu tình chống Chính phủ diễn ra ở Gioóc-đa-ni, Y-ê-men, Ả-rập Xê-út, I-ran, Xi-ri, Ô-man, Ba-ranh và nhiều nước khác trong khu vực, khiến kinh tế một số nước như Y-ê-men, I-ran, Xi-ri, Ba-ranh lâm vào tình trạng khó khăn.

Trong khu vực Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng có vai trò và tiếng nói quan trọng tại các diễn đàn châu lục, khu vực và trên thế giới. Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục phát triển ổn định trong năm 2011 với mức tăng dự kiến 7,5%. Trong đó, nông nghiệp tăng ấn tượng 6%, công nghiệp 7,2% và dịch vụ 7,8%.

Tăng trưởng GDP của Ít-xra-en trong Qúy 3-2011 là 4,5%, dự đoán mức tăng này sẽ giữ cho tới hết năm 2011. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội của Ít-xra-en cũng đang trải qua một số khó khăn khi nhiều cuộc biểu tình của dân chúng đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp hạn chế lạm phát giá cả sinh hoạt, giá bất động sản, và hơn cả là các biện pháp cải cách kinh tế. Bên cạnh đó, tiến trình hòa bình Trung Đông (mục tiêu là phải đạt được giải pháp hai nhà nước, nhà nước Do Thái của Ít-xra-en và nhà nước Pa-lét-xtin cùng tồn tại trong hoà bình) vẫn đang lâm vào thế bế tắc.

Đối với I-ran, việc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đứng đầu là Mỹ tiếp tục việc áp dụng một cách khắc nghiệt các biện pháp trừng phạt, cấm vận I-ran tập trung vào lĩnh vực ngân hàng, xuất nhập khẩu dầu mỏ khiến cho nước này hết sức khó khăn trong phát triển kinh tế. Các vấn đề chính trị trong nước cũng khiến tình hình thêm rối ren. Theo đó, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng GDP của khu vực này xuống 4,9% trong năm nay (dự báo 5,0%). Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này vẫn cao hơn nhiều so với mức 3,5% đạt được trong năm 2010.

Ngoài I-ran, các nước xuất khẩu dầu mỏ ở khu vực Trung Đông đều tăng trưởng nhanh hơn trong năm nay. Theo IMF, giá dầu tăng cộng với việc chính phủ phải tăng chi tiêu để giải quyết bất ổn xã hội sẽ là yếu tố chủ chốt hỗ trợ kinh tế khu vực tăng tốc. Bên cạnh đó, lạm phát của đa số các nước trong khu vực sẽ tăng với mức bình quân là 11% trong năm 2011 do lo ngại về an ninh lương thực. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào ngành dầu mỏ sẽ khiến khu vực này dễ bị tổn thương nếu giá dầu thô lại giảm mạnh.

Theo đánh giá của IMF, GDP Trung Đông những năm tới sẽ đạt khoảng 6% đến 8% và biến khu vực này trở nên có nền kinh tế phát triển nhanh nhất và môi trường đầu tư hấp dẫn trên thế giới.

Về thương mại, xuất khẩu của Trung Đông năm 2010 đạt 916 tỷ đô-la Mỹ (tăng 14,5%) và nhập khẩu đạt khoảng 572 tỷ đô-la Mỹ (giảm 11% so với 2009). Các sản phẩm dầu thô, lọc, hóa dầu, khí khô xuất khẩu qua đường ống và khí hoá lỏng (LNG)..., chiếm tới 80% trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa. Hiện nay, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng trở nên đa dạng hơn với các loại máy móc, thiết bị công nghệ cao... Các mặt hàng nhập khẩu của các nước Trung Đông chủ yếu gồm lương thực thực phẩm, trang thiết bị, hàng may mặc, hóa chất, nguyên vật liệu xây dựng, phương tiện giao thông và linh kiện. Đa số các nước trong khu vực này đều phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm, một mặt hàng rất quan trọng, chiếm tới 15% kim ngạch nhập khẩu.

Với tình hình chính trị trong nước ổn định và tài chính vững vàng, các nước Ả-rập Xê-út, U.A.E, Ca-ta có mức tăng trưởng thương mại với tốc độ cao. Sau những khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự kiện Dubai World khiến cho nền kinh tế lâm vào khó khăn trong giai đoạn cuối 2008 và cả năm 2009, U.A.E – thị trường cửa ngõ của Trung Đông đang bước vào giai đoạn phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP 1,4% năm 2010. Theo đánh giá của IMF, tốc độ tăng trưởng kinh tế của UAE trong những năm tới tương đối khả quan với 3,3% trong năm nay và dự kiến 3,8% cho năm 2012. Lạm phát được kiềm chế ở mức rất thấp.

1.3. Các nước khu vực Nam Á:

Tăng trưởng khu vực Nam Á chậm lại trong năm 2011 khi các cơ quan tiền tệ có những động thái thắt chặt tiền tệ và chi tiêu công nhằm chống lại mức lạm phát ở mức cao. Tăng trưởng GDP dự kiến sẽ ở mức 7,2%,  trong khi tỉ lệ lạm phát dự báo lên tới 9,1%. Tăng trưởng năm tới có thể đạt 7,7%, dẫn đầu là Ấn Độ, sau khi tỉ lệ lãi suất cao đã ảnh hưởng đến đầu tư và chi tiêu của người dân trong năm 2011.

Những nguyên nhân cơ bản giúp kinh tế Nam Á giữ được mức tăng trưởng cao chính là nhờ sức mạnh của kinh tế nội địa, bao gồm sự ổn định của những khu vực kinh tế chủ chốt, hệ thống ngân hàng của không bị ảnh hưởng bởi nợ công và khủng hoảng tín dụng, việc điều chỉnh chính sách nội địa một cách thích hợp của Chính phủ. Những nước như Băng-la-đét, Xri-lanca đều đang trên đà phát triển mạnh bất chấp các ảnh hưởng từ kinh tế thế giới. Riêng đối với Pa-kit-xtan, thiên tai và bất ổn chính trị,.. đã khiến nền kinh tế nước này tụt hậu so với sự phát triển chung của khu vực.

Xuất khẩu của các nước khu vực Nam Á năm 2010 đạt 246 tỷ đô-la Mỹ (tăng 28%), nhập khẩu đạt 370 tỷ đô-la Mỹ (tăng 32% so với 2009). Trong đó kim ngạch thương mại của Ấn Độ chiếm trên 70% kim ngạch thương mại toàn khối. Điểm đáng chú ý trong hoạt động ngoại thương ngoài khu vực của khối SAARC là tình trạng nhập siêu khá lớn và tăng đều qua các năm. Có thể nói, kinh tế Nam Á thể hiện sự phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng cao, tập trung một số ngành công nghệ cao, nhanh chóng thích nghi và tận dụng được lợi ích của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, Nam Á bao gồm phần lớn các nước nông nghiệp lạc hậu, có tỷ lệ nghèo đói cao, tình hình chính trị chưa ổn định, kinh tế phát triển không đồng đều.



III. Quan hệ kinh tế, thương mại và hợp tác công nghiệp với Việt Nam:

1. Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam và thị trường các nước khu vực:

1.1. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu:

Trong giai đoạn 2010-2011, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Phi, Tây Á, Nam Á tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao.

Theo số liệu thống kê của Tổng Cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khu vực năm 2010 đạt khoảng 4,9 tỷ đô-la Mỹ, tăng gần 50% so với thực hiện năm 2009, vượt 44% so với kế hoạch cả năm 2010 được giao. Tính đến 10 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường này đạt gần 7 tỷ đô-la Mỹ. Các thị trường xuất khẩu tiếp tục duy trì được tốc độ cao là Thổ Nhĩ Kỳ, U.A.E, Ấn Độ, Băng-la-đét, Nam Phi, I-rắc, Xê-nê-gan, Bờ Biển Ngà, Ả-rập Xê-út, Pa-kít-xtan, Ai Cập, Gha-na,...

Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu từ các nước trong khu vực năm 2010 đạt khoảng 4,4 tỷ đô-la Mỹ, tăng hơn 27% so với năm 2009. Trong 10 tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu đạt gần 5 tỷ đô-la Mỹ. Các thị trường nhập khẩu lớn vẫn là Ấn Độ, Ả-rập Xê-út, Thổ Nhĩ Kỳ, U.A.E, Nam Phi, Cô-oét trong đó riêng Ấn Độ chiếm trên 38% tổng kim ngạch nhập khẩu từ khu vực.

Như vậy, trong năm 2010 và 2011, ta đã tiếp tục xuất siêu sang thị trường khu vực các nước Châu Phi, Tây Á, Nam Á. Thị trường nhập siêu lớn nhất trong khu vực vẫn là Ấn Độ, tuy nhiên mức độ nhập siêu đã giảm chủ yếu do xuất khẩu của ta sang thị trường Ấn Độ tăng mạnh. Ngoài ra, hai thị trường nhập siêu lớn khác trong khu vực là Ả-rập Xê-út và Cô-oét, trong đó mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu và các chế phẩm từ dầu mỏ là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.

Về mặt hàng xuất khẩu, năm 2010, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là gạo (825,6 triệu đô-la Mỹ), chủ yếu sang châu Phi và Băng-la-đét. Thứ hai là mặt hàng điện thoại di động, đây là mặt hàng xuất khẩu mới, có kim ngạch xuất khẩu tăng khá cao (446,7 triệu đô-la Mỹ), sản phẩm dệt may (308,5 triệu đô-la Mỹ), tiếp theo là mặt hàng thuỷ sản (268,2 đô-la Mỹ), máy vi tính và linh kiện (190,3 triệu đô-la Mỹ). Đây là năm thứ hai mặt hàng đá quý và vàng tiếp tục có kim ngạch khá cao, chủ yếu sang các thị trường Nam Phi, U.A.E (188 triệu đô-la Mỹ).



Bảng. 13 thị trường có kim ngạch xuất khẩu cao nhất khu vực

TT

Tên nước

2010 (triệu đô-la Mỹ)

Tỷ trọng (%)

10 tháng /2011 (triệu đô-la Mỹ)

Tỷ trọng (%)

1

Ấn Độ

992,7

20,3

1.254

18,1

2

Nam Phi

492,4

10,1

1.754

25,4

3

U.A.E

507,7

10,4

689

10,0

4

Thổ Nhĩ Kỳ

528,5

10,8

635

9,2

5

Ai Cập

174,8

3,6

204

2,9

6

Bờ Biển Ngà

133,4

2,7

137

2,0

7

Pa-kit-xtan

133

2,7

142

2,1

8

Ít-xra-en

97

2

119

1,7

9

Ả-rập Xê-út

143,7

2,9

205

3,0

10

I-rắc

188

3,8

121

1,7

11

Ma-rốc

28

0,6

19

0,3

12

Cô-oét

29,9

0,6

24

0,3

13

An-giê-ri

75,6

1,5

79

1,1

 

Châu Phi

1.791

36,6

2.885

41,7

 

Trung Đông

1.651

33,8

2.083

30,1

 

Nam Á

1.444

29,5

1.970

28,5

 

Cả khu vực

4.887

100

6.938

100

Bảng. 13 thị trường có kim ngạch Nhập khẩu cao nhất khu vực

TT

Tên nước

2010 (triệu đô-la Mỹ)

Tỷ trọng (%)

10 tháng /2011 (triệu đô-la Mỹ)

Tỷ trọng (%)

1

Ấn Độ

1.746

40,1

1.867

38,4

2

Nam Phi

165,7

3,8

162

3,3

3

U.A.E

222,1

5,1

340

7,0

4

Thổ Nhĩ Kỳ

107,7

2,5

68

1,4

5

Ai Cập

12,2

0,3

11

0,2

6

Bờ Biển Ngà

128,9

3,0

162

3,3

7

Pa-kit-xtan

109,4

2,5

127

2,6

8

Ít-xra-en

125

2,9

121

2,5

9

Ả-rập Xê-út

600

13,8

642

13,2

10

I-ran

100,3

2,3

82

1,7

11

Ma-rốc

3,6

0,1

2.2

0,0

12

Cô-oét

372,7

8,6

603

12,4

13

An-giê-ri

0,6

0,0

13

0,3

 

Châu Phi

767.6

17,6

444

9,1

 

Trung Đông

1.662

38,2

2.203

45,3

 

Nam Á

1.921

44,2

2.215

45,6

 

Cả khu vực

4.351

100

4.862

100

1.2. Thị phần một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch lớn nhất vào thị trường Châu Phi, Trung Đông, Nam Á.

Gạo là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang khu vực, chủ yếu sang Châu Phi và Băng-la-đét, chiếm trên 16% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2010, vượt xa các mặt hàng tiếp theo như hải sản, dệt may, điện tử máy vi tính,… và trong khoảng 5 năm tới thì gạo vẫn sẽ là mặt hàng xuất khẩu số một của ta do nhu cầu lớn của nhiều nước Châu Phi về gạo. Mỗi năm trung bình các nước nhập khẩu gạo ở Châu Phi phải nhập khẩu hơn 8 triệu tấn gạo. Từ năm 2010, mặt hàng vàng, đá quý xuất khẩu tăng đột biến, chủ yếu vào thị trường Nam Phi. Mặt hàng điện thoại di động là mặt hàng xuất khẩu mới của Việt Nam nhưng đã trở thành một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chủ yếu do các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.

Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước khu vực Châu Phi, Trung Đông và Nam Á chiếm lĩnh thị phần lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu, bao gồm: Cà phê, hạt tiêu, hạt điều, gia vị, cơm dừa, cá basa, một số nhóm của hàng dệt may, than đá, sắt thép, linh kiện điện thoại, chè, thủ công mỹ nghệ, linh kiện máy tính,... Các mặt hàng khác tuy chiếm tỷ trọng không cao đã khẳng định được vị trí và được biết đến ngày một rộng rãi, được thị trường chấp nhận, tin cậy. Trong hai năm qua, cơ cấu xuất khẩu có sự thay đổi tích cực với sự tham gia của khối doanh nghiệp FDI trong nước, xuất hiện một số mặt hàng mới với giá trị gia tăng và kim ngạch cao.

1.3. Nhận định nguyên nhân tăng giảm xuất nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước Châu Phi, Tây Á, Nam Á

Bên cạnh các mặt công tác chung về thị trường ngoài nước được thực hiện tốt như công tác xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ giao dịch trực tiếp cho các doanh nghiệp, sự tích cực của doanh nghiệp Việt Nam trong tìm kiếm thị trường mới,... các yếu tố khác ảnh hưởng đến tăng giảm xuất nhập khẩu cả về số lượng và trị giá vào khu vực thị trường có thể kể đến như sau:

- Do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, giá cả hàng hóa tăng cao khiến Chính phủ các nước tăng cường nhập khẩu, đặc biệt là thực phẩm để dự trữ, ổn định đời sống người dân.

- Tình hình chính trị bất ổn tại một số nước xuất khẩu cùng chủng loại mặt hàng với Việt Nam, cũng như các cuộc bạo động tại một số nước Trung Đông, Bắc Phi dẫn đến môi trường sản xuất kinh doanh, các ngành công nghiệp chỉ duy trì được ở mức cầm chừng dẫn đến khan hiếm hàng hóa, nhu cầu nhập khẩu nhu yếu phẩm phục vụ dân sinh tăng.

- Thành công của việc thâm nhập, tháo gỡ vướng mắc cho các mặt hàng mới (cá basa, tôm, nông sản, hàng tiêu dùng, dệt may, giày dép và một số loại vật liệu xây dựng) vào thị trường các nước thuộc GCC và Bắc Phi.

- Đối với thị trường Ấn Độ: các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã tìm được chỗ đứng trên thị trường Ấn Độ như: mặt hàng điện thoại di động và linh kiện (số lượng người sử dụng điện thoại di động của Ấn Độ đã đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Trung Quốc), sắt thép các loại (Ấn Độ đang rất cần sắt thép để đầu tư các cơ sở hạ tầng: cầu cống đường xá, nhà ở, công nghiệp đóng tàu để hiện đại hóa đội tầu biển,…), cao su thiên nhiên để sản xuất lốp xe ô tô phục vụ cho ngành công nghiệp ô tô, than đá phục vụ cho ngành sản xuất thép của Ấn Độ, cà phê hạt và hạt tiêu Ấn Độ nhập về để chế biến thêm giá trị gia tăng sau đó tái xuất.

- Tại thị trường như Ni-giê-ria: kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam nhưng không được tính vào kim ngạch xuất khẩu do bị áp thuế nhập khẩu quá cao (40%) dẫn đến việc doanh nghiệp nhập khẩu đưa hàng sang các nước láng giềng của Ni-giê-ria rồi đưa vào Ni-giê-ria theo cách riêng của họ. Đối với thị trường này nếu không đăng ký xin giấy chứng nhận SONCAP hoặc NAFDAC cho các sản phẩm theo quy định của Ni-gie-ria thì hàng hóa không được phép nhập khẩu.

- Mặt hàng ôtô dưới 9 chỗ ngồi và nước hoa nhập khẩu từ U.A.E giảm mạnh sau khi thực hiện thông báo 197 và thông tư 20 của Bộ Công Thương từ giữa năm 2011.



1.4. Phân tích diễn biến nhu cầu, thị hiếu, giá cả của những mặt hàng chủ lực hoặc có tiềm năng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á.

- Đối với các mặt hàng nông sản, Châu Phi, Trung Đông và Nam Á đều là thị trường tiêu dùng khá tốt (và thậm chí có nhu cầu nhập khẩu để tái xuất), trong đó gạo là lương thực hàng ngày phục vụ người dân; chè và cà phê có mức tiêu thụ cao do thói quen sử dụng các loại đồ uống truyền thống này của người đã Ả rập, Hồi giáo có từ lâu đời. Các mặt hàng khác như linh kiện điện tử, điện thoại di động, xi măng, sắt thép, hàng tiêu dùng sẽ tiếp tục đạt các mức tăng trong thời gian tới do nhu cầu ngày càng lớn hoặc tận dụng tốt kênh phân phối toàn cầu của nhà sản xuất.

- Đối với thị trường U.A.E, với kim ngạch nhập khẩu gạo khá lớn (1,3 tỷ USD năm 2010) nhập chủ yếu là gạo hạt dài từ Thái Lan. Tuy nhiên, với sản lượng gạo của Thái Lan giảm sút trong vụ thu hoạch 2011-2012 do ảnh hưởng của thiên tai, nguồn cung không đủ và giá gạo xuất khẩu tăng cao sẽ là điều kiện tốt để ta chiếm lĩnh thị phần lớn hơn trong năm tới. Triển lãm Quốc tế về gạo lần thứ nhất tổ chức tại Dubai từ 3-5/11/2011 thành công tốt đẹp, các doanh nghiệp của ta tham dự đều có đối tác mới, ký được hợp đồng xuất khẩu gạo trực tiếp với khách hàng và tìm được đại lý tiêu thụ gạo đóng gói cho các siêu thị địa phương và tái xuất sang Châu Phi.

- Về triển vọng với mặt hàng vật liệu xây dựng, UAE tiếp tục đầu tư vào những dự án lớn xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị mới, mở rộng các ngành công nghiệp hóa dầu nên nhu cầu vật liệu xây dựng bắt đầu có dấu hiệu tăng trở lại. Ngoài ra, nhu cầu tái thiết kinh tế sau bất ổn chính trị tại một số quốc gia khu vực như Libya, Ai Cập cũng khiến các tập đoàn xây dựng lớn tại UAE, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ thăm dò và chuyển hướng đầu tư sang các nước này. Trong vài năm tới, có thể dự kiến nhu cầu đối với nhân lực và các loại vật liệu xây dựng cơ bản sẽ tăng mạnh khi tình hình chính trị khu vực dần đi vào ổn định, Việt Nam hoàn toàn có thể đẩy mạnh xuất khẩu loại mặt hàng này thông qua hợp tác cung cấp nhân lực trọn gói và vật liệu xây dựng cũng như nhận làm thầu phụ cho các dự án của tại các nước lân cận.

- Tại Ả-rập Xê-út, trong kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn 2010-2014, nước này cũng sẽ dành ngân sách lớn cho phát triển xây dựng hạ tầng, nhà ở, các thành phố kinh tế. Vì vậy nhu cầu liên doanh với các công ty xây dựng nước ngoài để cùng tham gia thực hiện các dự án này là rất lớn. Ngoài ra, nhu cầu về vật liệu xây dựng cũng sẽ tăng mạnh và đây là cơ hội cho các công ty Việt Nam muốn đầu tư sang Ả-rập Xê-út và xuất khẩu các mặt hàng vật liệu xây dựng

- Thổ Nhĩ Kỳ cũng sẽ cơ bản thay đổi cơ cấu sản xuất trong nước, chuyển đổi từ sản xuất dựa vào nhập khẩu sang sản xuất hàng hóa có giá trị gia tăng cao. Chú trọng các ngành chế tạo máy móc, thiết bị, hóa chất và công nghệ cao. Thông qua đó sẽ giảm sự phụ thuộc vào công nghiệp nước ngoài. Với các mục tiêu có tham vọng lớn của nước này như phấn đấu vào top 10 của kinh tế thế giới năm 2023, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là thị trường lớn cho hàng hóa xuất khập khẩu của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.

- Về nhập khẩu từ thị trường nhập khẩu lớn Ấn Độ: có thể khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục nhập khẩu thức ăn gia súc từ Ấn Độ do yếu tố lợi thế cạnh tranh hơn nhập khẩu từ các nước khác. Dược phẩm và nguyên liệu dược của Ấn Độ chất lượng khá, giá cả phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Máy móc thiết bị của Ấn Độ chủ yếu là các thiết bị và máy móc của các nhà máy thủy điện nhỏ cung cấp theo hình thức vốn vay ODA của Chính phủ Ấn Độ giành cho Chính phủ Việt Nam.

2. Quan hệ công nghiệp giữa Việt Nam và thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á:

- Tại Châu Phi, đã có 2 dự án thăm dò, khai thác dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với tổng vốn đầu tư  360,36 triệu USD, chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư đăng ký gồm 1 dự án tại Angiêri (liên doanh 3 bên Việt Nam, Thái Lan, Công ty Sonatrach –An-giê-ri) thăm dò và khai thác dầu khí với tổng vốn pháp định khoảng 2 tỷ USD, dự kiến đến năm 2014 sẽ bắt dầu khai thác dầu với công suất 20.000 thùng mỗi ngày; 1 dự án tại Ma-đa-gát-xca vốn đầu tư là 117,36 triệu USD bước đầu có kết quả khả quan. Ngoài ra, còn có các dự án đầu tư tại Công-gô trị giá 15,31 triệu USD mới được cấp phép và bắt đầu triển khai hoạt động; dự án xây dựng nhà máy sản xuất phân bón DAP tại Ma-rốc trị giá 600 triệu USD đang trong quá trình triển khai các thủ tục ban đầu. Tập đoàn dầu khí Việt Nam cũng tham gia đầu tư vào một số dự án thăm dò và khai thác dầu khí tại các nước Châu Phi khác như: hợp đồng Lô Bomana (ngoài khơi) tại Ca-mơ-run, hợp đồng Lô Marine XI tại Công-gô, hợp đồng Lô Majunga, ngoài khơi Propond Ma-đa-gát-xca, hợp đồng Lô Tanit, Lô Guellala (ngoài khơi) tại Tuy-ni-di. Ký thoả thuận hợp tác chung trong lĩnh vực dầu khí với các Công ty dầu khí quốc gia của các nước Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la, Xu đăng. Tập đoàn Viễn thông Quân đội-Vietel đã được cấp giấy phép và tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng viễn thông tại Mô-dăm-bích, thời gian tới Viettel sẽ tiếp tục đầu tư vào Ăng-gô-la và Tan-za-nia.

Hợp tác công nghiệp Việt Nam và Ni-giê-ria trong lĩnh vực viễn thông, giáo dục và sản xuất thiết bị tin học được thể hiện qua việc ký kết Thỏa thuận ghi nhớ giữa tập đoàn FPT và Công ty 21 Century Technologies Ltd. FPT đã sang triển khai dự án hợp tác đào tạo theo thỏa thuận và nghiên cứu khả năng mở các trung tâm giới thiệu sản phẩm và cung cấp dịch vụ tại Ni-gie-ria. Ngoài ra, phía Việt Nam cũng đang quan tâm đến các dự án liên doanh với Ni-giê-ria như phục hồi nhà máy bột mỳ Sunrise, nhà máy Thép Enugu, sản xuất giấy vệ sinh, trồng sắn.

Tại Gha-na, bên cạnh nhà máy sản xuất bánh kẹo Red Volta, đã có thêm 1 dự án đầu tư xây dựng nhà ở (khoảng 2 triệu USD) và 1 dự án khai thác đá (khoảng 10 triệu USD) của Việt Nam được triển khai trong hai năm 2010-2011. Hiện tại, một số doanh nghiệp Việt Nam đang nghiên cứu khả năng đầu tư nuôi trồng thủy sản, chế biến hàng nông sản và sản xuất vật liệu xây dựng tại Gha-na.

- Đối với khu vực Trung Đông:

Các nước khu vực Trung Đông, tới nay mới có Ả-rập Xê-út, Cô-oét, U.A.E, Ít-xra-en có các dự án hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp và dầu khí. Tình hình triển khai các dự án hợp tác nhìn chung tiến triển thuận lợi, bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ. Riêng hợp tác giữa Tổng Công ty Thăm dò Khai thác dầu khí - PVEP thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và đối tác tại I-ran để thực hiện dự án phát triển dầu khí lô Danan tại I-ran đang gặp khó khăn không thể vượt qua do yếu tố bên ngoài và cả phía chủ nhà do I-ran bị Liên hiệp quốc, Mỹ và các nước phương Tây cấm vận (Dự kiến tổng vốn đầu tư cho dự án lô Da-nan khoảng 1,1 tỷ USD). Dự án xây dựng cảng Container tại Hiệp Phước do tập đoàn DP World - UAE đầu tư đã đi vào hoạt động. Dự án nhà máy sản xuất khung nhà thép tiền chế của Tập đoàn Zamil Steel ở Khu Công nghiệp Nội Bài (Hà Nội) và Khu Công nghiệp Amata (Đồng Nai) là những điển hình thành công về đầu tư của Ả-rập Xê-út tại Việt Nam. Tháng 2/2009, PVN đã ký thoả thuận với Tập đoàn dầu mỏ quốc gia A-rập Xê-út (ARAMCO) về hợp tác trong việc cung cấp dầu thô cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, cung cấp sản phẩm khí hoá lỏng (LPG) và trong các dự án lọc hoá dầu nói chung của Việt Nam. Công ty KPI, đơn vị thành viên của Tổng công ty Dầu khí Cô-oét (KPC), đang cùng phía Nhật Bản tham gia dự án Liên hợp Lọc Hoá dầu Nghi Sơn và cam kết cung cấp dầu thô dài hạn cho nhà máy. Hợp tác công nghiệp giữa Việt Nam và Ít-xra-en chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là lĩnh vực viễn thông. Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn của Việt Nam như VNPT, Viettel, EVN đều có sử dụng công nghệ của Ít-xra-en. Tập đoàn UPC đang hợp tác với Công ty Sợi Quang Việt của Việt Nam để triển khai dự án xây dựng nhà máy sản xuất sợi quang hiện đại nhất Đông Nam Á tại Bình Dương. Ngoài ra với Ít-xra-en, ta cũng đã có hợp tác trong lĩnh vực chế tác và đánh bóng kim cương (Bạn mới mở xưởng tại Việt Nam) và hợp tác trong trồng bông ở Việt Nam theo công nghệ tiên tiến nhất giữa Tập đoàn Dệt may VN với tập đoàn Netafim Ít-xra-en, nuôi bò sữa theo công nghệ Ít-xra-en với sản phẩm sữa TH đang dần có chỗ đứng thên thị trường Việt Nam.



- Tại khu vực Nam Á, trong lĩnh vực dầu khí, Ấn Độ là một trong các nước có quan hệ hợp tác đầu tiên với Việt Nam, các Công ty của Ấn Độ, đặc biệt là Công ty Dầu khí Quốc gia Ấn Độ (ONGC) đã tham gia nhiều dự án thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí, đang tham gia 45% cổ phần trong Hợp đồng Chia sản phẩm (PSC) Lô 06.1, 19 và 12E ngoài khơi Việt Nam. Sản lượng khí thiên nhiên khai thác được hàng năm đạt 4 tỷ m3 khí và được cung cấp toàn bộ cho cụm Nhà máy điện Phú Mỹ. Ngoài ra thoả thuận hợp tác giữa PVN và ONGC về thăm dò dầu khí cũng đã được hai bên ký kết nhân chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Phía Ấn Độ cũng bày tỏ mong muốn giúp đỡ Việt Nam về các kỹ năng và kinh nghiệm lọc hóa dầu, thiếp lập đường ống cung cấp khí đốt thành phố, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và năng lượng sạch; hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực điện khí hóa, điện mặt trời ở nông thôn và đào tạo tại các cơ sở đào tạo của Ấn Độ về các lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Công ty Essar Energy Ltd cũng đã có một số dự án dầu khí với Việt Nam và một số công ty khác của Ấn Độ như International Manpower Resources, Larsen&Turbo Ltd, Thermax Babcock&Wilcox, Ion Exchange, GoDoanh nghiệpej & Boyce... cũng bày tỏ mong muốn hợp tác trong việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật, quản lý & chuyên gia, thiết bị cho ngành công nghiệp dầu khí.

Dự án thành lập liên doanh giữa Tổng công ty Thép Việt Nam và Tập đoàn Cao su Việt Nam với Tập đoàn Thép TATA Ấn Độ đầu tư Nhà máy liên hợp thép tại Hà Tĩnh, công suất 4,5 triệu tấn/năm, vốn đầu tư dự kiến 5 tỷ USD. Ngoài ra Ấn Độ còn có một số dự án đầu tư tại Việt Nam trong lĩnh vực hoá chất, sản xuất thuốc tân dược.

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp của Sri Lanka đã đầu tư tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất cơm dừa sấy, dệt may. Ngược lại, một số doanh nghiệp Việt Nam đang nghiên cứu kế hoạch đầu tư sản xuất máy móc nông nghiệp và thiết bị tại Sri Lanka.



3. Nhận định, dự báo nhu cầu của thị trường:

3.1. Đánh giá, dự báo những biến đổi về nhu cầu, thị hiếu, giá cả, khả năng tăng thị phần hàng xuất khẩu của Việt Nam, khả năng mở rộng mặt hàng mới trong thời gian tới vào thị trường.

3.1.1. Đánh giá chung:

Kim ngạch thương mại với các nước khu vực duy trì được tốc độ tăng trưởng ngoạn mục trong hai năm qua trong bối cảnh thị trường khu vực ít nhiều chịu ảnh hưởng từ tình hình bất ổn chính trị các nước trong khu vực, suy thoái kinh tế thế giới,.... Số lượng các mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn trước, nhiều mặt hàng mới lần đầu xuất hiện trong danh mục xuất khẩu như xi măng, điện thoại di động, phần cứng máy tính, máy móc nông nghiệp,…

Trong quan hệ thương mại, Việt Nam xuất siêu sang phấn lớn các nước khu vực, chủ yếu nhập siêu từ Ấn Độ song chênh lệch thương mại giữa hai nước bắt đầu thu hẹp đáng kể từ sau khi FTA ASEAN – Ấn Độ có hiệu lực.

Mặt hàng nhập khẩu từ khu vực tập trung chủ yếu vào các loại nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trong nước. Ấn Độ là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khu vực, chiếm gần 1/2 kim ngạch nhập khẩu toàn khu vực. Nhiều mặt hàng khu vực có thế mạnh như bông, hạt điều thô, dầu thô và các chế phẩm dầu mỏ thì lượng nhập khẩu của ta vẫn còn hạn chế, chủ yếu nhập khẩu qua trung gian do các khó khăn trong khâu thanh toán, vận chuyển và chế biến.

Tuy nhiên, thực tế là mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể, thương mại giữa Việt Nam với khu vực còn ở mức thấp. Đến nay, khu vực Châu Phi, Tây Á, Nam Á vẫn là khu vực mà Việt Nam có mức độ trao đổi thương mại thấp nhất so với các thị trường khác trên thế giới. Năm 2010 xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực mới chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Mặt hàng xuất khẩu kim ngạch lớn nhất vẫn chỉ là là gạo, các mặt hàng nông thổ sản khác như cà phê, tiêu, hàng hải sản, dệt may, hàng tiêu dùng có tỷ trọng giá trị gia tăng thấp.

3.1.2. Dự báo nhu cầu, thị hiếu thị trường, mặt hàng:

Phần lớn các nước Châu Phi, Trung Đông có nền nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp không thể đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho người dân. Do đó, đây là thị trường hết sức tiềm năng cho mặt hàng gạo của Việt Nam. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam như cà phê, hạt tiêu, cơm dừa, hạt điều, thủy sản đông lạnh, giày dép,... đều là những mặt hàng có chất lượng, giá cả phù hợp với thị hiếu thị trường và có tiềm năng lâu dài (thị trường các nước không đáp ứng đủ sản lượng hoặc không sản xuất). Với số lượng dân số lớn, đại đa số người dân có thu nhập trung bình và thấp, các mặt hàng như may mặc, tân dược, hàng gia dụng,... sẽ nhanh chóng đạt tăng trưởng rất cao cả về khối lượng và giá trị. Hơn nữa để phục vụ các dự án cải tạo, nâng cấp và xây mới các nhà máy phát điện và hệ thống đường dây tải điện và cơ sở hạ tầng, nhu cầu đối với các sản phẩm điện dân dụng, vật liệu xây dựng cũng sẽ gia tăng.

Bên cạnh đó, xu hướng sử dụng hải sản thay thế cho thịt trong bữa ăn hàng ngày tại các nước Châu Phi, Trung Đông cũng khiến nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm thủy hải sản ngày càng tăng. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản, thậm chí có thể nghiên cứu phương án nuôi trồng thủy sản tại nước sở tại phục vụ xuất khẩu sang các nước lân cận.

Sự tăng trưởng của các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng giá trị gia tăng cao như linh kiên máy tính và điện tử; phụ tùng ô tô và xe gắn máy, sản phẩm hóa chất, nhựa, cao su, máy móc thiết bị phụ tùng,... sẽ ổn định do nhu cầu cao từ thị trường khu vực cũng như chất lượng hàng hóa Việt Nam đã được khẳng định

Tuy nhiên, các mặt hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến,.. có nhu cầu cao, sức mua lớn, nhưng hiện hàng Việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc giá rẻ chiếm lĩnh thị trường bằng hệ thống phân phối trực tiếp. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng là nước đang nổi lên mạnh mẽ tại thị trường này, do các lợi thế về đối tác chiến lược, quan hệ khối BRICS và cư dân gốc Ấn, người lao động làm thuê của Ấn Độ tại một số nước Châu Phi, Trung Đông có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.

3.2. Những cảnh báo đối với doanh nghiệp Việt Nam:

3.2.1. Cảnh báo về những khó khăn mà hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể gặp phải tại thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á:

- Tại hầu hết các nước trong khu vực, ngoại trừ các nước thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) thì hàng rào thuế quan vẫn còn rất cao, mang tính bảo hộ rõ rệt. Hàng nhập khẩu vào các nước cũng sẽ gặp phải nhiều rào cản hơn về chống bán phá giá và tự vệ thương mại, nhất là trong bối cảnh nhập siêu của các nước khu vực này ngày một tăng lên như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ. Do đó, đối với một số hàng hóa của Việt Nam đã có tỷ trọng nhập khẩu cao và thị phần lớn tại các nước cần được theo dõi sát sao để có những biện pháp cảnh báo sớm, góp phần ngăn chặn mọi vụ kiện cáo thương mại, ảnh hưởng đến quan hệ song phương.

- Một khó khăn mà hàng xuất khẩu của Việt nam có thể gặp phải là vấn đề thanh toán. Khách hàng tại một số nước Châu Phi, Trung Đông và Nam Á thường thanh toán chậm hoặc tìm cách chiếm đoạt lô hàng mà không thanh toán. Vì vậy, các doanh nghiệp cần lưu ý đảm bảo thanh toán an toàn thông qua các phương thức thanh toán trả tiền trước hoặc mở L/C thông qua ngân hàng uy tín. Luật hải quan một số nước Nam Á cấm tái xuất hàng nhập khẩu nên nhiều khách hàng Pa-kit-xtan lợi dụng quy định này để lừa đảo khách hàng nước ngoài.

- Xuất khẩu sang I-ran gặp nhiều khó khăn do cấm vận của Mỹ và Liên hiệp quốc.

- Bên cạnh đó, Chính phủ An-giê-ri cũng có những quy định riêng trong thanh toán hàng nhập khẩu để bán nguyên trạng bằng L/C là một rào cản gây trở ngại cho xuất khẩu vì thủ tục phức tạp, thời gian kéo dài, phí cao trong khi các doanh nghiệp An-giê-ri chưa có kinh nghiệm và điều kiện thực hiện thanh toán L/C tại các ngân hàng chưa đáp ứng.

3.2.2. Cảnh báo những doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng vào thị trường sở tại không giữ uy tín, ảnh hưởng đến uy tín Việt Nam

Thời gian qua, một số doanh nghiệp Việt Nam có biểu hiện làm ăn không đứng đắn, chây ỳ thực hiện hợp động, chiếm dụng tiền của các doanh nghiệp nước ngoài, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Việt Nam. Vụ KV4 đã phối hợp với các Thương vụ tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài giải quyết các tranh chấp phát sinh. Danh sách các doanh nghiệp Việt Nam này nêu tại Phụ lục 1, đề nghị các Thương vụ lưu ý và có các biện pháp cảnh báo cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài.



IV. Giải pháp và kiến nghị:

1. Triển vọng hợp tác trong thời gian tới:

- Với dân số lớn và nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển, Châu Phi thực sự là thị trường tiềm tàng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản và hàng tiêu dùng. Vấn đề đặt ra để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang khu vực này là chất lượng, mẫu mã sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và tuân thủ các quy định về kỹ thuật của các nước này, đặc biệt đối với các mặt hàng máy móc thiết bị, chế biến nông sản, thức ăn chăn nuôi, vật liệu xây dựng,.. .

Về hợp tác công nghiệp: Ngoài các dự án đã và đang được triển khai, các lĩnh vực có thể mở rộng hợp tác đầu tư bao gồm: Xây dựng, bưu chính viễn thông, nuôi trồng thủy sản,...

- Đối với thị trường Trung Đông, các mặt hàng dệt may, da giầy, hàng gia dụng, cơ khí tiêu dùng, cơ khí nông nghiệp, vật liệu xây dựng, các sản phẩm nông sản và chế biến nông sản thực phẩm tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của các nước khu vực này.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ cần xem xét khả năng nhập khẩu dầu thô từ Ả-rập Xê-út để đáp ứng nhu cầu lọc dầu ở trong nước. Ngoài ra, trong kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn 2010-2014, Ả-rập Xê-út dành ngân sách lớn cho phát triển xây dựng hạ tầng, nhà ở, các thành phố kinh tế. Vì vậy nhu cầu liên doanh với các công ty xây dựng nước ngoài để cùng tham gia thực hiện các dự án này là rất lớn. Ngoài ra, nhu cầu về vật liệu xây dựng cũng sẽ tăng mạnh và đây là cơ hội cho các công ty Việt Nam muốn đầu tư sang Ả-rập Xê-út và xuất khẩu các mặt hàng vật liệu xây dựng

- Tiềm năng tăng trưởng XNK đối với Khu vực Nam Á có thể qua được cụ thể hóa qua việc tận dụng các lợi thế của Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN Ấn Độ trong xuất nhập khẩu hàng hóa với thị trường lớn này trong bối cảnh số lượng các doanh nghiệp hai phía quan tâm đến nhau ngày một nhiều hơn. Nghiên cứu ký kết Hiệp định thương mại ưu đãi với Sri Lanka để mở rộng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường mới này và củng cố, phát triển các mặt hàng mới sang các thị trường Băng-la-đét và Pa-kít-ztan.



2. Giải pháp và kiến nghị:

- Các bên cần tiếp tục tăng cường trao đổi các Đoàn cấp Nhà nước, cấp Bộ và doanh nghiệp để thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác trên các lĩnh vực hai nước có thế mạnh, qua đó giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước, con người và các cơ hội kinh doanh, đầu tư của Việt Nam.

- Các Bộ ngành hữu quan nghiên cứu đàm phán hoặc hoàn tất đàm phán để tiến tới ký kết (hoặc ký lại) các hiệp định khung quan trọng như: Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư, Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định Hàng không,... tạo điều kiện pháp lý cho các hoạt động của doanh nghiệp hai nước. Đồng thời, khởi động việc đàm phán các hiệp định hợp tác tài chính và ngân hàng, tương trợ tư pháp, vận tải đường biển để tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác song phương. Triển khai thực hiện tốt các nội dung hợp tác tại Kỳ họp UBHH giữa Việt Nam và nước sở tại, trong đó tập trung vào các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác an ninh năng lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh lương thực,...

- Kêu gọi doanh nghiệp cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng hóa, nắm vững nghiệp vụ ngoại thương, hiểu biết luật quốc tế, ngoại ngữ. Bên cạnh đó, tăng cường tiếp xúc khách hàng, nghiên cứu thị trường, thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, marketing của chính doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp của ta tham dự các hội chợ, triển lãm, hội thảo doanh nghiệp... khuyến khích mở chi nhánh, công ty thương mại, VPĐD tại nước sở tại.

- Phối hợp với các Bộ ngành của nước sở tại tổ chức đoàn doanh nghiệp sang Việt Nam tham dự Hội chợ lớn như Vietnam Expo để tiếp cận khách hàng, tìm hiểu thị trường.

- Tiếp tục phối hợp với Đại sứ quán sử dụng hiệu quả Quỹ Ngoại giao phục vụ kinh tế qua việc tổ chức các buổi giới thiệu sản phẩm phối hợp với các Phòng Thương mại địa phương, công tác nghiên cứu thị trường, mặt hàng, bạn hàng,...

- Cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin thị trường và đẩy mạnh hoạt động hội thảo, hội nghị giới thiệu các vấn đề về thị trường. Tăng cường vai trò của các Hội đồng doanh nghiệp, Phòng thương mại Hỗn hợp Việt Nam – nước sở tại trong công tác kết nối thông tin, doanh nghiệp.

- Thành lập Trung tâm Xúc tiến Thương mại của Bộ Công Thương tại thành phố Mumbai - Ấn Độ. Thành lập Trung tâm giới thiệu sản phẩm hàng hóa Việt tại Nam Phi với sự tham gia của hiệp hội, doanh nghiệp.

- Phối hợp các Bộ ngành hữu quan xây dựng cơ chế cấp thị thực nhập cảnh cho khách hàng doanh nghiệp từ các nước trong khu vực vừa đảm bảo yếu tố an ninh và thuận lợi cho công tác xúc tiến thương mại

- Thông báo và khuyến khích doanh nghiệp muốn xuất khẩu bền vững hàng hóa vào Ni-giê-ria, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đăng ký xin giấy chứng nhận SONCAP và NAFDAC cho các sản phẩm dự định xuất khẩu vào thị trường này.

- Đối với thị trường I ran: do gặp khó khăn trong vấn đề thanh toán do cấm vận của Mỹ, đề xuất hai bên thỏa thuận chọn lựa “Danh mục trao đổi hàng hóa” và ký kết “Hiệp định Thương mại hàng đổi hàng” ràng buộc các đơn vị được ủy quyền của hai bên thực hiện.

- Tăng cường hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản tại các nước sở tại, phối kết hợp thuê kho ngoại quan hỗ trợ vấn đề thanh toán khi xuất khẩu sang thị trường Châu Phi./.




VỤ TRƯỞNG

Lý Quốc Hùng

PHỤ LỤC

Danh sách một số doanh nghiệp tại thị trường khu vực làm ăn không uy tín

(Để các doanh nghiệp Việt Nam tham khảo)

1. Công ty Leather Kraft, địa chỉ: B-44, Urja Chs, Plot No.8, Sector -10A, Vashi, Navi Mumbai 400 703, giám đốc: Mr. Siddique Akbar, đã lừa một Công ty Việt Nam số tiền 6.000 USD về lô hàng nhập khẩu 15 tấn thịt trâu đông lạnh.

2. Công ty Karan Exports – Imports, địa chỉ: 16 Acharappan St, Cheenai, không thực hiện đúng hợp đồng đã ký gây thiệt hại cho một Công ty Việt Nam 12.750 USD trong hợp đồng bán lô quế chẻ.

3. EVERSHINE IMPEX.

4. CORPORATION TRADING SERVICES.

5. GALAXY ENTERPRISES.

6. A.N. COTTON FACTORY.

7. GLOBAL TRADING CORPORATION.

8. SG TRADING CORPORATION.

Các Công ty từ số 3 đến số 8 đều có nguồn gốc và đặt trụ sở tại Pa-kít-xtan.




BỘ CÔNG THƯƠNG

VỤ THỊ TRƯỜNG

CHÂU PHI, TÂY Á, NAM Á

­­­­­

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

––––––––––––––––––––––––––






Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2011


tải về 0.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương