UỶ ban nhân dân tỉnh quảng ninh



tải về 153.18 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu13.07.2016
Kích153.18 Kb.
#1684


UỶ BAN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NINH

Số: 79 /BC-UBND







CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quảng Ninh, ngày 14 tháng 5 năm 2013

BÁO CÁO


Kết quả giải quyết một số đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

của công dân do HĐND Tỉnh và Đoàn ĐBQH Tỉnh chuyển đến

Kính gửi: - Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh,

- Thường trực Hội đồng nhân dân Tỉnh.

Thực hiện văn bản số 137/HĐND-TTDN2 ngày 15/4/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh “V/v đề nghị báo cáo kết quả giải quyết đơn thư của công dân”; văn bản số 26/ĐĐBQH-TTDN2 ngày 28/00/2013 và văn bản số 34/ĐĐBQH-TTDN2 ngày 08/02/2013 của Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh, Ủy ban nhân dân Tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân Tỉnh và Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh như sau:



I. Những vụ việc do Hội đồng nhân dân Tỉnh chuyển đến:

1.Vụ việc của ông Vũ Văn Năng, tổ 26B, khu 4, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long:

Nội dung: Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân Hồng Ngọc trả lại 1.500m2 đất để khu 4 xây dựng nhà văn hóa vì hiện nay khu 4 chưa có nhà văn hóa:

Ngày 8/4/2008, tại Biên bản thỏa thuận giữa UBND phường Hà Khánh và Đại diện Doanh nghiệp tư nhân Hồng Ngọc đã thống nhất giành một phần diện tích đất là 1.500m2 của Doanh nghiệp Hồng Ngọc để xây dựng nhà trẻ, nhà sinh hoạt công đồng tại khu 4, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long.

Ngày 16/6/2011, UBND tỉnh có văn bản số 2201/UBND-QH1 đồng ý với đề xuất và ủy quyền cho UBND thành phố Hạ Long về địa điểm xây dựng Nhà văn hóa khu 4, phường Hà Khánh (Nằm trong ranh giới Quy hoạch Nhà máy sản xuất và tấm lợp mạ màu, thép hình, khung nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Ngọc được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch ngày 12/7/2005), Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch Nhà máy sản xuất và tấm lợp mạ màu, thép hình, khung nhà xưởng của DNTN Hồng Ngọc.

Ngày 22/8/2011, UBND thành phố Hạ long có Quyết định số 2527/QĐ-UBND về phê duyệt Quy hoạch tổng mặt sử dụng đất tỷ lệ 1/200- Quy hoạch chi tiết Nhà văn hóa khu phố 4, phường Hà Khánh. Trong số diện tích 1.500m2 đất mà Doanh nghiệp tư nhân Hồng Ngọc giành ra để xây dựng nhà văn hóa khu 4 phường Hà Khánh có 03 hộ gia đình bị thu hồi 1.447,1m2 để bồi thường GPMB thực hiện dự án đầu tư xây dựng Nhà văn hóa khu 4, phường Hà Khánh.

Ngày 31/8/2011, UBND thành phố Hạ Long có thông báo số 2731/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện công tác bồi thường GPMB dự án đầu tư xây dựng nhà văn hóa khu phố 4, phường Hà Khánh. Ngày 13/12/2011, UBND thành phố Hạ Long có văn bản số 3855/QĐ-UBND về việc thu hồi 1.447,1m2 đất của 03 hộ dân để bồi thường GPMB thực hiện dự án đầu tư xây dựng Nhà văn hóa khu phố 4 phường Hà Khánh. Hiện đã có 02 hộ dân trong diện bị thu hồi đất đã chấp nhận bàn giao đất và nhận tiền bồi thường GPMB. Ngày 15/4/2013 UBND thành phố Hạ Long ban hành Quyết định số 314/QĐCC-UBND về cưỡng chế hộ gia đình còn lại do chưa thực hiện bàn giao đất để xây dựng nhà văn hóa khu phố 4, phường Hà Khánh.

Như vậy, nội dung kiến nghị của cử tri (ông Vũ Văn Năng) về việc yêu cầu DNTN Hồng Ngọc cắt lại 1500m2 để khu phố 4 xây dựng Nhà văn hóa đã được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch và chỉ đạo UBND thành phố Hạ Long triển khai thực hiện. Đến nay công tác giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng Nhà văn hóa khu phố 4 phường Hà Khánh đang tiếp tục triển khai thực hiện. Song do tiến độ triển khai thực hiện dự án chậm, dẫn đến những đòi hỏi thắc mắc của cử tri.



2. Vụ việc của một số hộ ngư dân làng chài Ba Hang, phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long: Kiến nghị xem xét lại việc thực hiện Chỉ thị 11/CT-UBND ngày 22/6/2012 của Ủy ban nhân dân Tỉnh:

Ngày 28/8/2012 Ủy ban nhân dân Tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 2178/QĐ-UBND “V/v phê duyệt phương án di dời đối với nhà bè trên vịnh Hạ Long.

Để giải quyết đề nghị của một số hộ dân thuộc làng chài Ba Hang được tiếp tục hoạt động kinh doanh hải sản tại khu Ba Hang phục vụ tàu khách du lịch trên vịnh Hạ Long, ngày 21/9/2012 Ủy ban nhân dân Tỉnh có văn bản số 4649/UBND-TD với nội dung: Giao Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan xem xét, đề xuất với Ủy ban nhân dân Tỉnh việc giải quyết đề nghị của các hộ dân làng chài thôn Ba Hang trên cơ sở vừa bảo đảm cuộc sống cho người dân đồng thời thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Tỉnh trong việc lập lại trật tự các hoạt động trên vịnh Hạ Long.

Ngày 28/9/2012 Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long đã có văn bản số 3105/UBND về việc giải quyết đề nghị của một số hộ dân làng chài Ba Hang trên cơ sở đó đã thống nhất thực hiện các biện pháp chấm dứt hoạt động buôn bán kinh doanh hải sản trên vịnh Hạ Long của một số đối tượng nhằm làm trong sạch môi trường kinh doanh du lịch, đảm bảo an ninh trật tự, không gây bức xúc cho du khách. Tuy nhiên do nhân dân thuộc làng chài Ba Hang còn khó khăn lên thành phố Hạ Long đã đề xuất cho các hộ dân làng chài được mở thêm loại hình dịch vụ chèo thuyền Kayak phục vụ khách du lịch tại 03 địa điểm cụ thể.

Ngày 16/4/2013 Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long đã có thông báo số 1265/UBND thông báo thời gian di dời các nhà bè nuôi trồng hải sản, theo đó Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long đã đồng ý gia hạn thời gian thu hoạch các giống hải sản và tự tháo dỡ di dời các nhà bè xong trước ngày 15/12/2013. Cùng với các biện pháp vận động tuyên truyền các hộ dân làng chài tự giác chấp hành các quy định của nhà nước về việc kinh doanh, sinh sống trên vịnh Hạ Long theo quy hoạch, Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long đang khẩn trương xây dựng các khu tái định cư trên bờ để vận động các hộ dân từng bước tạo dựng cuộc sống ổn định.

3. Vụ việc của ông Bùi Lai Thành, tổ 9, khu 5, phường Yết Kiêu, thành phố Hạ Long: Khiếu nại Quyết định số 2212/QĐ-UBND ngày 11/9/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long:

Ngày 21/11/2012 Ủy ban nhân dân Tỉnh có văn bản số 5875/UBND-TD về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Lai Thành, trên cơ sở đó giao Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm tra, xác minh và kết luận nội dung khiếu nại của ông bùi Lai Thành.

Ngày 09/4/2013 Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản số 917/BC-TNMT báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại của ông Bùi Lai Thành, theo đó Sở Tài nguyên và Môi trường đề xuất Ủy ban nhân dân Tỉnh không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Bùi Lai Thành đối với Quyết định số 2212/QĐ-UBND ngày 14/5/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, đề nghị được công nhận nguồn gốc sử dụng đất của gia đình khai phá tôn tạo từ ngày 02/3/1993 vì các giấy tờ ông Thành không có giá trị pháp lý. Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đề nghị Ủy ban nhân dân Tỉnh không đồng ý với Quyết định số 2212/QĐ-UBND ngày 14/5/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long kết luận nguồn gốc thửa đất số 01 tờ bản đồ địa chính số 05 là đất công do các Công ty nhà nước quản lý vì Ủy ban nhân dân phường Yết Kiêu và Công ty Vận tải xếp dỡ không có hồ sơ pháp lý thể hiện diện tích đất trên được Nhà nước giao cho công ty hoặc công ty đã trả lại đất cho Nhà nước giai đoạn từ năm 1997 trở về trước. Tại thời điểm năm 1997 diện tích đất Công ty Vận tải xếp dỡ đang quản lý sử dụng gồm 02 thửa là thửa số 92 và 119 tờ bản đồ địa chính số 06, không bao gồm diện tích đất do hộ ông Thành đang sử dụng tại thửa số 01 tờ bản đồ địa chính số 05.

Hiện tại Ủy ban nhân dân Tỉnh đang tiến hành thẩm tra toàn bộ hồ sơ vụ việc khiếu nại của ông Bùi Lai Thành theo quy định và sẽ ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai trong tháng 5/2013.



4. Vụ việc của ông Hà Thế Tiến và ông Nguyễn Quốc Chính, trú tại khu 5, khu 7, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long: Tố cáo hành vi xả chất thải nguy hại (nước thải lẫn dầu) gây ô nhiễm môi trường của hầu hết các loại phương tiện thủy đang hoạt động trên vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long:

Ngày 15/3/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản số 1165/UBND-MT “về việc công dân gửi thư khiếu nại vể tình trạng ô nhiễm môi trường trên vịnh Hạ Long” trên cơ sở đó đã giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan nghiên cứu đề nghị của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam để kiểm tra và báo cáo đề xuất việc giải quyết với Ủy ban nhân dân Tỉnh.

Ngày 22/3/2013 Sở Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản số 733/TNMT-BVMT “Về việc thực hiện khuyến nghị của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam” trên cơ sở đó đã xác định được nguyên nhân chủ yếu để xảy ra ô nhiễm dầu cục bộ đó là chất thải từ các phương tiện vận tải thủy, nhà bè, nhà hàng chưa được thu gom và xử lý triệt để. Việc xây dựng và hoạt động của một số công trình công nghiệp như xi măng, nhiệt điện, cơ khí, các mỏ, cảng than; công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục ý thức pháp luật đến cộng đồng dân cư chưa thực hiện sâu rộng; chưa có cơ chế khuyến khích trong việc thu hút đầu tư xã hội hóa để thu gom xử lý rác thải, nước thải và chất thải nguy hại, công tác quản lý tàu bè, nhà bè, khu neo đậu tàu thuyền còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả.

Sở Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất một số biện pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm trên như sau:

Tăng cường công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức cộng đồng về ý thức bảo vệ môi trường; Yêu cầu các phương tiện tàu thuyền phải có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt và thiết bị bảo vệ môi trường đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật, chủ các phương tiện thủy hoạt động trên vịnh phải thực hiện nghiêm túc quy định về việc quản lý hoạt động vận chuyển khách tham quan du lịch trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, các quy chuẩn quốc gia về ngăn ngừa ô nhiễm do phương tiện thủy nội địa; khuyến khích các chủ phương tiện sử dụng, đầu tư các trang thiết bị tiên tiến và thực hiện theo các tiêu chuẩn ISO14000 để được cấp “Nhãn sinh thái”, công nhận đạt chuẩn về môi trường sinh thái. Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải rắn, lỏng cũng như những loại chất thải lẫn dầu trước khi thải ra môi trường.

Trên cơ sở báo cáo đề xuất của Sở Tài nguyên và Môi trường, hiện tại Ủy ban nhân dân Tỉnh đang nghiên cứu để ban hành các văn bản pháp quy nhằm đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên vịnh, đồng thời xây dựng chiến lược quản lý tổng hợp vùng bờ trên địa bàn toàn tỉnh và tăng cường phối hợp quản lý vùng bờ với các tỉnh có biển lân cận để giảm thiểu tác động xấu tới môi trường nói chung và môi trường trên vịnh nói riêng.



5. Vụ việc của ông Hà Mạnh Hùng, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Quảng Ninh: Đề nghị xem xét lại Quyết định số 1686/QĐ-UBND ngày 31/5/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt chi tiết quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/500 cửa hàng xăng dầu xã Minh Thành, huyện Yên Hưng và việc Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên thu hồi đất của ông Trần Văn Hoành trái quy định của pháp luật:

Về nội dung quy hoạch:

Quy hoạch chi tiết xây dựng Cửa hàng xăng dầu tại xã Minh Thành, huyện Yên Hưng được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1686/QĐ-UBND ngày 31/5/2011 với tổng diện tích 8.068 m2 (Đất khu cửa hàng xăng dầu là 5.507,5 m2, đất xin giao đấu nối với đường QL 18A là 2.560,5 m2). Căn cứ trên các cơ sở:

+ Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của UBND tỉnh “Về việc quy hoạch hệ thống cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 – 2020”, trong đó có nêu tại Phụ lục số 1: Trên địa bàn thành phố Hạ Long có quy hoạch mới Cửa hàng xăng dầu Đại Yên tại Khu 5, phường Đại Yên (diện tích 3.000 m2) và trên địa bàn huyện Yên Hưng có quy hoạch mới Cửa hàng xăng dầu Minh Thành (Quốc lộ 18A giáp đầu cầu Yên Lập I) tại thôn Yên Lập, xã Minh Thành (diện tích 5.500 m2).

+ Tờ trình số 1082/TTr-UBND ngày 04/10/2010 của UBND huyện Yên Hưng về việc “Phê duyệt địa điểm kinh doanh xăng dầu và trạm dừng chân tại thôn Yên Lập, xã Minh Thành”.

+ Tờ trình số 506/TTr-SXD ngày 25/11/2010 của Sở Xây dựng và Quyết định số 466/QĐ-UBND ngày 18/02/2011 của UBND tỉnh “V/v chấp thuận địa điểm nghiên cứu Quy hoạch, dự án đầu tư Cửa hàng xăng dầu tại xã Minh Thành, huyện Yên Hưng”.

+ Tờ trình số 169/TTr-SXD ngày 05/5/2011 của Sở Xây dựng về việc đề nghị phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Cửa hàng xăng dầu tại xã Minh Thành, huyện Yên Hưng.

Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông Trần Văn Hoành (ông Hà Mạnh Hùng là Luật sư tư vấn khiếu nại cho ông Trần Văn Hoành), Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Thanh tra tỉnh kiểm tra xem xét, kết quả cho thấy:

+ Theo quy định tại Phụ lục số 1 kèm theo Quyết định số 2913/QĐ-UBND, trên địa bàn thành phố Hạ Long có quy hoạch mới Cửa hàng xăng dầu Đại Yên tại Khu 5, phường Đại Yên (diện tích 3000 m2) và trên địa bàn huyện Yên Hưng có quy hoạch mới Cửa hàng xăng dầu Minh Thành (Quốc lộ 18A giáp đầu cầu Yên Lập I) tại thôn Yên Lập, xã Minh Thành (diện tích 5500 m2). Trên thực tế, UBND tỉnh đã phê duyệt quy hoạch Cửa hàng xăng dầu Loại I cho Công ty CP Đầu tư và Phát triển thương mại Vương Long tại khu 5, phường Đại Yên, thành phố Hạ Long (Ga Yên Cư). Địa điểm này trùng với địa điểm quy hoạch mới Cửa hàng xăng dầu Đại Yên trong quy hoạch hệ thống cửa hàng xăng dầu tỉnh Quảng Ninh tại Quyết định số 2913/QĐ-UBND.

Sở Công thương (cơ quan chủ trì tham mưu quy hoạch) đã không cập nhật nội dung UBND tỉnh đã phê duyệt Cửa hàng xăng dầu của Công ty CP Đầu tư và Phát triển thương mại Vương Long (Quyết định số 1902/QĐ-UBND ngày 16/6/2009) là cửa hàng Loại I nên vẫn đưa vào quy hoạch đối với địa điểm này là cửa hàng Loại II xây dựng mới.

Căn cứ quy định tại Khoản 2 Mục I Điều 1 Quyết định số 2913/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh và Khoản 2 Tiểu mục 4.1 Mục 4 Điều 1 Quyết định số 0794/QĐ-BCT ngày 05/02/2010 của Bộ Công thương “Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hệ thống cửa hàng xăng dầu dọc đường Hồ Chí Minh giai đoạn I đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” và xét thực tế điểm quy hoạch Cửa hàng xăng dầu Loại I tại thôn Yên Lập Đông, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng (cách Cửa hàng xăng dầu Loại I của Công ty CP đầu tư và phát triển Vương Long khoảng hơn 3km) thì việc UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Cửa hàng xăng dầu tại địa điểm quy hoạch nêu trên là đúng với quy hoạch hệ thống cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 – 2020 tại Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của UBND tỉnh.

Tuy nhiên, UBND tỉnh đã phê duyệt cho Công ty CP Đầu tư và Phát triển Vương Long xây dựng cửa hàng xăng dầu Loại I (cách địa điểm quy hoạch xây mới tại thôn Yên Lập Đông, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng khoảng hơn 3km) trước khi phê duyệt Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010. Vì vậy, việc phê duyệt quy hoạch và cho phép đầu tư xây dựng cửa hàng xăng dầu Loại I tại Quyết định số 1686/QĐ-UBND ngày 31/5/2011 của UBND tỉnh tại thời điểm phê duyệt là không phù hợp với quy định về tiêu chí khoảng cách tại Quyết định số 0794/QĐ-BCT ngày 05/02/2010 của Bộ Công thương do thời điểm phê duyệt, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng không thuộc khu đô thị.

Ngày 25/11/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP “Về việc thành lập thị xã Quảng Yên và thành lập các phường thuộc thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh” và được huyện Yên Hưng công bố vào tháng 4/2012. Theo đó, xã Minh Thành được thành lập là phường Minh Thành, khu Yên Lập Đông được xác định là đô thị liền kề với phường Đại Yên, thành phố Hạ Long. Do đó, việc xây dựng cửa hàng xăng dầu tại khu Yên Lập Đông, phường Minh Thành, thị xã Quảng Yên là phù hợp, đúng quy định (áp dụng theo tiêu chí xây dựng cửa hàng xăng dầu trong đô thị được quy định tại Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của UBND tỉnh; QCVN 07/2010/BXD của Bộ Xây dựng ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, khoảng cách giữa các trạm xăng dầu liền kề nhau tối thiểu là 300m; diện tích tối thiểu của một trạm xăng dầu cấp 1 là 3.000m2.

- Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản trả lời ông Trần Văn Hoành về nội dung trên. Đồng thời đã chỉ đạo Sở Xây dựng tổ chức bổi đối thoại với Luật sư Hà Mạnh Hùng để trả lời các nội dung trên.

Về nội dung khiếu nại việc thu hồi đất:

Căn cứ Quyết định số 1686/QĐ-UBND ngày 31/5/2011của UBND tỉnh, UBND huyện Yên Hưng đã ra thông báo số 149/TB-UBND ngày 07/7/2011 “V/v thu hồi đất để thực hiện quy hoạch chi tiết xây dựng Cửa hàng xăng dầu tại khu vực thôn Yên lập, xã Minh Thành”. Ngày 31/8/2011, UBND huyện có thông báo số 203/TB-UBND “V/v thu hồi đất để thực hiện quy hoạch chi tiết xây dựng Cửa hàng xăng dầu tại khu vực thôn Yên lập, xã Minh Thành” thay thế thông báo số 149/TB-UBND ngày 07/7/2011, trong đó có nội dung: tổng số hộ ảnh hưởng khu quy hoạch là 02 hộ (chủ đầu tư đã thỏa thuận xong 01 hộ ông Trần Đăng Khoa, vợ là Nguyễn Thị Nhung là con gái bà Nguyễn Thị Thơm) còn lại hộ bà Nguyễn Thị Thơm thôn Yên Lập Đông, xã Minh Thành, chưa GPMB với tổng diện tích 6.536,7m2 (đất NTTS: 5.399,3 m2; đất trồng cây lâu năm: 1.137,4m2).

Trên cơ sở đó, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện đã lập Phương án bồi thường, hỗ trợ ngày 01/9/2011 và đã được UBND huyện Yên Hưng phê duyệt tại Quyết định số 4886/QĐ-UBND ngày 01/9/2011, trong đó có nội dung: tổng số tiền là 120.883.826 đồng; hỗ trợ 30% diện tích 6.225,4m2 đất (không có phương án bồi thường của hộ ông Trần Đăng Khoa do Chủ đầu tư đã thỏa thuận với ông Khoa).

Ngày 07/11/2011, UBND huyện Yên Hưng ban hành Quyết định số 6182/QĐ-UBND “V/v thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng Cửa hàng xăng dầu, thôn Yên Lập, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng”, trong đó có nội dung: thu hồi 7.756,7m2 đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng (03 thửa), gồm bà Nguyễn Thị Thơm 02 thửa diện tích 6.225,4 m2, ông Trần Đăng Khoa 01 thửa diện tích 1.531,3m2.

Sau khi phương án bồi thường GPMB được phê duyệt, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện và UBND xã Minh Thành đã mời bà Nguyễn Thị Thơm đến nhận tiền bồi thường GPMB nhưng bà Thơm không nhận tiền với lý do bà đã chuyển nhượng cho ông Trần Văn Hoành, bà không còn quyền lợi gì đối với khu đất trên (nội dung này được thể hiện tại Biên bản mời nhận tiền và đối thoại ngày 09/11/2011 và Biên bản chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB ngày 08/9/2011).

Ngày 07/12/2011, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 6563/QĐ-UBND “V/v cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ bà Nguyễn Thị Thơm thôn Yên Lập Đông, xã Minh Thành để giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án xây dựng Cửa hàng xăng dầu tại thôn Yên Lập, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng”.

Trong quá trình thực hiện, đã phát sinh khiếu nại, kiến nghị của ông Trần Văn Hoành về đối tượng sử dụng đất, việc thu hồi đất không đúng quy định, phải được thỏa thuận bồi thường. Uỷ ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, đồng thời xin ý kiến các sở ngành của tỉnh. Sở Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức cuộc họp vào ngày 21/12/2011 để gải quyết những vướng mắc liên quan đến dự án. Tại cuộc họp liên ngành đã thống nhất ý kiến và xác định: Dự án xây dựng cửa hàng xăng dầu Bình Minh không thuộc trường hợp đối tượng dự án Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, căn cứ Điều 39 Nghị Định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính Phủ quy định “Thu hồi đất trong trường hợp người đang sử dụng đất không có các quyền chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất, thế chấp góp vốn, bằng quyền sử dụng đất: Trường hợp dự án đầu tư thuộc diện chủ đầu tư phải thoả thuận với người sử dụng đất về việc chuyển nhượng cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có các quyền chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì Nhà nước thực hiện việc thu hồi để giao hoặc cho nhà đầu tư thuê”. Trên cơ sở báo cáo đề xuất của Sở Tài nguyên và Môi trường tại văn bản số 2993/TNMT-ĐKĐĐ ngày 26/12/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 5482/UBND-TD ngày 30/12/2011 chỉ đạo Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên thực hiện thu hồi đất và giải phóng mặt bằng theo quy định.

Tháng 12/2011, ông Trần Văn Hoành đã khởi kiện quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên tại Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên. Ngày 20/12/2011, Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên đã ra Thông báo số 03/TB-TLVA về việc thụ lý vụ án hành chính "Khởi kiện quyết định hành chính số 6182/QĐ-UBND ngày 07/11/2011 của UBND huyện Yên Hưng". Ngày 16/11/2012, Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên đã ban hành Quyết định số 01/2012 về việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính với lý do UBND thị xã Quảng Yên đã ban hành Quyết định số 4832/QĐ-UBND ngày 15/11/2012 về việc hủy bỏ quyết định thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng cửa hàng bán xăng dầu.

Ngày 13/3/2013, Ủy ban nhân dân Tỉnh có văn bản số 1108/UBND-TD về việc chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo tại thị xã Quảng Yên và thành phố hạ Long, trên cơ sở đó đã giao Thanh tra Tỉnh chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên xác minh làm rõ nguồn gốc sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính của bà Thơm từ năm 1993 đến năm 2003 và của ông Trần văn Hoành từ năm 2003 đến năm 2008, báo cáo đề xuất việc giải quyết với Ủy ban nhân dân Tỉnh trong tháng 3/2013.

Ngày 25/4/2013 Thanh tra Tỉnh đã có văn bản số 31/BC-TTr báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của ông Trần Văn Hoành và việc thu hồi đất GPMB thực hiện dự án nâng cấp cải tạo Quốc lộ 18A và thực hiện quy hoạch cửa hàng xăng dầu tại phường Minh Thành, thị xã Quảng Yên.

Ngày 10/5/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản số 2248/UBND-TD chỉ đạo:

- Giao Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên:

+ Thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng theo quy định đối với hộ bà Nguyễn Thị Thơm để thực hiện dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 18 đoạn tuyến Uông Bí – Hạ Long đảm bảo tiến độ thi công dự án, phục vụ phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Đồng thời Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng theo quy định đối với hộ bà Nguyễn thị Thơm để thực hiện quy hoạch xây dựng cửa hàng xăng dầu tại phường Minh Thành, thị xã Quảng Yên theo Quyết định số 1686/QĐ-UBND ngày 31/5/2011 của Ủy ban nhân dân Tỉnh.

+ Ban hành văn bản thông báo trả lời ông Trần Văn Hoành, Luật sư Hà Mạnh Hùng các nội dung kiến nghị, khiếu nại liên quan đến đối tượng sử dụng đất, việc thu hồi và bồi thường giải phóng mặt bằng.

+ Chỉ đạo Ủy ban nhân dân phường Minh Thành tổ chức kiểm điểm, xử lý theo quy định đối với tập thể, cá nhân có liên quan đến việc xác nhận về đất đai không đúng, chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý đất đai, xây dựng trên địa bàn.

- Yêu cầu Chi cục thuế thị xã Quảng Yên thực hiện việc thoái thu để trả lại khoản tiền thuế nhà, đất ở đã thu của các ông bà: Trần Văn Hoành, Trần Văn Huệ, Trần Thị Khanh. Tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của các cán bộ có liên quan trong việc thu thuế nêu trên.

- Giao Công an Tỉnh chỉ đạo điều tra làm rõ dấu hiệu hành vi không trung thực, giả mạo hồ sơ, cung cấp thông tin không đúng sự thật về nguồn gốc, việc chuyển nhượng, tặng cho đất đai của bà Nguyễn Thị Thơm và ông Trần Văn Hoành, việc xác nhận sai sự thật về nguồn gốc đất đai của những cán bộ có liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật.

6. Vụ việc của ông Ngô Viết Xoan, trú tại khu Tre Mai, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí: Đề nghị Ủy ban nhân dân Tỉnh ban hành văn bản trả lời kết quả đối thoại ngày 14/9/2012 giữa Thanh tra tỉnh, UBND thị xã Quảng Yên với ông Ngô Viết Xoan:

Ngày 10/3/2010 Ủy ban nhân dân Tỉnh đã ban hành Quyết định số 644/QĐ-UBND “Về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Ngô Viết Xoan với ông Vũ Văn Hùng”. Tại Quyết định đã nêu rõ: Thống nhất Điều 1 Quyết định số 1541/QĐ-UBND ngày 23/6/2009 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng: Không công nhận quyền sử dụng thửa đất số 7 (bản đồ GPMB) tương ứng với một phần thửa đất số 19 (bản đồ năm 1993) là đất ở của các ông Ngô Viết Xoan và ông Vũ Văn Hùng. Vì: Ông Xoan không có tên trong sổ bộ thuế của xã Đông Mai đối với diện tích 5.020m2; do đó không có căn cứ xác định phần đất đang tranh chấp thuộc thửa đất số 7 (bản đồ GPMB) tương ứng với một phần thửa đất số 19 bản đồ địa chính số 01 xã Đông Mai (đo đạc năm 1993) là đất của ông Ngô Viết Xoan và của ông Vũ Văn Hùng.

Tuy nhiên ông Xoan vẫn tiếp tục có đơn, thư đề nghị xem xét lại việc giải quyết. Ngày 13/02/2012 Ủy ban nhân dân Tỉnh đã họp về việc nghe báo cáo và chỉ đạo giải quyết một số vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân trong đó có vụ việc của ông Ngô Viết Xoan và giao Thanh tra tỉnh tiếp tục rà soát lại toàn bộ nội dung vụ việc, sau khi có kết quả, đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức đối thoại với ông Ngô Viết Xoan và các hộ có liên quan.

Ngày 20/6/2012 Thanh tra Tỉnh có văn bản số 60/TTr báo cáo “Kết quả rà soát giải quyết tranh chấp của ông Ngô Viết Xoan, khu Tre Mai, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí với ông Nguyễn Văn Hùng, thôn Mai Hòa 2, xã Đông Mai, thị xã Quảng Yên” và đã tổ chức đối thoại với ông Ngô Viết Xoan, Nguyễn Văn Hùng. Tại buổi đối thoại ông Xoan đã không đưa ra được chứng cứ, tài liệu nào khác với kết quả thẩm tra xác minh của các cơ quan chức năng và Thanh tra tỉnh đã báo cáo kiến nghị UBND tỉnh giữ nguyên kết quả giải quyết vụ việc tại Quyết định số 644/QĐ-UBND.

Việc Ủy ban nhân dân Tỉnh giao Thanh tra Tỉnh đối thoại với ông Ngô Viết Xoan cùng các ông Vũ Văn Xuân, Vũ Văn Hùng là để thông báo công khai kết quả rà soát nội dung đề nghị của ông Xoan , kết quả đó đã khẳng định nội dung giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân Tỉnh tại Quyết định số 644/QĐ-UBND “Về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Ngô Viết Xoan với ông Vũ Văn Hùng” là đúng. Vì vậy Ủy ban nhân dân Tỉnh không ban hành thông báo kết luận đối thoại giữa Thanh tra Tỉnh với ông Ngô Viết Xoan.

7. Vụ việc của ông Vũ Văn Lâm, thôn Dương Đê, xã Yên Đức, huyện Đông Triều: Khiếu nại Quyết định số 2638/QDD-UBND ngày 17/10/2012 của UBND tỉnh về việc gia hạn khai thác đá sản xuất vật liệu xây dựng cho Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Yên Đức tại núi Nải, thuộc thôn Yên Khánh, xã Yên Đức, huyện Đông Triều:

Quyết định số 3188/QĐ-UB ngày 12/9/2002 của UBND tỉnh cho phép Công ty TNHH Yên Đức khai thác đá tại xã Yên Đức huyện Đông Triều; diện tích 18,3 ha (gồm 2 khu, khu 1=15 ha, khu 2=3,3ha); thời hạn đến 12/9/2012.

Căn cứ vào hồ sơ thẩm định cuả các Sở: Tài nguyên và Môi trường, Công Thương và các đề nghị của xã Yên Đức, huyện Đông Triều, Thanh tra Bộ TNMT và đề nghị của Công ty. UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 17/10/2012 về việc Gia hạn khu vực I (3,3 ha) GPKT đá làm VLXD số 3188/QĐ-UB ngày 12/9/2002 tại xã Yên Đức, huyện Đông Triều cho Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Yên Đức.

Kết quả kiểm tra hiện trường và giải quyết khiếu nại của các hộ dân thuộc thôn Dương Đê, xã Yên Đức.

- Sau khi được gia hạn giấy phép khai thác, Công ty đã hoàn tất các thủ tục theo quy định (ký quỹ bảo vệ môi trường, thuê đất, xin cấp giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp…) và báo cáo các cơ quan chức năng thuộc huyện Đông Triều và xã Yên Đức để tiến hành khai thác từ ngày 25/2/2013.

- Ngày 15/3/2013, ông Vũ Văn Lâm cùng một số hộ dân thuộc thôn Dương Đê đến trụ sở tiếp công dân của Tỉnh kiến nghị các vấn đề sau:

+ Việc UBND tỉnh gia hạn khai thác đá tại núi Nải gây ảnh hưởng tới hàng chục hộ gia đình có nhà, vườn, hoa màu, ao đầm nuôi trồng thủy sản sát khju vực khai thác;

+ Ảnh hưởng đến mồ mả

+ Việc nổ mìn, sản xuất đá gây tiếng ồn, dung chấn, bụi bẩn ảnh hưởng nguồn nước của thôn Dương Đê.

- Ngày 16/3/2013, Đoàn kiểm tra của Tỉnh gồm các thành phần: Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy, Văn phòng UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, Sở Công Thương, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND huyện Đông Triều và xã Yên Đức đã đi kiểm tra thực tế tại hiện trường và lập biên bản với nội dung:

+ Khu vực UBND tỉnh gia hạn khai thác cho Công ty thuộc núi Nải, thôn Yên Khánh, xã Yên Đức; cách nghĩa địa của xã Yên Đức khoảng 500m cách thôn Dương Đê khoảng 01 km; xung quanh khu vực khai thác có 11 hộ gia đình có nhà, vườn, ao đầm nuôi trồng thủy sản đã được Công ty ký kết biên bản thỏa thuận đền bù, các hộ dân có tài sản chấp thuận và không có ý kiến phản đối; hiện chỉ giữ lại nhà ở sử dụng vào mục đích trông coi vườn, ao đầm và cam kết di chuyển khi có yêu cầu.

+ Trong khu vực có 01 ngôi mộ dòng họ Bùi do ông Bùi Văn Nhật trông coi và cam kết sẽ di chuyển trong thời gian tới khi gia đình hoàn thành việc xây dựng khu lăng mộ mới.

+ Về nội dung kiến nghị việc nổ mìn, sản xuất đá gây tiếng ồn, dung chấn, ảnh hưởng nguồn nước của thôn Dương Đê: UBND tỉnh đã có công văn số 1208/UBND-TD ngày 19/3/2013 giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì cùng Sở Công Thương, UBND huyện Đông Triều, kiểm tra tác động của việc sản xuất vật liệu xây dựng của Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Yên Đức theo các tiêu chí quy định, kết quả:



Đối với chất lượng không khí:

- Chất lượng không khí tại khu vực mặt bằng sản xuất chế biến đá của Công ty TNHH sản xuất VLXD Yên Đức chưa bị ô nhiễm. Vì giá trị các thông số ô nhiễm trong không khí nằm trong tiêu chuẩn của Bộ y tế về chất lượng không khí tại vùng làm việc (TCVN 3733 – 2002/BYT );

- Chất lượng không khí tại khu vực xung quanh (khu nhà bà Nguyễn Thị Thành thuộc địa bàn dân cư thôn Dương Đê, xã Yên Đức, huyện Đông Triều, cách khu mỏ hoạt động khoảng 800 m và đây là nhà hộ dân nằm gần nhất với khu mỏ hoạt động) chưa bị ô nhiễm. Vì giá trị các thông số ô nhiễm trong không khí nằm trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh (QCVN 05: 2009/BTNMT; QCVN 27: 2011/BTNMT và QCVN 27: 2011/BTNMT)

Đối với chất lượng nước:

- Chất lượng nước mặt tại khu vực xung quanh khu mỏ đang hoạt động khai thác, vận chuyển và chế biến của Công ty TNHH sản xuất VLXD Yên Đức chưa bị ô nhiễm. Vì giá trị các thông số ô nhiễm trong nước nằm trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08 : 2008/BTNMT ).



Đối với vật liệu nổ Công nghiệp:

- Căn cứ vào kiểm tra thực tế việc nổ mìn để phục vụ việc khai thác đá của đơn vị và căn cứ kết luận thanh tra số 608/SCT-KL-TTr, ngày 22/3/2013 của Sở Công Thương:

+ Việc nổ mìn trong hoạt động khai thác đá của Công ty TNHH sản xuất VLXD Yên Đức không ảnh hưởng tới các hộ dân sống tại thôn Dương Đê, xã Yên Đức, huyện Đông Triều. Vì nhà dân nằm gần nhất với khu mỏ khai thác đá là khoảng 800 m và bán kính an toàn khi nổ mìn được quy định trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong bảo quản, vận chuyển, sử dụng và tiêu hủy VLNCN – QCVN 02 : 2008/BCT: 200m – 300m.

Hiện nay ông Vũ Văn Lâm và một số hộ dân thôn Dương Đê đang khiếu quyết định 2638/QĐ-UBND của UBND tỉnh. Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về việc thẩm tra xác minh nội dung khiếu nại trên, ngày 26 tháng 4 năm 2013, Sở Tài nguyên và Môi trường đã có báo cáo số 1104/BC-TNMT-TTr báo cáo kết quả thẩm tra xác minh, hiện UBND tỉnh đang thẩm tra, xem xét để ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trước ngày 15/5/2013.



II. Những vụ việc do Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyển đến:

1. Vụ ông Hoàng Văn Sàu, thôn Đồng Mô, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu, khiếu nại: Đề nghị hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư đối với 02 thửa đất (thửa có diện tích 139m2 và 504m2; Kiến nghị một số hộ cũng có diện tích đất nông nghiệp khai hoang trồng cây hàng năm như của gia đình ông nhưng lại được hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư; Đề nghị hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với thửa đất có diện tích 1.225m.

Dự án đầu tư xây dựng công trình đường khu vực Cửa khẩu Hoành Mô - đường tiểu mạch giai đoạn 2 tại xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu, đã thu hồi 3.649m2 đất nông nghiệp khai hoang trồng cây hàng năm của gia đình ông Hoàng Văn Sàu và bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông Sàu với tổng số tiền là 189.582.000 đồng.

Ngày 29/10/2012 Chủ tịch UBND huyện Bình Liêu ra quyết định số 1649/QĐ-UBND với nội dung: Không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Hoàng Văn Sàu.

Ông Hoàng Văn Sàu tiếp tục có đơn tiếp khiếu gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân Tỉnh đã có văn bản giao Thanh tra Tỉnh thẩm tra, xác minh, kết quả Thanh tra tỉnh có văn bản số 30/BC-TTr ngày 24/4/2013 kết luận như sau:

* Về đề nghị hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư đối với 02 thửa đất nông nghiệp khai hoang (thửa có diện tích 139m2 và 504m2):

Căn cứ vào bản đồ hiện trạng giải phóng mặt bằng dự án xây dựng đường khu vực Cửa khẩu Hoành Mô thì thửa đất nông nghiệp của gia đình ông Hoàng Văn Sàu (thửa đất có diện tích 139m2 và 504m,2) nằm ngoài ranh giới khu dân cư thôn Đồng Mô, cách ranh giới các thửa đất có nhà ở ngoài cùng bởi mương nước.

Căn cứ quy định tại khoản 4.2 Điều 1 Quyết định 1122/QĐ-UB ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh: “Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư phải là thửa đất nông nghiệp nằm trong khu dân cư. Trường hợp thửa đất nông nghiệp nằm giữa hai khu dân cư tách biệt nhau thì không được gọi là đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư.

Căn cứ Điều 43 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007của Chính Phủ quy định hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư: là toàn bộ diện tích đất nông nghiệp nằm trong phạm vi địa giới hành chính phường; trong phạm vi khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn đã được xác định ranh giới theo quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; trường hợp khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn chưa có quy hoạch được xét duyệt thì xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của khu dân cư.

- Trên cơ sở văn bản hướng dẫn số 13/TCQLĐĐ- CKTPTQĐ ngày 7/01/2011 của Tổng cục quản lý đất đai xác định khu dân cư và hỗ trợ đất nông nghiệp theo chính sách quy định: “Theo quy định tại khoản 1- Điều 15- Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và môi trường thì khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn quy định tại khoản 1 và khoản 2- Điều 21- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của làng, bản, thôn, ấp, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự.

Theo quy định nêu trên thì việc xác định khu dân cư trên bản đồ thu hồi đất của dự án được xác định theo ranh giới khép kín của các thửa đất có nhà ở ngoài cùng của làng, bản, thôn, ấp, buôn, phum, sóc”.

Do đó việc kiến nghị của gia đình ông Sàu là không có cơ sở để xem xét giải quyết.

- Qua kiểm tra phương án bồi thường của gia đình ông Hoàng Thanh Long và gia đình ông Bế Thắng Nguyên cho thấy:

Gia đình ông Long bị thu hồi 05 thửa đất (01 thửa đất ở và 04 thửa đất nông nghiệp), trong đó không có thửa đất nông nghiệp nào được nhận hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư. Thửa đất có diện tích 121m2 của gia đình ông Long như ông Sàu nên không được hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư.

Gia đình ông Nguyên bị thu hồi 02 thửa đất nông nghiệp khai hoang trồng cây hàng năm (thửa có diện tích 585m2 và 634m2), trong đó thửa có diện tích 634m2 được hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư vì nằm trong khu dân cư, tiếp giáp với các thửa đất có nhà ở.

Gia đình ông Nguyên không bị thu hồi thửa đất nông nghiệp nào có diện tích 30m2 như ông Sàu đã nêu. Hiện tại UBND tỉnh đang thẩm tra hồ sơ vụ việc của ông Sàu để ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai trước ngày 15/5/2013.

Vì vậy nội dung kiến nghị này của ông Sàu là không có cơ sở. Hiện nay UBND tỉnh đang thẩm tra, xem xét vụ việc để ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trước ngày 15/5/2013.

2. Vụ việc của bà Đỗ Thị Huyến, khu 9, phường Quảng Yên, thị xã Quảng Yên: Khiếu nại Quyết định số 134/QĐ-UB, ngày 05/02/2004 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng (nay là thị xã Quảng Yên” về việc thu hồi đất để mở rộng nút giao thông khu vực ngã 3 cầu sông Chanh; Yêu cầu được bồi thường đối với đất vỉa hè trong hành lang an toàn giao thông. Khiếu nại Quyết định số 1177/QĐ-UB, ngày 15/7/2005 và Quyết định số 1316/QĐ-UB, ngày 05/8/2005 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng về việc phê duyệt phương án bồi thường đất, hỗ trợ tài sản, hoa màu trên đất của gia đình bà:

Thực hiện dự án nâng cấp Quốc lộ 10 đoạn Biểu Nghi - Phà Rừng, trong đó có khu vực nút giao thông ngã 3 cầu sông Chanh thuộc địa phận xã Yên Giang, ngày 05/02/2004, Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng ban hành Quyết định số 134/QĐ-UBND về việc thu hồi 146 m2 đất tại thửa số 10, tờ bản đồ quy hoạch số 01, trong đó 111 m2 đã được cấp GCNQSD đất và 35 m2 đất do cơi nới thêm, loại đất thổ cư do hộ ông Hoàng Hữu Kiểm là chủ sử dụng đất.

Bà Đỗ Thị Huyến không đồng ý với quyết định thu hồi đất vì cho rằng Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng đã thay đổi thiết kế kỹ thuật nút giao thông ngã ba cầu sông Chanh, dẫn đến thu hồi toàn bộ diện tích 146 m2 của gia đình. Đồng thời khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ theo phương án phê duyệt của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng; yêu cầu được bồi thường đối với diện tích đất vỉa hè trong hành lang an toàn giao thông (ngoài diện tích trong GCNQSD đất).

Ngày 22/12/2005, Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 2753/QĐ-UBND ngày 22/12/2005, với nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Huyến đối với Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 05/02/2004 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng về việc thu hồi 146 m2 đất để mở rộng nút giao thông khu vực ngã ba cầu sông Chanh và Quyết định số 1177/QĐ-UB ngày 15/7/2005, Quyết định số 1316/QĐ-UBND ngày 05/8/2005 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ.

Ngày 14/9/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 2738/QĐ-UBND, với nội dung không chấp nhận nội dung khiếu nại của bà Huyến; Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng chỉ đạo việc rà soát toàn bộ các phương án đền bù đã lập, hoàn tất các thủ tục mời bà Huyến đến nhận tiền đền bù GPMB và xem xét nội dung diện tích đất ngoài diện tích GCNQSD đất và xây dựng đường 10 cao hơn nền nhà để trả lời bà Huyến.

Bà Huyến tiếp tục có đơn khiếu nại với nội dung khác có liên quan đến bồi thường đất phần hành lang an toàn giao thông và bị ảnh hưởng lòng đường cao hơn nền nhà của gia đình. Ngày 29/9/2006, Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng ban hành quyết định giải quyết số 1837/QĐ-UBND, với nội dung không chấp nhận việc khiếu nại của bà Đỗ Thị Huyến.

Ngày 01/12/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số 3823/QĐ-UBND (quyết định giải quyết lần 2), với nội dung: Đồng ý với Quyết định số 1837/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng;

Các nội dung khiếu nại của bà Huyến đã được Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền và đúng trình tự quy định pháp luật. Tuy nhiên, gia đình bà Huyến không chấp hành việc giao đất, vì vậy ngày 06/10/2008 Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng đã ban hành Quyết định số 3483/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất để GPMB đối với hộ ông Hoàng Hữu Kiểm và bà Đỗ Thị Huyến.

Ngày 24/10/2008 gia đình bà Huyến đã ký nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng đồng thời có đơn xi hỗ trợ 100 triệu đồng làm móng nhà, giãn thời gian trả tiền đất tái định cư 3 năm, không phải nộp chi phí xây dựng nhà tạm và điện nước của nhà tái định cư. Các nội dung trên đều đã được UBND thị xã Quảng Yeenxem xét, giải quyết. Tuy nhiên sau đó bà Huyến tiếp tục có đơn khiếu nại và tố cáo đến nhiều cơ quan của địa phương và Trung ương.

Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh tại Văn bản số 2939/UBND-TD ngày 07/8/2009, Ủy ban nhân dân Yên Hưng đã rà soát lại phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối với gia đình bà Huyến với số tiền chênh lệch giá năm 2009 so với phương án lập năm 2005 là 64.447.000 đồng, tiền hỗ trợ xây dựng móng nhà 20.000.000 đồng. Sau khi rà soát, Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng đã mời bà Huyến đến để thông báo số tiền mà huyện sẽ hỗ trợ nhưng bà Huyến vẫn không chấp nhận mà đưa ra yêu cầu phải bồi thường theo giá thị trường và cấp diện tích đất còn lại cho gia đình bà xây dựng làm ki ốt bán hàng.

Ngày 11/4/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã họp để giải quyết vụ việc khiếu nại của bà Huyến, đồng ý với phương án của Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên về việc bố trí 01 điểm kinh doanh tại chợ Rừng, thị xã Quảng Yên cho bà Huyến, Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã thực hiện, song bà Huyến không đồng ý.

Ngày 12/9/2012, Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ, Tổ công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo Ủy ban nhân dân thị xã cùng các cơ quan hữu quan của Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã tiến hành kiểm tra, đo đạc thực tế tại hiện trường đối với diện tích đất của bà Huyến sau khi thu hồi, kết quả cho thấy diện tích còn lại là 26 m2 nhưng không thể sử dụng vào mục đích ở hoặc làm ki ốt kinh doanh do hình dạng phần diện tích này không phù hợp.

Thanh tra Chính phủ thống nhất với phương án giải quyết của UBND tỉnh Quảng Ninh: cấp đổi cho bà Huyến 01 ô đất tái định cư khác có vị trí thuận lợi hơn vị trí hiện tại.

Ủy ban nhân dân Tỉnh đã có văn bản số 1111/UBND-TD ngày 13/3/2013 chỉ đạo giao UBND thị xã Quảng Yên tìm vị trí đất, báo cáo đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong tháng 10/2012.

Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã lựa chọn và đưa ra 04 vị trí đất đã được quy hoạch có vị trí thuận lợi để bà Huyến chọn 1 vị trí, nhưng bà Huyến cho rằng các vị trí thị xã Quảng yên đưa ra không đáp ứng được các điều kiện của bà. Bà Huyến yêu cầu vị trí thửa đất phải có hai mặt tiền, đủ để xây dựng 02 ngôi nhà có lối đi riêng cho 02 hộ và toàn bộ chi phí để xây dựng 02 ngôi nhà này cùng với giấy phép xây dựng nhà có mặt tiền phố chính.

Hiện tại UBND tỉnh đã có văn bản chỉ đạo giao Thanh tra tỉnh chủ trì cùng các Sở, ngành có liên quan khẩn trương triển khai các thủ tục để công bố chấm dứt giải quyết vụ việc trong tháng 5/2013 theo chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ.



3. Vụ việc của bà Nguyễn Thị Gấm tổ 7, khu 10A, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long: khiếu nại Quyết định số 2199/QĐ-UB ngày 25/12/2000 của Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long về việc giải quyết tiền đền bù thửa đất số 32 và 34 tờ bản đồ số 9 cho ông Phạm Văn Tỵ; đề nghị được đền bù cho cả 04 chủ hộ đang trong một căn nhà tại thửa đất trên; giải quyết trả lại nhà, tài sản cho 03 mẹ con bà theo đúng Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ:

Vụ việc này đã được UBND thành phố Hạ Long tổ chức triển khai các nội dung theo đúng quyết định giải quyết khiếu nại số 2535/QĐ-UBND ngày 21/8/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở Báo cáo kết luận số 2480/BC-TTCP-CII ngày 19/12/2008 của Thanh tra Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số 1939/VPCP-KNTN ngày 26/3/2009. Tuy nhiên, đến nay bà Gấm có thái độ không hợp tác và thường xuyên không có mặt tại địa phương.

Căn cứ hồ sơ, tài liệu đối chiếu quy định pháp luật, Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã thống nhất Phương án giải quyết vụ việc của bà Gấm như sau:

- Lập phương án mới mang tên ông Tỵ và bà Gấm, áp dụng giá đất năm 2012. Tuy nhiên, trước khi lập phương án mới, yêu cầu thành phố Hạ Long tổ chức làm việc với bà Gấm và thể hiện rõ quan điểm:

+ Nếu bà Gấm đồng ý viết giấy cho các con bà, thì UBND thành phố Hạ Long lập phương án bổ sung cho 02 con của bà là anh Long và chị Phương. Trường hợp bà Gấm không đồng ý, thì UBND thành phố Hạ Long lập biên bản ghi nhận kết quả làm việc để làm cơ sở công bố sau này.

+ Tiến hành công khai kết quả làm việc giữa UBND thành phố Hạ Long với bà Gấm trên phương tiện thông tin đại chúng.

UBND thành phố Hạ Long và đại diện một số Sở, ngành của Tỉnh đã tổ chức buổi làm việc với bà Gấm để triển khai thực hiện chỉ đạo của Tỉnh và Thanh tra Chính phủ, nhưng bà Gấm đã vắng mặt không hợp tác.

UBND tỉnh đã có văn bản báo cáo Thanh tra Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép UBND tỉnh Quảng Ninh được lập phương án đối với bà Gấm theo giá đất mới năm 2012.

Hiện tại vụ việc của bà Gấm đang đợi ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ về việc đồng ý để UBND tỉnh Quảng Ninh áp dụng đơn giá năm 2013 để bồi thường cho bà Gấm. Nếu bà Gấm không chấp thuận theo phương án bồi thường mới, UBND tỉnh sẽ tiến hành các thủ tục để chấm dứt giải quyết vụ việc theo hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ.

4. Vụ việc của bà Nguyễn Thị Thành, trú tại khu 5B, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả: khiếu nại việc năm 1978 gia đình bà được thị xã Cẩm Phả cấp 300 m2 đất tại khu vực Khe Cát, phường Cẩm Trung, bà đã nộp tiền nhưng đến nay chưa được nhận đất:

Ngày 20/01/1977, ông Nguyễn Quốc Toản (chồng bà Nguyễn Thị Thành) có đơn xin đất làm nhà ở, được HTX nông nghiệp Tam Hợp và phòng Nông nghiệp thị xã xác nhận cấp đất tại Khe Cát, phường Cẩm Trung, thị xã Cẩm Phả, diện tích 300 m2. Ngày 25/3/1977, ông Toản nộp tiền thửa đất tại Khe Cát, số tiền là 84 đồng, tại phiếu thu số 48. Vì diện tích đất cấp cho ông Toản trùng vào diện tích đất đã cấp cho HTX xây dựng. Ngày 05/12/1990, Ủy ban nhân dân thị xã có Thông báo số 165/TB-UB về việc đồng ý cấp cho ông Nguyễn Quốc Toản 01 mảnh đất để làm nhà ở với diện tích 64 m2 (4m x 16m) tại vị trí thửa đất trên đường Tô Hiệu, phường Cẩm Trung nhưng ông Toản không nhận, do đó ông Nhâm (hộ liền kề) đã lấn chiếm và xây dựng móng nhà trên thửa đất này. Sau đó chuyển nhượng trái phép cho bà Phạm Thị Hồng hiện đang quản lý và sử dụng.

Ngày 21/9/1992 ông Toản lại đồng ý nhận lại thửa đất mà thị xã đã cấp tại Thông báo số 165/TB-UB nêu trên, Ủy ban nhân dân thị xã đã tổ chức cưỡng chế, tháo dỡ công trình, móng nhà ông Nhâm để giải phóng mặt bằng giao cho ông Toản. Ông Toản đã nhận đất và ký biên bản bàn giao đất tại hiện trường. Năm 1993, do không có người quản lý thửa đất trên, ông Nhâm đã tái lấn chiếm và chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hồng, bà Hồng đã quản lý, sử dụng và xây nhà mái bằng 1 tầng trên diện tích thửa đất là 176 m2 đồng thời đã thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước từ đó đến nay.

Năm 2004, bà Thành có đơn khiếu nại đòi Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả phải cấp đủ diện tích 300 m2 đất tại phường Cẩm Trung.

Ngày 17/5/2006, Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả có Thông báo số 145/TB-UB, nội dung: Đồng ý cấp cho bà Thành 180 m2 đất tự xây dựng nhà tại tổ 51, khu 6, phường Cẩm Trung, bà Thành không phải nộp tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao này. Bà Thành không đồng ý và tiếp tục khiếu nại.

Ngày 01/8/2006, Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả ban hành Quyết định số 963/2006/QĐ-UB về việc “Giải quyết đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thành trú tại tổ 87, phường Cẩm Trung” với nội dung: Không chấp nhận việc đòi lại đất tại vị trí tổ 71, phường Cẩm Trung vì không phù hợp với quy định tại Khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai năm 2003: “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Ngày 18/10/2006, Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả có Thông báo số 312/TB-UBND với nội dung: Cấp cho bà Thành 03 ô đất diện tích 297 m2 không thu tiền sử dụng đất, vị trí nằm trong quy hoạch dự án của Công ty Thương mại Bái Tử Long. Tuy nhiên, bà Thành không nhận đất và tiếp tục khiếu nại.

Ngày 14/12/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số 4012/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thành, với nội dung: Đồng ý với Quyết định số 963/QĐ-UB ngày 01/8/2006 của Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả, không chấp nhận khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thành đòi lại 300 m2 đất tại khu vực tổ 70, phường Cẩm Trung, thị xã Cẩm Phả.

Ngày 12/11/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh có Thông báo số 190/TB-UBND thông báo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Đọc - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, nội dung: Giao cho Ủy ban nhân dân thị xã Cẩm Phả rà soát quỹ đất xây dựng trên địa bàn thị xã; giải quyết giao cho bà Nguyễn Thị Thành vị trí đất khác, trên cơ sở trao đổi, thống nhất với bà Nguyễn Thị Thành.

Ngày 02/8/2012, Ủy ban nhân dân thành phố Cẩm Phả ban hành Quyết định số 1888/QĐ-UBND về việc giao 300 m2 đất ở tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung cho bà Nguyễn Thị Thành trú tại tổ 87, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả. Bà Thành vẫn không đồng ý nhận đất và đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố cấp trả cho gia đình bà 04 ô đất số 1, 2, 3, 4 tổng diện tích 328 m2 Khu dân cư tự xây tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung và không đòi tiền chênh lệnh giá trị quyền sử dụng đất giữa khu đất này với khu đất tại Khe Cát trước đây.

Ngày 15/8/2012, Ủy ban nhân dân thành phố Cẩm Phả ra Văn bản số 1265/UBND nội dung: chỉ giải quyết cho bà Thành 03 ô đất số 5, 6, 7 bằng 300m2 Khu dân cư tự xây tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung (không có giá trị chênh lệnh quyền sử dụng đất).

Ngày 02 tháng 10 năm 2012, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh, Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã thống nhất Phương án giải quyết vụ việc của bà Thành như sau:

- Thống nhất với phương án giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: cấp cho bà Thành 03 ô đất 5, 6, 7 (bằng 300m2), Khu dân cư tự xây tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung (không có giá trị chênh lệch quyền sử dụng đất). Không đồng ý với phương án bà Thành đề nghị cấp đổi cho gia đình bà 04 ô đất số 1, 2, 3, 4 tổng diện tích 328m2 Khu dân cư tự xây tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả.

Nhằm giải quyết dứt điểm vụ việc của bà Thành, ngày 15/4/2013, UBND thành phố Cẩm Phả đã có buổi làm việc với bà Thành và đồng ý giao cho bà Thành 04 ô đất số 1, 2, 3, 4 tổng diện tích 300m2 tại Khu dân cư tự xây tại tổ 3, khu 3B, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả. Bà Thành đã đồng ý nhận 03 ô đất này nhưng lại đòi phải được nhận tiền chênh lệch giá trị giữa khu đất trước đây tại Khe Cát với khu đất được giao hiện nay (theo bà Thành trị giá chênh lệch khoảng 10 tỷ đồng) UBND thành

Hiện nay vụ việc của bà Thành đang được UBND tỉnh triển khai các bước thủ tục theo hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ để chấm dứt việc xem xét giải quyết trong tháng 5/2013.

5. Vụ việc của bà Vũ Thị Tỏ thường trú tại khu 7, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí: Đề nghị xem xét hỗ trợ công cải tạo đất nông nghiệp bị thu hồi để thực hiện dự án xây dựng hạ tầng khu dân cư đô thị tại phường Thanh Sơn của Công ty Xây dựng 18.1.

Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng khu dân cư đô thị tại phường Thanh Sơn, thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí), được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh phê duyệt dự án tại Quyết định số 1175/QĐ-UBND ngày 13/4/2004.

Quá trình tổ chức triển khai dự án, Ủy ban nhân dân thị xã Uông Bí lập, phê duyệt phương án đền bù GPMB, hộ bà Vũ Thị Tỏ đã bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư và nhận tiền đền bù. Tuy nhiên, tháng 5/2011, bà Vũ Thị Tỏ có đơn khiếu nại cho rằng gia đình chưa được nhận khoản tiền hỗ trợ công tôn tạo đất nông nghiệp khi nhà nước thu hồi năm 2004 để thực hiện dự án xây dựng hạ tầng khu dân cư đô thị tại phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí.

Ngày 13/5/2011 Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí có Quyết định số 1919/QĐ-UBND về việc rà soát nội dung kiến nghị của bà Vũ Thị Tỏ, kết quả cụ thể như sau:

Dự án đầu tư xây dựng - kinh doanh hạ tầng khu dân cư Cầu Sến của Công ty Xây dựng số 18.1 được thực hiện theo Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và Thông tư số 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP.

Về phương án đền bù (hỗ trợ) đất đai, tài sản, hoa màu, di chuyển GPMB của hộ ông Nguyễn Văn Lưỡng (vợ là Vũ Thị Tỏ), được Ủy ban nhân dân thị xã Uông Bí phê duyệt tại Quyết định số 2618/QĐ-UB ngày 10/12/2004, với tổng số tiền được đền bù là: 68.602.300 đồng (Trong đó: đền bù về đất 56.894.682đ; hỗ trợ vật kiến trúc: 1.655.850đ; đền bù hoa màu: 9.051.768đ; hỗ trợ khác: 1.000.000 đ).

Căn cứ Quyết định số 2023/2004/QĐ-UBND về việc ban hành chính sách và đơn giá đền bù giải phóng mặt bằng dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu dân cư Cầu Sến của Công ty Xây dựng 18.1 tại phường Thanh Sơn thị xã Uông Bí. Hội đồng đền bù GPMB đã xác định diện tích đất, loại đất của gia đình ông Nguyễn Văn Lưỡng, gồm: đất nông nghiệp hạng 3, được hỗ trợ 100%; đất hạng 3 (khai hoang): 1.488,36 m2 hỗ trợ 70%; đất tạm giao: 381,35 m2 hỗ trợ 30%. Ngoài ra hỗ trợ 1.000.000 đồng (hỗ trợ đối với nhân khẩu trong độ tuổi lao động do bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp).

Trên cơ sở nội dung kiểm tra, xác minh và rà soát, Đoàn Thanh tra của thành phố Uông Bí đã kết luận phương án đền bù, hỗ trợ GPMB của gia đình ông Nguyễn Văn Lưỡng được Ủy ban nhân dân thị xã Uông Bí lập phương án đảm bảo đúng chính sách quy định của Nhà nước tại thời điểm thu hồi đất.

Ngày 14/9/2012, Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ cùng với Tổ công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã làm việc với Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí và một số cơ quan hữu quan của thành phố Uông Bí và kết luận Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí chưa ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định pháp luật. Vì vậy Phương án giải quyết thống nhất giữa Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ và địa phương là:

Tổ công tác thống nhất với các nội dung và đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí:

- Khẩn trương xem xét và giải quyết khiếu nại đối với đơn của bà Vũ Thị Tỏ đảm bảo đúng chính sách quy định pháp luật.

- Tiếp tục tăng cường đối thoại trực tiếp với người dân để tuyên truyền, vận động, giải thích những nội dung còn vướng mắc tạo sự đồng thuận trong quá trình xem xét giải quyết không để diễn biến các vụ việc khiếu nại đông người tạo thành điểm nóng gây mất ổn định trên địa bàn.

- Kịp thời báo cáo tình hình, diễn biến vụ việc khiếu nại đông người về Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Cục I - Thanh tra Chính phủ để phối hợp xử lý vụ việc ngay tại địa phương hạn chế tối đa vụ việc khiếu nại đông người tập trung tại thủ đô Hà Nội.

Ngày 02 tháng 10 năm 2012, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh, Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã thống nhất Phương án giải quyết vụ việc của bà Tỏ như sau:

Vụ việc đang thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND thành phố Uông Bí và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã giao Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp giải quyết những khó khăn vướng mắc trong GPMB. Vì vậy thống nhất: Giao thành phố Uông Bí giải quyết khiếu nại lần 1 theo thẩm quyền; Giao Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh rà soát báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo.

Ngày 03/4/2013 Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí đã ban hành Quyết định số 1099/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Vũ Thị Tỏ, với nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Tỏ.

Bà Vũ Thị Tỏ đã tiếp tục có đơn khiếu nại và ngày 07/5/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 2155/UBND-TD giao Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm tra, xác minh, kết luận nội dung khiếu nại của bà Tỏ theo quy định của pháp luật. Hiện nay Sở Tài nguyên và Môi trường đang triển khai thực hiện.

Uỷ ban nhân dân Tỉnh trân trọng báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh./.



TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH

Đỗ Thông
Nơi nhận:

- Như kính gửi (b/c);

- CT, PCT (P1)UBND tỉnh (b/c);

- Thanh tra tỉnh, Sở TN&MT, Công an tỉnh,

Sở Xây dựng, Sở Tài chính;

- Văn phòng Tỉnh ủy;

- Văn phòng ĐĐBQH&HĐND tỉnh;

- UBMT Tổ quốc tỉnh, Hội LHPN tỉnh;

- UBND: thành phố Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí, thị xã Quảng Yên, huyện Đông Triều, Huyện Bình Liêu;

- V0, V4; TD;

- Lưu: VT, TD.

C20-BC06




Каталог: vi-VN -> Lists
Lists -> THÔng tư CỦa bộ quốc phòng số 113/2009/tt-bqp ngàY 07 tháng 12 NĂM 2009
Lists -> THÔng tư Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 12/2007/NĐ-cp ngày 17 tháng 01 năm 2007 quy định về công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh ban chỉ ĐẠo công tác y tế trưỜng họC
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Số: 1216 /QĐ-snv cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> TỈnh ủy quảng ninh số 1305-tb/tu đẢng cộng sản việt nam

tải về 153.18 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương