CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập-Tự do-Hạnh phúc


D. MỘT SỐ NỘI DUNG KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BAN HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH



tải về 485.23 Kb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích485.23 Kb.
#16256
1   2   3   4   5   6

D. MỘT SỐ NỘI DUNG KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BAN HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH.

1. Tại kỳ họp thứ 5 Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XII (ngày 11/7/2012), Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 61/2012/NQ-HĐND về việc quy định mức chi bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh kết quả triển khai, thực hiện Nghị quyết này trên địa bàn tỉnh. Những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết này (nếu có).

Để triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, ngày 27/8/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2169/QĐ-UBND “Về việc quy định chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc các cơ quan, đơn bị do tỉnh quản lý”. Theo đó, mức chi, đối tượng được hưởng, nguồn kinh phí, quản lý, sử dụng và thanh quyết toán đúng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày 16/3/2012 của Liên bộ: Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ “Quy định chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh” và Nghị quyết số 61/2012/NQ-HĐND ngày 11/7/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

Tiếp đó, Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản số 4041/UBND-TD ngày 31/7/2013 chỉ đạo cụ thể việc triển khai thực hiện Quyết định số 2169/QĐ-UBND ngày 27/8/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh (chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc về đối tượng, thời gian tính...).

Đến nay, các cơ quan đơn vị, các địa phương trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định.

Đồng thời, qua theo dõi, nắm bắt tình hình tại các địa phương, đơn vị, nhận thấy: Nhiều xã, phường, thị trấn trong tỉnh chưa tổ chức thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức được phân công kiêm nhiệm làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Nguyên nhân do việc tiếp cận các văn bản quy định của cấp cơ sở chưa kịp thời, chưa đầy đủ, việc tổ chức thực hiện còn lúng túng, trong kế hoạch ngân sách năm 2013 chưa được bổ sung nội dung chi này.

Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các sở ngành chức năng và Ủy ban nhân dân các địa phương tổ chức thực hiện triệt để nội dung trên trong năm 2014.



2. Tại kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XII (ngày 12/12/2012), Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh Báo cáo kết quả giám sát “việc thực hiện pháp luật về cải cách thủ tục hành chính trong cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh”. Trong báo cáo đưa ra một số nội dung đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh quan tâm, chỉ đạo trong thời gian tới đối với công tác cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh, trong đó có các nội dung:

- Chỉ đạo các Sở, ngành, địa phương nhất là cấp huyện thực hiện thống nhất mô hình một cửa theo quy định tại Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg.

- Đề xuất cơ chế chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính tại các cơ quan, địa phương trên địa bàn tỉnh.

- Xem xét, trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định mức phụ cấp đối với cán bộ, công chức làm tại bộ phận một cửa để thay thế Quyết định số 1737/QĐ-UBND ngày 02/6/2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh do không còn phù hợp.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh tình hình triển khai, thực hiện các kiến nghị đã nêu trong báo cáo kết quả giám sát và các nội dung cụ thể nêu trên. Những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết này.

- Về thực hiện thống nhất mô hình một cửa theo quy định tại Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg.

Việc thực hiện cơ chế một cửa theo quy định tại Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ đến cuối năm 2012, 100% các sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đã thực hiện tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh chưa có đơn vị thực hiện mô hình một cửa, một cửa liên thông theo hướng hiện đại.

Ngày 28/6/2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành 04 Quyết định (từ Quyết định số 1647-1650) về thành lập Trung tâm Hành chính công gồm 01 đơn vị của tỉnh và 03 đơn vị cấp huyện (Uông Bí, Móng Cái, Hạ Long). Còn lại 2 đơn vị cấp huyện là Cẩm Phả và Vân Đồn dự kiến sẽ thực hiện vào cuối năm 2013 đến đầu năm 2014.

Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh trực thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, là bộ phận tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và các sở, ban, ngành; các Trung tâm cấp huyện trực thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Mục tiêu của việc thành lập các Trung tâm là hướng đến việc phục vụ cá nhân, tổ chức theo hướng thân thiện, nhanh chóng, hiệu quả.

Về bản chất, Trung tâm Hành chính công thực hiện tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo hướng hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm giải quyết công việc, thiết bị giám sát hoạt động, vận hành của Trung tâm, hệ thống tra cứu, hướng dẫn... và có điểm mới là dần từng bước thực hiện cơ chế ủy quyền “một thẩm định, một phê duyệt”.

Hiện nay, 02 Trung tâm Hành chính công của Uông Bí và Móng Cái đi vào hoạt động đã cơ bản ổn định và bước đầu khẳng định được sự lựa chọn đúng đắn của một mô hình mới, chưa có tiền lệ.

Trung tâm Hành chính công của tỉnh đang được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trên cơ sở thống nhất đề xuất danh mục, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính được đưa vào hoạt động tại Trung tâm.

Dự kiến khi các Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và 05 địa phương thực hiện thí điểm đi vào hoạt động ổn định đến năm 2014, tỉnh sẽ tổng kết và triển khai thực hiện trên diện rộng tại các đơn vị cấp huyện còn lại. Đây sẽ là mô hình chung, thống nhất thực hiện trên toàn tỉnh. Trong thời gian thí điểm, tỉnh vẫn chỉ đạo các địa phương chưa thực hiện Trung tâm Hành chính công vẫn duy trì, thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh.



- Về đề xuất cơ chế, chính sách ưu đãi.

Nhằm tạo điều kiện cho hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh đạt kết quả, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giao Sở Tài chính căn cứ Thông tư số 224/2010/TT-BTC quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính để tham mưu, đề xuất và trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 3627/QĐ-UBND ngày 21/11/2011 về việc quy định mức chi, một số nội dung chi phục vụ hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính đối với các đơn vị thuộc tỉnh quản lý.

Tuy nhiên, ngày 10/10/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 167/2012/TT-BTC ngày 10/10/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính thay thế Thông tư số 224/2010/TT-BTC. Trong đó có bổ sung thêm quy định về chính sách hỗ trợ cho các cán bộ đầu mối làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính (tại Khoản 7 Điều 3 Thông tư, mức chi cụ thể do Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định).

Để cụ thể hóa các mức chi hỗ trợ cho cán bộ đầu mối làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính tại các sở, ban, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Sở Tài chính nghiên cứu, xây dựng dự thảo Quyết định về việc quy định định mức chi cụ thể cho cán bộ, công chức là đầu mối làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh, để trình Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết thông qua theo quy định.

- Về trình mức phụ cấp đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận một cửa (thay thế Quyết định số 1737/QĐ-UBND ngày 02/6/2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh).

Ngày 02/6/2009, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1737/QĐ-UBND về việc quy định mức phụ cấp đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận. Cụ thể đối với cán bộ, công chức chuyên trách làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở các cấp, mức phụ cấp là 200.000 đ/người/tháng. Nếu làm việc cả ngày thứ 7 thì được hưởng lương làm thêm giờ theo quy định.

Qua kiểm tra thực tế tại các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn, chế độ phụ cấp cho công chức chuyên trách tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả nhìn chung đã được thực hiện tại hầu hết các cơ quan, đơn vị, địa phương. Tuy nhiên, mức hưởng tại các cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa thống nhất, chưa đồng đều, thậm chí có nơi chưa thực hiện với lý do khó khăn về tài chính do đã thực hiện khoán chi, tự chủ kinh phí...

Thực tế, với mức phụ cấp tại Quyết định 1737/QĐ-UBND chưa phù hợp với điều kiện hiện nay, đặc biệt đối với những cơ quan, đơn vị, địa phương có số lượng thủ tục hành chính giải quyết tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả nhiều, phức tạp cần có sự khuyến khích, hỗ trợ kịp thời.

Ngày 22/10/2012, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 172/2012/TT-BTC quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm công tác cải cách hành chính nhà nước, trong đó có quy định cụ thể về mức hỗ trợ đối với công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả và mức chi cụ thể do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định, phù hợp với khả năng ngân sách của địa phương, ngoài ra còn được hưởng lương làm thêm giờ theo quy định.

Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tài chính, đồng thời căn cứ vào thực tế của tỉnh trong việc thành lập các Trung tâm Hành chính công, thời gian tới, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ xem xét xây dựng điều chỉnh mức chi đối với công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua để thống nhất áp dụng trên địa bàn.



3. Tại kì họp thứ 9 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XII, trả lời về tiến độ di dời các cửa hàng kinh doanh xăng dầu theo Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 Về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2020, Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết trong 17 cửa hàng phải di chuyển theo quyết định trên, có 08 cửa hàng đã di chuyển, trong đó cửa hàng xăng dầu Loong Toòng đã dừng hoạt động (theo biểu kê chi tiết).

Tuy nhiên nhiều cử tri phản ánh cũng như thực trạng cửa hàng xăng dầu Loong Toòng cho thấy thời gian quan cửa hàng ngừng bán xăng dầu là để duy tu, sửa chữa, nay cửa hàng đã sửa chữa xong và có dấu hiệu sắp sửa hoạt động. Vậy đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết thực chất việc dừng hoạt động của cửa hàng nêu trong báo cáo là thế nào? Việc tiến hành di dời cửa hàng theo lộ trình ra sao?

Theo quy định tại Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Cửa hàng xăng dầu tại ngã tư Loong Toòng thuộc Công ty TNHH Phúc Hải thuộc diện di dời.

Ngày 23/7/2013, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu của cửa hàng xăng dầu Loong Toòng hết hạn và Sở Công Thương đã thu hồi.

(Ngày 10/7/2013 Sở Công Thương có văn bản số 1329/SCT-QLTM gửi Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long với nội dung: Cửa hàng xăng dầu Loong Toòng nằm tại nút giao thông ngã tư, lưu lượng xe và người qua lại đông đúc, gần khu vực chợ Hạ Long II, ảnh hưởng giao thông và công tác phòng cháy chữa cháy tại vực này. Sở Công Thương không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu cho cửa hàng này)



4. Đến ngày 30/6/2013, toàn tỉnh còn 16 xã, phường, thị trấn, 4 huyện, thị xã, thành phố chưa đạt phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, trong khi theo lộ trình đến hết năm 2013 đạt 100% xã, phường, thị trấn đạt phổ cấp giáo dục mầm non 5 tuổi. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết giải pháp trong thời gian tới để đạt được mục tiêu trên.

Thực hiện Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1605/QĐ-UBND ngày 24/5/2011 về Phê duyệt Kế hoạch Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, mục tiêu đến năm 2013 có 100% số huyện đạt chuẩn, tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

Mục tiêu đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi của tỉnh được xây dựng trên cơ sở thực trạng phát triển giáo dục mầm non của tỉnh (tỉ lệ huy động, chất lượng chăm sóc-giáo dục trẻ, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và thiết bị), lồng ghép với việc thực hiện các mục tiêu theo chỉ đạo của tỉnh: Nghị quyết số 01-NQ/TV ngày 12/11/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2010-2015, định hướng đến 2020; Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 27/10/2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, theo đó phấn đấu đến năm 2012 có 100% trường mầm non đạt chuẩn.

Tuy nhiên, do tình hình khó khăn chung, đặc biệt khó khăn trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nên việc đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất trường mầm non (đủ phòng học, phòng học đạt chuẩn) ở các địa phương: Tiên Yên, Hoành Bồ, Móng Cái, Cẩm Phả không đạt theo quy định phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

Trước tình hình trên, ngày 12/7/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 4664/UBND-GD yêu cầu Ủy ban nhân dân các đơn vị cấp huyện chưa đạt chuẩn phổ cập tập trung nguồn lực để đạt các tiêu chuẩn về phổ cập theo quy định, đặc biệt là tiêu chuẩn về cơ sở vật chất; trước mắt ưu tiên dành phòng học, bố trí giáo viên đạt chuẩn cho các lớp mẫu giáo 5 tuổi. Đến nay các địa phương Hoành Bồ, Tiên Yên, Móng Cái cơ bản đã khắc phục được khó khăn về cơ sở vật chất; riêng Cẩm Phả mặc dù đã có nhiều giải pháp tích cực song tiến độ xây dựng cơ sở vật chất cho mầm non không hoàn thành được trong năm 2013.

Để đảm bảo sự bền vững của kết quả phổ cập, góp phần thiết thực đối với việc nâng cao chất lượng chăm sóc-giáo dục trẻ mầm non, đồng thời chia sẻ với tình hình khó khăn chung, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có chủ trương giãn thời gian đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi của tỉnh đến năm 2015 (bằng tiến độ chung của cả nước), chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các ngành, địa phương tích cực thực hiện công tác phổ cập theo hướng bền vững, chất lượng, đảm bảo tiến độ.



5. Tình trạng nợ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc giải quyết chế độ cho người lao động: nghỉ hưu, thai sản, ốm đau… Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết những giải pháp khắc phục tình trạng nêu trên để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội. Nguyên nhân, nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, không có khả năng đóng bảo hiểm xã hội đúng hạn; một số doanh nghiệp cố tình không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Trước tình hình trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo các đơn vị, các cấp, các ngành, các địa phương tăng cường công tác quản lý Nhà nước về Bảo hiểm xã hội, tăng cường công tác thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh (văn bản số 1659/UBND-VX2 ngày 20/4/2012; số 3341/UBND-VX2 ngày 16/7/2012; số 5431/UBND-VX2 ngày 1/11/2012).

Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, năm 2012, Bảo hiểm xã hội tỉnh đã trưng dụng cán bộ các phòng ban thành lập 12 tổ thu nợ và chỉ đạo Bảo hiểm xã hội các huyện, thị xã, thành phố thành lập các tổ thu nợ tại bảo hiểm xã hội các huyện, thị xã, thành phố; đồng thời phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động tỉnh thành lập 03 đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra 30 đơn vị, doanh nghiệp, tập trung vào các đơn vị có nợ đọng cao, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động, pháp luật về bảo hiểm xã hội tại các doanh nghiệp.

Năm 2013, Bảo hiểm xã hội đã tổ chức kiểm tra công tác thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại 26 đơn vị trên địa bàn thành phố Hạ Long; phối hợp với Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức 03 cuộc đối thoại trực tiếp về các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế với gần 300 đối tượng là chủ sử dụng lao động, chủ tịch công đoàn và đại diện người lao động tại thành phố Hạ Long, Đông Triều, Cẩm Phả; tiến hành khởi kiện 03 đơn vị ra toà,…

Kết quả, tính đến 15/9/2013, toàn tỉnh thu được 1.833 tỷ đồng, đạt 64,4% kế hoạch. Tổng số tiền chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội trong 9 tháng năm 2013 trên 2.300 tỷ đồng.

Theo quy định, cơ quan Bảo hiểm xã hội tiến hành thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được bao nhiêu đều chuyển hết về Trung ương và chi bao nhiêu thì Bảo hiểm xã hội Việt Nam lại cấp xuống đầy đủ. Bên cạnh đó, để đảm bảo công tác giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn ốm đau, thai sản, dưỡng sức cho người lao động được kịp thời, Luật Bảo hiểm xã hội quy định, các đơn vị sử dụng lao động được để lại 2% trên tổng quỹ lương của tiền đóng bảo hiểm xã hội để ứng trước cho việc giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động tại đơn vị.

Do vậy, mặc dù đến hết 15/9/2013, số nợ bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh là 115 tỷ đồng nhưng việc giải quyết chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của Bảo hiểm xã hội tỉnh cơ bản không ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.



6. Tại kỳ họp thứ 7, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 67/2012/NQ-HĐND ngày 12/12/2012 về tăng cường quản lý và phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa-thể thao trên địa bàn tỉnh, trong đó có nội dung hỗ trợ kinh phí tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao hằng năm cho các đơn vị có nhà văn hóa-khu thể thao cấp thôn. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay các Nhà văn hóa-khu thể thao cấp thôn vẫn chưa nhận được nguồn hỗ trợ kinh phí hoạt động, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết nguyên nhân và giải pháp triển khai thực hiện trong thời gian tới.

Đã đề cập đến tại Ý thứ 2, Điểm 1.3.2 Khoản 1.3 Mục I Phần A.



7. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho biết kết quả triển khai thực hiện chính sách cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ. Trên thực tế hiện nay một số sinh viên hệ cử tuyển đã tốt nghiệp ra trường nhưng chưa được bố trí việc làm, đề nghị cho biết nguyên nhân và giải pháp thực hiện.

Thực hiện Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ, từ năm 2006-2013, trên cơ sở nhu cầu và đề xuất của các địa phương, Tỉnh đã cử 153 đối tượng học đại học, cao đẳng, trung cấp theo chế độ cử tuyển, tập trung vào một số ngành cần đào tạo cán bộ đào tạo cán bộ, công chức, viên chức cho các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp.

Từ năm 2006-2013 tỉnh đã cử 153 đối tượng học đại học, cao đẳng theo chế độ cử tuyển, trong đó: 77 đối tượng đang học, 5 đối tượng chuẩn bị nhập học trong năm 2013; 71 đối tượng đã ra trường, trong đó 44 đối tượng đã được bố trí việc làm (19 đối tượng qua tuyển dụng, 25 đối tượng đang hợp đồng trong các đơn vị sự nghiệp) và còn 27 đối tượng cử tuyển đã tốt nghiệp ra trường nhưng chưa được bố trí việc làm phù hợp trong các cơ quan hành chính hoặc đơn vị sự nghiệp.

Để có việc làm tại các cơ quan hoặc đơn vị, các sinh viên hệ cử tuyển cũng như các đối tượng sinh viên mới ra trường khác đều phải thực hiện thi tuyển hoặc xét tuyển (trừ các đối tượng có thành tích cao trong học tập: Tốt nghiệp Đại học thủ khoa hoặc loại giỏi). Việc tuyển dụng công chức, viên chức hiện nay thực hiện theo các nghị định của Chính phủ (Nghị định 24/2010/NĐ-CP đối với tuyển dụng công chức và Nghị định 29/2012/NĐ-CP đối với tuyển dụng viên chức). Tại các quy định này, đối tượng sinh viên hệ cử tuyển không thuộc đối tượng được ưu tiên khi tham gia tuyển dụng và cũng không thuộc đối tượng được xét tuyển đặc cách hoặc tiếp nhận không qua thi tuyển.

Để giải quyết kiến nghị của cử tri theo quy định, Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu Uỷ ban nhân dân các địa phương khi đăng ký chỉ tiêu đi học cử tuyển cần báo cáo làm rõ cơ sở thực tế, nhu cầu vị trí việc làm khi đăng ký, báo cáo cụ thể thực trạng các vị trí việc làm hiện nay mà trước đây dự kiến dành cho học sinh cử tuyển. Sau đó, trên cơ sở nội dung đã đề xuất Uỷ ban nhân dân tỉnh, tuyển dụng và bố trí công tác cho các sinh viên hệ cử tuyển sau khi tốt nghiệp ra trường đảm bảo quy định và đáp ứng nguyện vọng của cử tri. Đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ chỉ đạo nghiên cứu, đề nghị Trung ương xem xét, sửa đổi các quy định về tuyển dụng để có chế độ ưu tiên, đặc cách cho các đối tượng sinh viên cử tuyển sau khi tốt nghiệp ở vùng cử tuyển; hướng dẫn và làm rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc tiếp nhận, phân công công tác cho người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp trong việc thực hiện quy định về tuyển dụng viên chức, công chức

8. Tại báo cáo số 96/BC-UBND ngày 19/6/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri với kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân dân tỉnh có nội dung: “Việc cử tri kiến nghị về việc xem xét lại việc xây dựng nơi đốt rác thải y tế của Bệnh viện đa khoa tỉnh gần khu dân cư, không đảm bảo vệ sinh môi trường là có cơ sở....Để khắc phục việc ô nhiễm môi trường lò đốt rác thải y tế của Bệnh viện đa khoa tỉnh nói riêng và các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh nói chung, Ủy ban nhân dân tỉnh giao Sở Y tế chủ trì phối hợp với các ngành, các địa phương triển khai ngay việc xây dựng cơ sở xử lý tập trung chất thải rắn y tế nguy hại theo Quyết định số 170/QĐ-TTG ngày 08/02/2012 của Thủ trướng Chính phủ”.

+ Đối với lò đốt rác thải y tế của Bệnh viện Đa khoa tỉnh:

Trong thời gian chưa có cơ sở xử lý tập trung chất thải rắn y tế nguy hại, để xử lý được triệt để rác thải y tế nguy hại phát sinh trong quá trình khám chữa bệnh, Bệnh viện vẫn sử dụng lò đốt hiện có. Để giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường khu dân cư xung quanh, tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri và chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Y tế đã chỉ đạo nghiên cứu để nâng chiều cao ống khói lò đốt đảm bảo theo quy định hiện hành.



+ Đối với việc triển khai xây dựng cơ sở xử lý tập trung chất thải rắn y tế nguy hại theo Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 08/02/2012 của Thủ tướng chính phủ:

Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Sở Y tế đã đưa nội dung “đầu tư hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại theo hướng xử lý tập trung tại 03 khu vực: Miền đông (Tiên Yên), miền tây (Uông Bí) và khu vực Hạ Long" vào dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển ngành y tế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Sở Y tế làm việc với các cơ quan của Bộ Y tế để xin hỗ trợ từ nguồn kinh phí xử lý môi trường y tế của Bộ để thực hiện việc đầu tư hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại theo hướng tập trung, trước mắt tại khu vực thành phố Hạ Long. Hiện nay Sở Y tế đang tích cực phối hợp với Cục Quản lý môi trường-Bộ Y tế để thực hiện công việc này.

Trong thời gian tới, Sở Y tế phối hợp với các ngành, địa phương khảo sát địa điểm xây dựng hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại theo hướng tập trung, bá́o cáo Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định.

Trên đây là kết quả giải quyết một số nội dung được nhiều cử tri các địa phương trong tỉnh gửi tới Kỳ họp thứ 9, Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XII và gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh sai Kỳ họp thứ 3 và trước Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII; kết quả thực hiện các nội dung chất vấn đã được Chủ toạ Kỳ họp thứ 9, Hội đồng nhân dân khoá XII kết luận; kết quả giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân do Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh chuyển; kết quả giải quyết theo kiến nghị của các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh./.


Nơi nhận:

- Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh;

- Thường trực HĐND tỉnh;

- Chủ tịch, các PCT Uỷ ban nhân dân tỉnh;

- VP.HĐND&ĐĐBQH tỉnh;

- Các sở: GTVT, NV, NgV, CT, KHĐT, TC, TNMT, NN&PTNT, YT, GDĐT, LĐTBXH, TP, VHTTDL;

- Công an tỉnh; Thanh tra tỉnh;

- Các ban: ATGT, XDNTM, BLĐTCCT Văn hóa Thể thao;

- Bảo hiểm Xã hội tỉnh; Cục Thuế;

- Ngân hàng Nhà nước CN QN;

- Các công ty: Điện lực QN, TNHH 1TV KD nước sạch QN;

- Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố;

- Đài PTTH tỉnh, Báo Quảng Ninh;

- Lãnh đạo, Chuyên viên VP UBND tỉnh;

- Lưu: VT, TH2.

N.85-BC012



TM. UỶ BAN NHÂN DÂN

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH

Đỗ Thông



Каталог: vi-VN -> Lists
Lists -> THÔng tư CỦa bộ quốc phòng số 113/2009/tt-bqp ngàY 07 tháng 12 NĂM 2009
Lists -> THÔng tư Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 12/2007/NĐ-cp ngày 17 tháng 01 năm 2007 quy định về công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân
Lists -> UỶ ban nhân dân tỉnh quảng ninh
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh ban chỉ ĐẠo công tác y tế trưỜng họC
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Số: 1216 /QĐ-snv cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 485.23 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương