CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập-Tự do-Hạnh phúc



tải về 485.23 Kb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích485.23 Kb.
#16256
  1   2   3   4   5   6


UỶ BAN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NINH

Số: 178 /BC-UBND






CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

Quảng Ninh, ngày 11 tháng 11 năm 2013


BÁO CÁO

Kết quả giải quyết kiến nghị cử tri, đơn thư khiếu nại, tố cáo và thực hiện nghị quyết về chất vấn


Căn cứ văn bản số 484/HĐND-TTDN1 ngày 20/9/2013 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh "V/v báo cáo kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri và đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân", Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo kết quả giải quyết một số nội dung được nhiều cử tri các địa phương trong tỉnh gửi tới Kỳ họp thứ 9, Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XII và gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh sau Kỳ họp thứ 3 và trước Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII; kết quả thực hiện các nội dung chất vấn đã được Chủ toạ Kỳ họp thứ 9, Hội đồng nhân dân khoá XII kết luận; kết quả giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân do Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh chuyển; kết quả giải quyết theo kiến nghị của các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh như sau:



A. VỀ KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI.

I. Kiến nghị cử tri với Kỳ họp thứ 9 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XII.

(Một số nội dung được nhiều cử tri các địa phương trong tỉnh kiến nghị gửi tới kỳ họp thứ 9 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XII).



1.1. Về lĩnh vực đầu tư phát triển

1.1.1. Cử tri nhiều địa phương đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo ngành giao thông có biện pháp đảm bảo an toàn giao thông tại các địa phương:

- Quan tâm quy hoạch cải tạo phân luồng nút giao thông QL18 khu vực ngã 3 phường Cẩm Đông, quy hoạch cải tạo nút giao thông đoạn ngã 3 chợ Cửa Ông đi Vân Đồn theo thông báo kết luận số 971- TB/TU ngày 13/3/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, điều chỉnh nắn tuyến tránh Cửa Ông; bố trí tuyến xe buýt từ Hạ Long, Cẩm Phả đi qua nội thị phường Mông Dương để tạo điều kiện đi lại cho nhân dân (kiến nghị của cử tri TP Cẩm Phả).

+ Về nút giao thông Cẩm Đông (Km150 + 062, Quốc lộ 18):

Tại đây hiện có đường bộ giao cắt với đường sắt, khi có tàu đi qua giao cắt, tuyến giao thông đường bộ phải tạm dừng để ưu tiên tuyến giao thông đường sắt nên dẫn đến ùn tắc giao thông tức thời.

Từ năm 2010, Uỷ ban nhân dân đã tỉnh đã phê duyệt Nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư dự án cải tạo nút giao này (tại Quyết định số 3136/QĐ-UBND ngày 20/10/2010) và giao Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả triển khai. Tuy nhiên, do chưa bố trí nguồn vốn triển khai nên Dự án chưa triển khai thực hiện được.

Tiếp theo, Uỷ ban nhân dân tỉnh có văn bản số 3783/UBND-VX2 ngày 19/7/2013 giao Sở Giao thông Vận tải đã chủ động, phối hợp với Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả nghiên cứu giải pháp tổ chức giao thông, quy hoạch nút giao thông tại khu vực này. Để sớm đầu tư cải tạo nút giao thông, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ giao Sở Giao thông Vận tải trình Bộ Giao thông Vận tải, Tổng cục Đường bộ Việt Nam phê duyệt đầu tư cải tạo nút giao thông này từ nguồn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương (Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng thời có văn bản đề nghị Bộ Giao thông Vận tải trong tháng 11/2013 để Bộ Giao thông Vận tải sớm đầu tư cải tạo nút giao thông này).



+ Về nút giao thông ngã 3 chợ Cửa Ông đi Vân Đồn:

Hiện tại nút giao có mặt bằng hẹp, các phương tiện dừng đỗ, đón trả khách ngay trong nút, đồng thời tình trạng chiếm dụng lòng đường, vỉa hè để kinh doanh, họp chợ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông.

Căn cứ báo cáo đề xuất của Sở Giao thông Vận tải và điều kiện hiện tại, để giải quyết tình trạng ùn tắc, lộ xộn về giao thông như hiện nay, Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả chỉ đạo các lực lực chức năng cấm triệt để các xe vận tải khách công cộng dừng, đỗ đón để đón khách trong phạm vi 200m tính từ ngã 3, đồng thời xử lý triệt để tình trạng chiếm dụng lòng đường, vỉa hè để kinh doanh, họp chợ (Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo nội dung này tại văn bản số 3783/UBND-VX2 ngày 19/7/2013), đẩy nhanh tiến độ triển khai chợ mới để di chuyển chợ hiện nay.

+ Về điều chỉnh nắn tuyến tránh Cửa Ông:

Quốc lộ 18 đoạn tuyến tránh phường Cửa Ông xây dựng hoàn thành năm 2008 có quy mô đường cấp III đồng bằng. Do dự án sử dụng nguồn vốn dư sau đấu thầu của Dự án mở rộng Quốc lộ 18, nguồn vốn này hạn chế nên đoạn tuyến nhiều chỗ còn "châm chước" về các yếu tố kỹ thuật.

Sau khi tiếp nhận để quản lý, Uỷ ban nhân dân tỉnh nhiều đã đề nghị Bộ Giao thông Vận tải cho phép cải tạo đoạn tuyến tránh (nhất là các buổi làm giữa Tỉnh Quảng Ninh và Bộ Giao thông Vận tải từ cuối năm 2011 đến nay), tuy nhiên Bộ Giao thông Vận tải chưa bố trí vốn cho việc cải tạo nâng cấp được. Riêng điểm đen từ Km159+500-Km160+200 trên đoạn tránh Cửa Ông là vị trí có nhiều đường cong liên tiếp và có độ dốc dọc lớn nhất của tuyến tránh, tỉnh Quảng Ninh làm việc và Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã cho phép chuẩn bị đầu tư (tại Quyết định số 1090/QĐ-TCĐBVN ngày 01/7/2013); hiện tỉnh đang giao Sở Giao thông Vận tải lập hồ sơ thiết kế xử lý điểm đen để báo cáo Tổng cục Đường bộ Việt Nam bố trí vốn triển khai.

Đồng thời, trong tháng 5/2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Sở Giao thông Vận tải đã triển khai một số hạng mục để tăng cường an toàn giao thông như: Bổ sung sơn tim đường, sơn gờ giảm tốc và lắp bổ sung biển cảnh báo nguy hiểm trên tuyến tránh.



+ Về mở tuyến xe buýt từ Hạ Long, Cẩm Phả đi qua nội thị phường Mông Dương:

Theo Quy hoạch phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2012-2020 được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2800/QĐ-UBND ngày 29/10/2012 đã xác định có tuyến buýt 04 với hành trình: Bến xe trung tâm Cẩm Phả-Cẩm Sơn-Ngã ba tuyến tránh Cửa Ông-Cửa Ông-Bến xe Mông Dương-Trung tâm Mông Dương-Nhà máy nhiệt điện Mông Dương và ngược lại.

Trong những năm qua, các tuyến xe buýt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được triển khai theo hình thức xã hội hoá, trong đó Sở Giao thông Vận tải thực hiện quản lý tuyến và chức năng quản lý nhà nước, doanh nghiệp đầu tư phương tiện khai thác tuyến. Theo quy hoạch, trong giai đoạn từ năm 2012-2020 các tuyến xe buýt trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện theo hình thức xã hội hóa như trên.

Triển khai quy hoạch, Tỉnh đã khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể tiếp cận và nghiên cứu để khai thác các tuyến, trong đó có tuyến này. Năm 2012, đã có doanh nghiệp xin khai thác thử tuyến, tuy nhiên do không đảm bảo được khả năng tài chính, doanh nghiệp không đầu tư được phương tiện; bên cạnh đó lượng khách không đảm bảo như tính toán của doanh nghiệp nên chưa thể đi vào hoạt động.

Thời gian tới, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu và mở tuyến khi đủ điều kiện.

- Chấn chỉnh và xử lý chấm dứt tình trạng xe khách (nội tỉnh, liên tỉnh) thường xuyên đón trả khách không đúng nơi quy định, tranh đón khách trên các tuyến quốc lộ gây nhiều nguy cơ mất an toàn cho người dân và các phương tiện giao thông khác.

Trong thời gian qua, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và các sở, ngành, địa phương đã rất tích cực trong việc chấn chỉnh tình trạng xe khách (nội tỉnh, liên tình) đón trả khách không đúng nơi quy định, tranh đón khách trên các tuyến quốc lộ, gây nguy cơ mất an toàn giao thông.

Qua công tác kiểm tra và xử lý vi phạm cho thấy các nguyên nhân chính sau:

+ Ý thức chấp hành Luật Giao thông và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của lái xe và các doanh nghiệp kinh doanh vận tải kém. Lái xe chỉ chấp hành khi thấy lực lượng chức năng làm nhiệm vụ.

+ Bên cạnh đó ý thức chấp hành giao thông của chính người dân khi tham gia giao thông bằng phương tiện xe khách chưa cao, thường lên, xuống bất kỳ điểm nào trên tuyến.

+ Các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hiện nay còn thực hiện hình thức khoán thời gian chạy xe và khoán doanh thu cho mỗi đầu xe nên lái xe thường làm liều và vi phạm các quy định.

+ Chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe đối với các vi phạm của lái xe và các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.

Thời gian qua, lực lượng Thanh tra giao thông kết hợp với lực lượng Cảnh sát giao thông thường xuyên kiểm tra, xử lý bằng các hình thức như: Phạt nguội từ máy quay camera ghi lại hình ảnh và lập chốt xử lý trên tuyến; Bố trí lực lượng thường xuyên tuần tra, kiểm soát trên tuyến để kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm. Kết quả trong 8 tháng đầu năm 2013 (tính từ ngày 16/12/2012 đến hết ngày 15/8/2013) đã kiểm tra, phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính đối với 517 trường hợp phương tiện xe khách (chủ yếu tập trung vào các lỗi đón, trả khách không đúng nơi quy định, không trao vé cho hành khách, để hàng trong khoang chở khách, xe chạy không đúng lịch trình, có sổ nhật trình chạy xe nhưng không đủ xác nhận của bến xe hai đầu tuyến...), phạt tiền nộp Kho bạc Nhà nước 299,8 triệu đồng; tước 428 giấy phép lái xe (trong đó riêng tại Ngã tư Loong Toòng: Xử lý 31 vụ; phạt tiền 24,6 triệu đồng).

Để giải quyết tình trạng trên, thời gian tới Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo các lực lượng chức năng:

+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành Luật Giao thông và các văn bản quy phạm pháp luật cho người dân, lái xe và các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.

+ Kiên quyết xử lý và xử phạt nghiêm đối với các phương tiện và doanh nghiệp. Với các trường hợp vi phạm lần thứ 2 trong tháng trở lên thì thực hiện đình chỉ phương tiện hoặc không cho khai thác tuyến.

+ Nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch các điểm dừng, đón trả khách theo quy định tại Thông tư số 18/2013/TT-BGTVT ngày 06/8/2013 của Bộ Giao thông Vận tải (có hiệu lực từ ngày 01/10/2013).



- Có biện pháp giải quyết tình trạng mất an toàn giao thông trên QL 18 đoạn qua cổng Metro Hạ Long và cổng chợ Hà Tu (làm cầu vượt, có vạch kẻ ngang dành cho người đi bộ; có gờ giảm tốc và biển báo hạn chế tốc độ...) (kiến nghị của cử tri thành phố Hạ Long);

Nhằm tăng cường an toàn giao thông trên tuyến quốc lộ 18, đoạn qua cổng chợ Hà Tu, cổng Metro Hạ Long (Km132 + 325-Km132 + 690), Uỷ ban nhân dân tỉnh giao và Sở Giao thông Vận tải đã đầu tư một số hạng mục như: Sơn vạch kẻ đường, vạch giảm tốc, điều chỉnh và lắp đặt bổ sung biển báo hiệu...

Song song với giải pháp này, Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long tăng cường công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về chiếm dụng lòng đường, vỉa hè để kinh doanh, họp chợ, vi phạm của các phương tiện dừng, đỗ để bốc xếp hàng hóa gây cản trở giao thông; đồng thời, phát quang cây xanh che khuất biển báo làm giảm tầm nhìn an toàn cho các lái xe.

- Khắc phục một số "điểm đen" về giao thông trên tuyến Quốc lộ 18, đoạn qua huyện Tiên Yên (đầu cầu Hà Tràng, xã Đông Hải; khu vực dốc Kênh Cốc, xã Đông Ngũ; khu Trung tâm xã Đông Ngũ; khu vực đầu cầu Long Tiên, thị trấn Tiên Yên...) (kiến nghị của cử tri huyện Tiên Yên).

Tình trạng chung tại các điểm đen này là đường đẹp, tuyến đường cong, các phương tiện đi nhanh, không đúng tốc độ quy định nên thường bị lật đổ (chủ yếu là xe container, xe có tải trọng lớn). Qua quá trình theo dõi cho thấy, khi lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường tuần tra, xử lý vi phạm tốc độ ở các đoạn này thì các lái xe chấp hành biển báo hiệu, đi đúng tốc độ, không gây tai nạn giao thông và lật xe. Tuy nhiên, khi không có lực lượng kiểm tra (về ban đêm, thời tiết mưa ...) các lái xe thường vi phạm tốc độ dẫn đến gây tai nạn giao thông.

Để giải quyết vấn đề, yêu cầu Công an tỉnh tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm tốc độ các các "điểm đen" này; đồng thời Sở Giao thông Vận tải nghiên cứu, lắp đặt bổ sung biển báo hiệu, tôn hộ lan lượn sóng và sơn vạch giảm tốc nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông (một số vị trí đã bố trí biển báo hạn chế tốc độ, đèn cảnh báo nháy vàng và biển báo hiệu đường cong).

Ngoài ra, thời gian qua Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Sở Giao thông vận tải đã thường xuyên theo dõi, kiểm tra các điều kiện an toàn giao thông trên tuyến. Trong đó đã đề nghị và được Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho phép triển khai xử lý 4 “điểm đen” là Km53 + 200 (Ngã 6 Đức Chính); Km128 + 270 ÷ Km129 + 00 (khu Liên cơ quan số 2); Km159 + 600 ÷ Km160 (đường tránh Cửa Ông); Km219 + 800 ÷ Km220 + 400 (khu vực Đầm Hà). Hiện Sở Giao thông vận tải đã hoàn chỉnh hồ sơ, đang trình Tổng cục Đường bộ Việt Nam phê duyệt để triển khai thi công.

* Về một số vị trí cụ thể:

- Khu vực trung tâm xã Đông Ngũ: Khu vực có mật độ dân cư sinh sống hai bên đường cao. Sở Giao thông vận tải đã lắp đặt biển “Khu vực đông dân cư” (biển 420, 421) để báo hiệu hạn chế tốc độ.

- Khu vực dốc Kênh Cốc (Km211 + 400 ÷ Km211 + 900): Hiện trạng đường cong liên tục, đường dốc theo hướng từ Móng Cái về Hạ Long, các phương tiện thường đi tốc độ cao nên xảy ra va chạm. Sở đã lắp đặt bổ sung biển báo hiệu, tôn hộ lan lượn sóng và đã sơn vạch giảm tốc tại khu vực này.

Như vậy, những nội dung kiến nghị đến nay đã được thực hiện xong. Riêng nội dung xử lý “điểm đen” do liên quan đến nguồn vốn của Tổng cục Đường bộ Việt Nam và thẩm quyền quyết định của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Sở Giao thông Vận tải đang tiếp tục bám sát để sớm được cấp vốn triển khai.



Cử tri các địa phương (Hải Hà, Móng Cái) đề nghị có biện pháp khắc phục những bất cập do quá trình thi công, đơn vị thi công đã làm ảnh hưởng các công trình dân sinh, cụ thể:

- Kiến nghị của cử tri huyện Hải Hà: Khi mở rộng, nâng cấp đường quốc lộ 18, do nắn dòng mương nước cắt qua đường tại km 246 + 700 đã hình thành một đoạn mương đất (chiều dài 40m, sâu 2,5m, rộng 2,5m). Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải cứng hóa và có nắp đậy đoạn mương trên để phục vụ nước tưới và hoàn lại đường đấu nối giữa đường quốc lộ 18 với đường dân sinh thôn 4 xã Quảng Long.

Sau khi nhận được kiến nghị của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Sở Giao thông Vận tải đã tiến hành kiểm tra thực tế tại hiện trường. Hiện trạng mương nước trên cách chân ta-luy bên phải Quốc lộ 18 gần 5m. Khu vực này dân cư thưa thớt, đoạn qua mương chỉ có 02 hộ dân sinh sống, đơn vị thi công đã xây dựng bản bê tông cốt thép bắc qua mương đảm bảo lưu thông được xe máy, phục vụ đi lại của các hộ dân. Thực tế, hiện trạng đoạn mương này không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt, đi lại, vẫn đảm bảo cung ứng nước tưới tiêu cho người dân trong khu vực. Do đó việc kiên cố hóa mương nước và làm nắp đậy là chưa thật sự cần thiết.



- Lắp các biển báo hiệu hoặc làm gờ giảm tốc tại các điểm giao giữa Quốc lộ 18 với các đường dân sinh trên địa bàn huyện để đảm bảo an toàn giao thông (Nông trường chè 2 điểm: Giao giữa Quốc lộ 18 với đường dân sinh vào lò gạch thôn 9 xã Quảng Long; giao giữa Quốc lộ 18 với đường vào trường Tiểu học Nông trường. Thị trấn Quảng Hà 3 điểm: Tại ngã tư đường Lâm nghiệp; ngã ba đường trung tâm; ngã tư đầu cầu Quảng Hà)

Các đường ngang nêu trên trước kia là đường đất, sau khi Uỷ ban nhân dân Huyện đầu tư cải tạo nhưng không lắp đặt biển báo hiệu “giao nhau với đường không ưu tiên và giao nhau với đường ưu tiên” gây nguy hiểm cho người tham gia điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên tuyến, như:

+ Nút giao ngã tư đường Lâm nghiệp và Ngã tư đầu cầu Quảng Hà: Trước đây có gờ giảm tốc, sau khi nâng cấp sửa chữa không làm gờ giảm tốc.

+ Ngã ba đường Trung tâm: Thuộc dự án Đường trung tâm thị trấn Quảng Hà. Việc tổ chức thi công đấu nối nút giao chưa được cơ quan quản lý đường bộ thỏa thuận, cấp phép thi công.

Tiếp thu ý kiến của cử tri và Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hà đã thực hiện một số nội dung:

+ Điểm giao với các đường dân sinh vào lò gạch thôn 9 xã Quảng Long: Đã lắp biển báo giao nhau với đường ưu tiên nhưng chưa có gờ giảm tốc, trong thời gian tới sẽ xây gờ giảm tốc.

+ Điểm giao với đường vào trường Tiểu học Nông Trường: Đã lắp biển báo giao nhau với đường ưu tiên và gờ giảm tốc, trong thời gian tới sẽ lắp thêm biển báo có học sinh qua đường.

+ Điểm tại ngã tư đường Lâm nghiệp (thị trấn Quảng Hà): Đã lắp biển báo giao nhau với đường ưu tiên, trong thời gian tới sẽ xây gờ giảm tốc.

+ Điểm ngã ba đường trung tâm (thị trấn Quảng Hà): Đã lắp biển báo giao nhau với đường ưu tiên, trong thời gian tới sẽ xây gờ giảm tốc.

+ Điểm ngã tư cầu Quảng Hà: Trong thời gian tới sẽ lắp biển báo giao nhau với đường ưu tiên và xây gờ giảm tốc.

Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu Sở Giao thông Vận tải, Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hà căn cứ thẩm quyền quản lý được giao, tiếp tục chủ động nghiên cứu, đầu tư các hạng mục đảm bảo giao thông tại các vị trí theo kiến nghị của cử tri.

Công tác đảm bảo an toàn giao thông là công tác của cả hệ thống chính trị, vì vậy nhân đây Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị các cấp, các ngành, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và từng cán bộ, đảng viên cùng vào cuộc tích cực để tuyên truyền và gương mẫu chấp hành Luật Giao thông đường bộ góp phần đảm bảo an toàn giao thông.



- Xem xét bồi thường thiệt hại cho nhân dân và hoàn nguyên lại số diện tích đất sản xuất bị ảnh hưởng để có thể sản xuất được trong thời gian tới do khi nâng cấp, cải tạo đường tỉnh 340, đơn vị thi công đã để tràn đất, đá xuống ruộng canh tác của nhân dân xã Quảng Đức, đã 3 vụ nay không sản suất được (theo thống kê có 16 hộ gia đình bị ảnh hưởng).

Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và đã giải quyết chi trả kinh phí bồi thường cho 17/17 hộ dân.



- Đề nghị sớm đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước hai bên đường để đảm bảo chất lượng công trình giao thông và môi trường sống cho các hộ dân do việc cải tạo, nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 18 đoạn đi qua địa bàn các thôn 7, 8 và 11 xã Hải Đông (Móng Cái) đã hoàn thành nhưng chưa xây dựng hệ thống thoát nước 2 bên đường.

Thôn 7, Thôn 8 và Thôn 11 xã Hải Đông thuộc đoạn từ Km273 + 300 đến Km277 + 600, Quốc lộ 18. Đoạn tuyến thuộc Dự án Cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn Mông Dương-Móng Cái đã hoàn thành theo thiết kế quy định. Thời gian qua, do dân cư xây dựng nhà ở và các tổ chức thực hiện việc san lấp mặt bằng hai bên đường dẫn đến khi mưa, khả năng thoát nước kém.

Để xây dựng hệ thống thoát nước theo hiện trạng mới, Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Uỷ ban nhân dân thành phố Móng Cái cân đối nguồn vốn của địa phương để xử lý các điểm ngập lụt nhiều, ảnh hưởng tới đời sống người dân.

1.1.2. Cử tri thành phố Móng Cái đề nghị tỉnh sớm quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng, sửa chữa kè cột mốc biên giới 1352 (2); 1354 (2) và 1348 (2) đã bị sạt lở từ năm 2012 (do ảnh hưởng bởi cơn bão số 5 và số 8, riêng cột mốc số 1348 đã đổ toàn bộ phần kè và nền cột).

Sau khi các cột mốc biên giới 1352(2) và 1348(2) đã bị sạt lở do ảnh hưởng của bão, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có kiến nghị với Trung ương sớm quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng, sửa chữa kè cột mốc biên giới.

Bên cạnh đó, Tỉnh cũng đã chỉ đạo khắc phục các sạt lở trong khả năng của Tỉnh, cụ thể:

+ Về gia cố bảo vệ chân cột Mốc 1352(2) tại xã Hải Sơn, thành phố Móng Cái:

Dự án Xử lý, gia cố bảo vệ chân cột Mốc 1352(2) được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1691/QĐ-UBND ngày 05/7/2013 và bố trí vốn bằng nguồn dự phòng ngân sách tỉnh tại Quyết định số 2348/QĐ-UBND ngày 09/9/2013. Hiện nay, Dự án đang được triển khai các bước tiếp theo theo quy định.



+ Về bảo vệ cột Mốc số 1348(2), xã Hải Sơn, thành phố Móng Cái:

Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có kiểm tra thực địa và có Thông báo số 71/TB-UBND ngày 10/4/2013, trong đó chỉ đạo lập dự án bổ sung đoạn kè đứt quãng giữa khu vực mốc 1347(2) và 1348(2), xử lý xây lại đoạn kè bảo vệ mốc 1348(2) bị đổ, bổ sung kè bờ sông khu vực hạ lưu mốc 1348(2) để đảm bảo nối liền kè bờ sông, bảo vệ an toàn biên giới khu vực. Hiện, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang khẩn trương thực hiện các bước chuẩn bị đầu tư theo quy định.



1.1.3. Các cử tri đề nghị tỉnh có ý kiến với Công ty Điện lực tỉnh Quảng Ninh quan tâm giải quyết các vấn đề:

-Cử tri huyện Ba Chẽ: Thanh toán kinh phí hỗ trợ giải phóng mặt bằng ở tuyến đường điện 35 KV trong Chương trình xây dựng lưới điện nông thôn giai đoạn 2 trên địa bàn huyện Ba Chẽ (Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng chưa thanh toán giải phóng mặt bằng). Cử tri huyện Bình Liêu: Có thông báo cụ thể về việc hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án điện lưới nông thôn giai đoạn II trên địa bàn huyện.

Dự án đầu tư xây dựng lưới điện quốc gia khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ninh do Uỷ ban nhân dân tỉnh và Tổng Công ty Điện lực miền Bắc phối hợp đầu tư; Công ty Điện lực Quảng Ninh được giao làm chủ đầu tư xây dựng các công trình. Đối với công tác giải phóng mặt bằng, theo chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu: Không thực hiện ký hợp đồng làm công tác đền bù, giải phóng mặt bằng (văn bản số 4419/UBND-CN ngày 02/11/2011); Nếu vướng vào tài sản của dân (cây cối, hoa mầu) chủ đầu tư phải báo cáo ngay cho chính quyền địa phương để làm công tác kiểm đếm, đền bù tại chỗ cho dân (Thông báo 120/TB-UBND ngày 27/7/2012).

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và ngày 23/9/2013 Sở Công Thương đã chủ trì làm việc cùng các địa phương Ba Chẽ, Bình Liêu và Công ty Điện lực Quảng Ninh về nội dung trên. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân huyện Ba Chẽ và Công ty Điện lực Quảng Ninh, công tác giải phóng mặt bằng dự án đầu tư xây dựng lưới điện quốc gia khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ninh đã được địa phương nghiêm túc thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, quá trình kiểm đếm tài sản tại hiện trường đã được Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư Huyện lập thành biên bản, tuy nhiên chưa có xác nhận của Công ty Điện lực Quảng Ninh. Do vậy để sớm thực hiện giải quyết việc hỗ trợ kinh phí cho nhân dân do ảnh hưởng của dự án, các bên đã thống nhất thành lập tổ làm việc để kiểm đếm, xác định giá trị hỗ trợ đền bù cho các hộ dân, đồng thời yêu cầu các địa phương chủ trì phối hợp cùng Công ty Điện lực Quảng Ninh hoàn thành công tác hỗ trợ kinh phí cho nhân dân trong năm 2013.

- Cử tri huyện Hải Hà: Có giải pháp sớm đầu tư cột điện đến trung tâm các điểm khu dân cư (nhóm dân cư số 11,12 thuộc thôn 5, thôn 6 (xã Quảng Điền), 10 hộ bản Khe Lánh II (xã Quảng Đức), 15 hộ ở bản Tình Á (xã Quảng Đức) nhằm rút ngắn khoảng cách kéo dây điện về đến các hộ gia đình, tạo điều kiện để người dân khu vực này được sử dụng điện lưới quốc gia.

Năm 2010, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn đồng thời thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã phối hợp cùng Tổng Công ty Điện lực miền Bắc triển khai đầu tư xây dựng hệ thống lưới điện quốc gia khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ninh để cấp điện cho các thôn, khe bản chưa được sử dụng điện có số hộ từ 20 hộ trở lên, đến nay dự án đã cơ bản hoàn thành, người dân đã có điện sử dụng. Quá trình triển khai dự án đầu tư xây dựng hệ thống lưới điện quốc gia khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ninh, ngành điện đã thực hiện khảo sát để cấp điện cho khu vực này, tuy nhiên do một số cụm dân cư không đảm bảo tiêu chí về số hộ, có nơi chiều dài đường dây hạ áp đến các hộ quá xa, mức đầu tư là rất lớn và không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật khi vận hành đặc biệt là yếu tố tổn thất điện năng.

Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị Ngành điện tiếp tục quan tâm đầu tư hệ thống điện đến các khu vực trên và giao Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hà chủ động phối hợp với Ngành điện để thực hiện.

Đồng thời, đối với khu vực dân cư có dưới 20 hộ dân, để tạo điều kiện cho nhân dân có điện để sử dụng, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Sở Công Thương phối hợp Công ty Điện lực Quảng Ninh và các địa phương tổ chức rà soát, thống kê các cụm dân cư chưa có điện, để xem xét khả năng cấp nguồn điện lưới quốc gia đối với các khu vực chưa được sử dụng điện. Trên cơ sở kết quả rà soát của các địa phương, Sở Công Thương chủ trì xây dựng kế hoạch báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh để triển khai thực hiện; dự kiến thực hiện việc đầu tư cấp điện cho các hộ trên vào năm 2014- 2015.



1.1.4. Cử tri thành phố Hạ Long: Đề nghị ngành nước quan tâm đầu tư tuyến ống cấp nước chính cho khu phố 1 và hoàn chỉnh các tuyến đường ống nhánh (gồm khu phố: 2, 6, Đại Đán, Yên Cư, Quỳnh Chung, Cầu Trắng, Minh Khai) để nhân dân phường Đại Yên, thành phố Hạ Long được sử dụng đầy đủ nước sạch.

Dự án cấp nước phường Đại Yên được Uỷ ban nhân dân tỉnh đầu tư tại Quyết định số 3800/QĐ-UBND ngày 02/12/2011 và đến nay đã lắp đặt được 11,907 km đường ống trục chính (98% khối lượng) và tuyến ống phân phối 15,195 km (93% khối lượng), khối lượng còn lại chưa lắp đặt được do phụ thuộc vào mặt bằng đường Quốc lộ 18 đang thi công.

Theo báo cáo của Công ty TNHH Kinh doanh nước sạch Quảng Ninh, tuyến mạng trong khu vực đã đủ điều kiện cấp nước cho 638 hộ nhưng mới có 390 hộ đấu nối và sử dụng nước còn 248 hộ vẫn sử sụng nước từ khe núi, nước mưa, không đấu nối sử dụng nguồn nước sạch mặc dù Công ty TNHH Kinh doanh nước sạch Quảng Ninh đã kết hợp cùng với chính quyền phường tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân sử dụng nước sạch. Còn lại 1.042 hộ nằm trong khu vực đã có mạng lưới cấp nước nhưng chưa đấu nối được với tuyến trục chính do phụ thuộc vào mặt bằng thi công Quốc lộ 18, sau khi có mặt bằng, Công ty sẽ đấu nối và cấp nước cho nhân dân.

Ngoài ra, các hộ dân thuộc khu phố 2, 6, Đại Đán, Yên Cư, Quỳnh Chung, Cầu Trắng, Minh Khai đã có tuyến trục chính ống ĐK315 nhưng chưa có mạng lưới ống phân phối và khu phố 1 (157 hộ dân) chưa có đường ống trục chính và mạng lưới ống phân phối để cấp nước, Công ty sẽ lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển mạng lưới cấp nước cho nhân dân vào năm 2014 bằng nguồn vốn tự có của Công ty.



1.1.5. Cử tri thành phố Uông Bí kiến nghị: Dự án Khu đô thị Nam Sơn (Thuộc tổ 9, khu Nam Sơn, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí) do Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Quảng Ninh được Tỉnh giao làm Chủ đầu tư triển khai thực hiện từ năm 2002 đến nay đã cơ bản hoàn thành các hạng mục chính, song vẫn còn một số hạng mục chưa hoàn thành (Giải phóng mặt bằng mở rộng đường vào dự án, hệ thống tiêu thoát nước sinh hoạt...). Trong quá trình thực hiện san nền phân lô, Doanh nghiệp đã huy động vốn đóng góp của nhiều hộ dân (Tổng số tiền huy động theo kết quả thanh tra tháng 4/2011, doanh nghiệp thu của dân = 10,2 tỷ đồng) và doanh nghiệp đã bàn giao đất cho các hộ dân có tham gia góp vốn.

Hiện nay, Doanh nghiệp đã giải thể, sáp nhập nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước (Tiền sử dụng đất của Dự án) do đó các ngành chức năng của Tỉnh chưa triển khai được thủ tục giao đất cho Doanh nghiệp, dẫn tới chưa cấp được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân trong Dự án.

Đề nghị các cơ quan quản lý của Tỉnh quan tâm giải quyết vướng mắc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân; đồng thời chỉ đạo Doanh nghiệp có phương án hoàn thiện một số hạng mục xây dựng đến nay chưa hoàn thành.

Việc thực hiện dự án Khu đô thị Nam Sơn do Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng Quảng Ninh thực hiện đã được Thanh tra tỉnh thanh tra năm 2011. Kết quả cụ thể: Theo quy định, Chủ đầu tư phải nộp số tiền sử dụng quỹ đất kinh doanh là 1.682 triệu đồng từ tháng 9/2004 nhưng đến nay Chủ đầu tư vẫn chưa thực hiện trong khi Chủ đầu tư đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất kinh doanh và diện tích đất công cộng cho 106 hộ gia đình cá nhân với số tiền thu trên 10 tỷ đồng dưới dạng hợp đồng góp vốn, chưa làm thủ tục về đất đai. (Cho tới nay đơn vị vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước do đó chưa có cơ sở để cấp giấy chứng nhận của các hộ dân).

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 5633/UBND-NC ngày 17/10/2013 với nội dung: Giao Sở Tài nguyên và Môi trường căn cứ Kết luận thanh tra việc chấp hành các quy định chính sách pháp luật về quản lý các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng khu dân cư, đô thị mới tại phường Nam Khê, thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) của Thanh tra tỉnh để tham mưu, đề xuất Uỷ ban nhân dân tỉnh biện pháp xử lý đối với quỹ đất do Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Quảng Ninh đã chuyển nhượng cho 106 hộ gia đình, cá nhân và tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân khi các hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện trong quý IV/2013. Giao Công an tỉnh kiểm tra, xác minh các dấu hiệu sai phạm của Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Quảng Ninh trong việc chấp hành pháp luật về đất đai đối với dự án khu dân cư Nam Khê để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

1.1.6. Cử tri Huyện Hoành Bồ kiến nghị: Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Thăng Long tại thôn Đè E, xã Lê Lợi (Chính phủ phê duyệt đầu tư từ năm 2007, do Công ty cổ phần nhiệt điện Thăng Long làm chủ đầu tư). Năm 2009 triển khai giải phóng mặt bằng với tổng diện tích đất chiếm dụng là 124,4 ha, tổng số 46 hộ dân bị ảnh hưởng, trong đó có 36 hộ (Diện tích: 60,2ha) đã được phê duyệt phương án bồi thường, đã chi trả tiền bồi thường cho 27 hộ dân, còn 09 hộ dân đã được phê duyệt phương án bồi thường nhưng chưa chi trả do chủ dự án tạm chưa triển khai dự án. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh làm rõ thời gian bao giờ chủ đầu tư triển khai tiếp dự án; nếu không triển khai nữa cũng đề nghị thông báo rõ để nhân dân được thực hiện các quyền sử dụng đất trên phần diện tích dự kiến thu hồi cho dự án, nhất là với 09 hộ dân đã được phê duyệt phương án bồi thường nhưng chưa chi trả do chủ dự án tạm chưa triển khai dự án.

Ngày 03/3/2009, Uỷ ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 534/QĐ-UBND giao Uỷ ban nhân dân huyện Hoành Bồ thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án xây dựng nhà máy Nhiệt điện Thăng Long tại xã Lê Lợi.

Sau khi có Quyết định, Chủ dự án phối hợp với Uỷ ban nhân dân huyện Hoành Bồ thực hiện, kết quả như sau:

- Khu vực mặt bằng Nhà máy: Có 13 ha đất đã giao cho Công ty NTTS Việt Mỹ (chủ dự án đã thỏa thuận bồi thường xong); còn lại là đất thuộc Uỷ ban nhân dân Xã quản lý và đất đã giao cho Công ty Cổ phần xi măng Thăng Long không phải lập phương án bồi thường.

- Đường vào bãi thải xỉ và bãi thải xỉ: Diện tích thu hồi 553.255,6 m2; có 52 hộ gia đình cá nhân bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng, cụ thể:

+ Có 10 hộ dân chưa lập được phương án bồi thường do liên quan vướng mắc về cây hoa trồng, vật kiến trúc bị lập biên bản.

+ Đã lập 65 phương án phê duyệt 65 phương án bồi thường cho 42 hộ:

1) 31/42 hộ đã nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng.

2) 11/42 hộ được mời đến nhận tiền nhưng không đến nhận tiền với lý do giá đền bù thấp. Sau một thời gian, các hộ dân lại đồng ý nhận tiền đền bù thì do tình hình tài chính khó khăn, Chủ đầu tư chưa chuẩn bị được tài chính để tri trả. Ủy ban nhân dân huyện Hoành Bồ đã thông báo các kiến nghị của các hộ dân đến Chủ đầu tư và Chủ đầu tư cam kết sẽ chuyển số tiền đền bù để Uỷ ban nhân dân huyện Hoành Bồ chi trả cho các hộ dân.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và ngày 26/9/2013, Sở Tài nguyên và Môi trường cùng các ngành và Uỷ ban nhân dân huyện Hoành Bồ đã làm việc với Công ty Cổ phần Nhiệt điện Thăng Long, tại cuộc họp, chủ dự án đã cam kết bố trí đủ nguồn vốn để giải quyết dứt điểm công tác bồi thường GPMB dự án trong năm 2013. Và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 5337/UBND-QLĐĐ ngày 02/10/2013 chỉ đạo:

- Giao Ủy ban nhân dân huyện Hoành Bồ phối hợp với Công ty cổ phần nhiệt điện Thăng Long khẩn trương rà soát, lập và phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ cho các hộ dân còn lại theo quy định hiện hành để hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng xong trong năm 2013.

- Công ty cổ phần nhiệt điện Thăng Long có trách nhiệm chuyển tiền cho Ủy ban nhân dân huyện Hoành Bồ để chi trả cho các hộ dân theo phương án, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt.

Hiện nay, Uỷ ban nhân dân huyện Hoành Bồ đã chỉ đạo lập và phê duyệt phương án bồi thường cho 11 hộ dân theo đơn giá chính sách 2013 với tổng số tiền 2,938 tỷ đồng và đang chỉ đạo kiểm tra rà soát, lập phương án bồi thường hỗ trợ đối với 10 hộ dân còn lại để giải quyết dứt điểm xong trước ngày 31/12/2013.

1.2.Về lĩnh vực tài nguyên và môi trường

1.2.1. Cử tri các địa phương: Cẩm Phả, Đông Triều đề nghị các cơ quan chức năng của Tỉnh kiểm tra hoạt động đối với một số cơ sở gây ô nhiễm môi trường:

- Hệ thống băng tải đá của Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm Phả khi hoạt động gây tiếng ồn quá mức cho phép;

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và ngày 14/8/2013, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả (Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân phường Quang Hanh), đại diện các tổ dân khu phố 2, 3, 3A, 5 phường Quang hanh và Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm Phả tổ chức kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với hoạt động của hệ thống băng tải đá. Kết quả cho thấy việc phản ánh của cử tri là có cơ sở. Tiếp thu phản ánh của cử tri, Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm Phả đã thực hiện các biện pháp: Lót đáy tuyến băng bằng tôn 6mm đối với các đoạn băng sát khu dân cư; bọc tôn lạnh xung quanh nhà bao che tuyến băng; bố trí một tổ 03 người thường xuyên kiểm tra dọc toàn bộ hệ thống băng tải; thay thế kịp thời các rulo đã cũ, gây ồn lớn...

Đoàn kiểm tra đã yêu cầu Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm Phả tiếp tục duy trì thường xuyên các biện pháp kiểm tra, thay thế kịp thời các rulo bị dơ, rão, hư hỏng; khi tổ chức quan trắc môi trường định kỳ (3 tháng/lần) và khi kiểm tra sửa chữa lớn toàn tuyến băng tải (6 tháng/lần), yêu cầu Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm phả thông báo cho Uỷ ban nhân dân phường Quang Hanh biết và cử đại diện giám sát.

- Việc hoàn nguyên môi trường khu vực mỏ Cao lanh Đức Sơn (xã Yên Đức, huyện Đông triều) của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xuất nhập khẩu Quảng Ninh triển khai thực hiện;

Nội dung phản ánh của cử tri đã được Sở Tài nguyên và Môi trường làm việc và yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư và Xuất nhập khẩu Quảng Ninh làm thủ tục đóng cửa mỏ, cải tạo phục hồi môi trường khu vực mỏ Cao lanh Đức Sơn trình Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, giải quyết theo quy định; sau đó tiến hành cải tạo, phục hồi môi trường đóng cửa mỏ theo nội dung Đề án đóng cửa mỏ được Bộ Tài nguyên và Môi trường được phê duyệt và bàn giao mặt bằng lại cho địa phương quản lý.

Đến nay, hồ sơ đóng cửa mỏ nêu trên của Công ty chưa được Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, phê duyệt.

Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có văn bản số 5700/UBND-MT ngày 21/10/2013 yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường đôn đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xuất nhập khẩu Quảng Ninh bám sát các cơ quan của Bộ Tài nguyên và Môi trường để sớm được phê duyệt Đề án Đóng cửa mỏ Cao lanh Đức Sơn, xã Yên Đức, huyện Đông Triều.



- Tiến độ cải tạo, khắc phục ô nhiễm nguồn nước tại một số hồ phía đông bắc của huyện Đông Triều để phục vụ sản xuất (hồ Khe Ươn 1, Khe Ươn 2, Cầu Cuốn...) của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam.

Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và ngày 15/8/2013, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức kiểm tra thực tế hiện trường; kết quả kiểm tra cho thấy Dự án "Cải tạo môi trường, cảnh quan khu vực các hồ Cầu Cuốn, Nội Hoàng Khe Ươn-huyện Đông Triều-tỉnh Quảng Ninh" của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam giao Công ty TNHH 1TV Môi trường-Vinacomin thực hiện đã hoàn thành và bàn giao cho địa phương quản lý.



1.2.2. Cử tri thành phố Móng Cái, Đầm Hà đề nghị:

- Tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng, Đoàn kinh tế Quốc phòng 42 thuộc Đoàn 327 hoàn thiện hồ sơ, bản đồ giao đất rừng trên địa bàn xã Bắc Sơn để Uỷ ban nhân dân thành phố Móng Cái thực hiện việc cấp GCNQSD đất lâm nghiệp cho nhân dân khi thực hiện chuyển giao cho người dân địa phương quản lý.

Hiện nay, Đoàn Kinh tế quốc phòng 327 đang làm việc với Uỷ ban nhân dân thành phố Móng Cái để thống nhất về diện tích các khu đất trả lại cho địa phương quản lý. Sau khi có kết quả làm việc chính thức, yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố Móng Cái trình Uỷ ban nhân dân tỉnh (qua Sở Tài nguyên và Môi trường) xem xét quyết định giao đất cho Đoàn 327. Phần diện tích đất còn lại, Uỷ ban nhân dân thành phố Móng Cái chỉ đạo xây dựng phương án giao đất cho các hộ gia đình nêu trên.



- Có giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hơn 100 trường hợp hộ gia đình cá nhân đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đầm Hà quyết định cho thuê đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản nhưng không thể ký hợp đồng, nộp tiền thuê đất do vướng mắc về thủ tục (Điều 12 Quyết định số 2381/2012/QĐ-UBND ngày 19/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh phải có Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, nhưng theo quy định của Luật Đất đai khi cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất chỉ xét tính phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện mà không cần phải xét đến Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết do cấp tỉnh phê duyệt).

Nội dung này Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2183/QĐĐC-UBND ngày 26/8/2013 về việc sửa đổi Điểm a Khoản 1 Điều 12 Quyết định số 2381/2012/QĐ-UBND. Cụ thể sửa đổi lại như sau: “Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết được được cấp có thẩm quyền phê duyệt (nếu có)”.

Yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện Đầm Hà và các địa phương đang vướng mắc nội dung trên xem xét giải quyết cho các hộ dân theo quy định.

1.2.3. Hiện nay trên địa bàn Thành phố Cẩm Phả có rất nhiều trạm bán xăng, dầu, trong đó có một số bể chứa xăng, dầu, vị trí rất gần nhà dân nên có nguy cơ cháy nổ mất an toàn cho các hộ dân sinh sống gần khu vực này. Đề nghị các ngành chức năng của Tỉnh kiểm tra, có biện pháp đảm bảo an toàn cho cuộc sống và sinh hoạt của nhân dân (kiến nghị của cử tri thành phố Cẩm Phả).

Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn thành phố Cẩm Phả có 24 cửa hàng kinh doanh xăng dầu trên đường bộ, sau khi nhận được kiến nghị của cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng đã tiến hành kiểm tra. Kết quả kiểm tra cho thấy các cửa hàng đều đảm bảo các tiêu chí theo quy định, trong đó:

- Có 22/24 cửa hàng nằm trong quy hoạch theo Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh “Về việc phê duyệt Quy hoạch cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2020”; 02 cửa hàng trong diện phải di chuyển (Cửa hàng Xăng dầu phường Cẩm Tây và Cửa hàng Xăng dầu phường Mông Dương) .

- 24/24 cửa hàng có khoảng cách từ mép bể chứa và tâm cột bơm đến nhà dân được đảm bảo theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu theo QCVN 07:2010/BXD, QCVN 01: 2013/BCT. Tại thành phố Cẩm Phả không có cửa hàng xăng dầu gần các công trình công cộng (trường học, bệnh viện, chợ…). Trong đó có 22 cửa hàng có tường bao quanh, cao trên 2,2m, xây bằng vật liệu chống cháy, góp phần tăng cường đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ đối với các công trình lân cận; 02 cửa hàng chưa có tường bao kín (Cửa hàng Xăng dầu Cẩm Trung và Cửa hàng Xăng dầu Mông Dương).

Trong đó:

+ Với Cửa hàng Xăng dầu Mông Dương (thuộc Công ty TNHH 1TV Vật tư vận tải và xếp dỡ-Vinacomin): Dự kiến cửa hàng hoạt động đến hết năm 2013 (đầu năm 2014 sẽ chuyển sang địa điểm kinh doanh mới đã xây dựng xong, đang hoàn thiện).

+ Với cửa hàng xăng dầu Cẩm Tây (thuộc Công ty TNHH 1TV Vật tư vận tải và xếp dỡ-Vinacomin): Hiện nay Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam có công văn không thực hiện dự án tại khu vực.

+ Với Cửa hàng xăng dầu Cẩm Trung (thuộc Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ Du lịch Cẩm Phả): Để tăng cường hơn nữa công tác đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy, Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả đã yêu cầu Công ty triển khai xây dựng ngay tường chắn bao quanh cửa hàng.

Để tăng tính chủ động cho các địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 250/QĐ-UBND ngày 24/01/2013 về việc phân cấp, ủy quyền cho Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định đầu tư các dự án xây dựng cửa hàng xăng dầu trên địa bàn, đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo về nội dung, cụ thể:

+ Văn bản số 4075/UBND-QH3 ngày 02/8/2013 yêu cầu Uỷ ban nhân dân các địa phương trong tỉnh chủ động tiến hành rà soát các địa điểm kinh doanh xăng dầu, đảm bảo phù hợp với quy hoạch chung xây dựng của địa phương và các quy định về đầu tư xây dựng, kinh doanh xăng dầu, có văn bản báo cáo Sở Công Thương tổng hợp; trên cơ sở đó, Sở Công Thương chủ trì cùng các sở ngành liên quan rà soát, tham mưu, đề xuất Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét điều chỉnh tổng thể Quy hoạch hệ thống cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

+ Văn bản số 4743/UBND-TM1 ngày 09/9/2013 yêu cầu Sở Công Thương và các ngành chức năng, địa phương thực hiện nghiêm Quy hoạch cửa hàng bán lẻ, kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2020 được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010; công bố công khai để nhân dân rõ thời gian, lộ trình di chuyển các cửa hàng xăng dầu. Tăng cường kiểm tra, rà soát, đôn đốc việc di chuyển các cửa hàng đảm bảo đúng lộ trình theo quy định và đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ đối với các cửa hàng xăng dầu; Việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh tổng thể quy hoạch hệ thống các cửa hàng bán lẻ xăng dầu thực hiện theo chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh tại công văn số 4075/UBND-QH3.

+ Văn bản số 5058/UBND-TM1 ngày 23/9/2013 gửi các sở ngành, địa phương và các doanh nghiệp có cửa hàng xăng dầu thuộc diện phải di chuyển thực hiện di chuyển các cửa hàng xăng dầu trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 2913/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Căn cứ Quyết định số 250/QĐ-UBND ngày 24/01/2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố Cẩm Phả và các địa phương có cửa hàng xăng dầu chỉ đạo các phòng, ban chức năng thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân kinh doanh xăng dầu thực hiện nghiêm các điều kiện trong kinh doanh, đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ và giải quyết kiến nghị của cử tri theo quy định.

1.3. Về chế độ chính sách, cải cách thủ tục hành chính

1.3.1. Về Chương trình Nông thôn mới: Cử tri các địa phương: Tiên Yên, Đông Triều, Đầm Hà, Hoành Bồ đề nghị Ban Xây dựng nông thôn mới Tỉnh :

- Bổ sung nội dung "Hỗ trợ công tác lập quy hoạch các khu nghĩa trang nhân dân" vào Hướng dẫn số 95/BXDNTM-KTTH, ngày 04/3/2013;

Theo báo cáo của Ban Xây dựng nông thôn mới:

Trong năm 2011, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phân bổ hỗ trợ các xã thuộc Chương trình Xây dựng Nông thôn mới 500 triệu đồng để các xã thực hiện quy hoạch nông thôn mới và quy hoạch chi tiết khác (nếu có). Theo tinh thần chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, công tác quy hoạch nông thôn mới phải hoàn thành trong năm 2011 và rà soát hoàn chỉnh trong năm 2012; do vậy trong Hướng dẫn 95/BXDNTM-KHTH ngày 4/3/2013 của Ban Xây dựng nông thôn mới không có nội dung hỗ trợ công tác lập quy hoạch các khu nghĩa trang nhân dân.

- Điều chỉnh tiêu chí tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế theo tiêu chí xã nông thôn mới vì hiện nay Trung ương quy định là 70%, tỉnh quy định lớn hơn hoặc bằng 85%, tiêu chí này quá cao, khó thực hiện;

Nội dung thực hiện theo quy định tại Quyết định số 1111/QĐ-UBND ngày 2/5/2012 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc ban hành tạm thời các tiêu chí nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh. Một số tiêu chí cao hơn của Trung ương (có tiêu chí tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế) là căn cứ đặc thù của tỉnh và hiện nay, trên địa bàn tỉnh đạt 76,6%; trong quá trình xây dựng, nội dung đã được các ngành và các địa phương trong tỉnh tham gia ý kiến. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, nếu đa số các địa phương phản ánh có vướng mắc, tỉnh sẽ xem xét điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn.



- Có cơ chế đặc thù hỗ trợ cho các xã vùng 135 thực hiện kiên cố hóa công trình đường ngõ xóm, liên thôn trong chương trình nông thôn mới (theo Quyết định 301/QĐ-UBND ngày 29/01/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì nhà nước chỉ hỗ trợ các vật liệu chính như: xi măng, đá dăm, gạch và một số vật liệu khác để xây dựng các công trình đường giao thông thôn, xóm (tương đương 25% giá trị công trình) đối với các xã vùng 135 là rất khó thực hiện).

Thực hiện Chương trình hỗ trợ vật liệu xây dựng để nhân dân triển khai các công trình hạ tầng nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 301/QĐ-UBND ngày 29/1/2013 về việc Ban hành quy định hỗ trợ vật liệu xây dựng đầu tư một số công trình hạ tầng kỹ thuật nông thôn phục vụ Chương trình Xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2013-2015; theo đó Ngân sách hỗ trợ tiền mua vật liệu xây dựng chính (xi măng, đá dăm, gạch) để nhân dân đóng góp, hiến đất, tổ chức xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn có quy mô nhỏ (dưới 3 tỷ đồng). Đến nay, kết quả triển khai quyết định bước đầu có kết quả tốt, nhân dân các địa phương hưởng ứng thực hiện.

Trên cơ sở ý kiến kiến nghị của các cử tri, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và Ban Xây dựng nông thôn mới đang chủ trì cùng các địa phương báo cáo kết quả triển khai, chính sách, những khó khăn vướng mắc và đề xuất hướng giải quyết. Hiện nay Ban Xây dựng nông thôn mới đang chủ trì xây dựng phương án điều chỉnh Quyết định số 301/QĐ-UBND ngày 29/1/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo hướng: “Đối với các xã khó khăn, đặc biệt khó khăn: Giao Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định hỗ trợ thêm các vật liệu khác (như cát, sắt thép, vật liệu làm nền đường…), hỗ trợ thuê máy thi công mặt, nền đường. Đối với các địa phương khai thác được vật liệu tại chỗ thì không hỗ trợ loại vật liệu đó thực hiện đầu tư xây dựng công trình”. Dự kiến Ban Xây dựng nông thôn mới trình tháng 11/2013.

1.3.2. Đề nghị tỉnh:

- Xem xét hỗ trợ theo khung số lượng và mức hỗ trợ con giống thả nuôi bị thiệt hại đối với các tổ chức, cá nhân nuôi tù hài bị thiệt hại đã có hồ sơ theo nội dung đề nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh tại Báo cáo số 74/BC-UBND ngày 19/6/2013 của Uỷ ban nhân dân huyện Vân Đồn (kiến nghị của cử tri huyện Vân Đồn).

Năm 2012 trên địa bàn tỉnh (tập trung chủ yếu ở huyện Vân Đồn) xảy ra dịch bệnh hàng loạt đối với tù hài nuôi do ký sinh Perkinsus Spp gây ra, làm ảnh hưởng đối với các hộ gia đình và các tổ chức kinh tế.

Để chia sẻ khó khăn, tạo điều kiện cho các hộ gia đình và tổ chức kinh tế nuôi tù hài bị thiệt hại có điều kiện khôi phục sản xuất; ngày 14/9/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2322/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ giống tu hài nuôi bị thiệt hại. Theo đó, hỗ trợ theo 2 mức là 100 đồng và 200 đồng/con giống bị thiệt hại (tuỳ theo đối tượng và mức độ thiệt hại); hồ sơ hỗ trợ phải có hóa đơn chứng từ mua bán giống hợp pháp, hợp lệ hoặc giấy kiểm dịch giống thủy sản của cơ quan có thẩm quyền (đối với trường hợp tự sản xuất giống để nuôi).

Tuy nhiên, qua thẩm tra, xác minh hồ sơ để làm cơ sở hỗ trợ của các tổ chức, hộ gia đình đều không đảm bảo theo quy định (hầu hết chứng từ đều là giả mạo, không có thực). Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân huyện Vân Đồn, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là người dân khi mua hàng hóa không lấy hóa đơn; mặt khác người nuôi mua bán giống trôi nổi trên thị trường (chủ yếu là giống nhập), không kiểm soát được số lượng, dịch bệnh, nguồn gốc con giống; khi nhà nước có chính sách hỗ trợ thiệt hại thì tổ chức, hộ gia đình đã hợp thức hóa bằng việc tự lập thủ tục hoàn tất hồ sơ, hoá đơn chứng từ để được hỗ trợ (xin hóa đơn về tự viết, hóa đơn của các doanh nghiệp đã giải thể…), vi phạm quy định của pháp luật về sử dụng hoá đơn, chứng từ trong mua bán.

Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục giao Sở Tài chính và Uỷ ban nhân dân huyện Vân Đồn tiếp tục nghiên cứu hướng triển khai thực hiện Quyết định số 2322/QĐ-UBND ngày 14/9/2012 của Uỷ ban nhân dân tỉnh để giải quyết khó khăn cho người dân đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.

- Đề nghị các Ngân hàng trên địa bàn thúc đẩy công tác cho vay vốn đối với cá nhân, hộ gia đình, trang trại, HTX theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ và Quyết định 2009/QĐ-UBND ngày 13/8/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc hỗ trợ lãi suất đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2012- 2015; đồng thời, mở rộng thêm đối tượng là các “gia trại”;

Để thúc đẩy việc thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2009/QĐ-UBND ngày 13/8/2013.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tỉnh Quảng Ninh và Ban Xây dựng nông thôn mới:

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn tuyên truyền, đăng ký tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 2009/QĐ-UBND; Ban Xây dựng nông thôn mới phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước đưa nội dung Quyết định số 2009/QĐ-UBND phổ biến cho 08 lớp tập huấn đối tượng cán bộ xây dựng nông thôn mới cấp huyện, xã, thôn, hợp tác xã, chủ trang trại... trên địa bàn toàn tỉnh; phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ninh tổ chức khảo sát việc thực hiện Quyết định số 2009/QĐ-UBND tại các huyện Vân Đồn, Hoành Bồ, thị xã Quảng Yên, thành phố Uông Bí; tổ chức hướng dẫn kiểm tra việc cho vay của các ngân hàng phát triển; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ninh phối hợp với Cổng Thông tin điện tử Tỉnh công bố lãi suất cho vay làm cơ sở để hỗ trợ lãi suất từ tháng 9/2012. Hiện có 10 chi nhánh ngân hàng thương mại đăng ký tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 2009/QĐ-UBND.

Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ và Quyết định số 2009/QĐ-UBND ngày 13/8/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng còn nhiều khó khăn, do “Tổ chức tín dụng được xem xét cho khách hàng vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản”, phụ thuộc vào tính khả thi của từng dự án và yêu cầu quản lý nguồn vốn cho vay.

- Cấp kinh phí hỗ trợ tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao năm 2013 cho các xã có Nhà văn hóa cấp thôn theo Quyết định số 42/2013/QĐ-UBND ngày 08 /01/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh và có hiệu lực từ ngày 18/01/2013 (kiến nghị của cử tri huyện Đầm Hà, Hải Hà).

Ngày 08/01/2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 42/2013//QĐ-UBND "Về một số mục tiêu, giải pháp cơ bản tăng cường quản lý và phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá thể thao trên địa bàn Tỉnh giai đoạn 2013 -2015"; Theo đó, có quy định hỗ trợ kinh phí tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao cho các nhà văn hoá thôn, khu phố như sau:

+ Đối với nhà văn hoá thôn ở các xã thuộc vùng khó khăn: Mức 8 triệu đồng/nhà văn hoá/năm;

+ Đối với nhà văn hoá thôn ở các xã còn lại: Mức 6 triệu đồng/nhà văn hoá/năm;

+ Đối với nhà văn hoá khu phố ở các phường, thị trấn: Mức 3 triệu đồng/nhà văn hoá/năm.

Quyết định trên của Uỷ ban nhân dân tỉnh được ban hành sau thời điểm giao dự toán ngân sách cho các địa phương năm 2013; do vậy, kinh phí hỗ trợ theo quy định chưa được tính toán cân đối giao trong dự toán ngân sách 2013 cho các địa phương. Sở Tài chính đã có văn bản số 3005/STC-KHNS1 ngày 30/7/2013 đề nghị các địa phương (trong đó có huyện Đầm Hà) trước mắt chủ động sử dụng các nguồn kinh phí của địa phương để thực hiện; đồng thời tổng hợp nhu cầu kinh phí hỗ trợ năm 2013 về Sở Tài chính để thẩm định, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, cấp bổ sung kinh phí cho các địa phương. Từ năm 2014, tỉnh sẽ cân đối giao ngay trong dự toán đầu năm để các địa phương chủ động thực hiện hỗ trợ cho các nhà văn hoá thôn, khu phố theo quy định.



1.3.3. Đề nghị cơ quan Bảo hiểm chỉ đạo việc cấp mới và đổi thẻ bảo hiểm y tế kịp thời, đồng thời có biện pháp linh hoạt để các đối tượng chính sách (người dân tộc thiểu số) được hưởng chế độ bảo hiểm y tế trong thời gian chờ cấp mới, cấp đổi thẻ bảo hiểm y tế, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân (kiến nghị của cử tri huyện Tiên yên).

Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội tỉnh, theo quy định việc cấp mới và đổi thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 1111/QĐ-BHXH ngày 25/10/2011 của Tổng Giám Đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế; Hướng dẫn liên ngành số 4960/HD-LN ngày 30/11/2009 của Liên ngành: Sở Y tế, Bảo hiểm xã hội, Sở Tài chính, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội. Bảo hiểm xã hội Tỉnh Quảng Ninh, thời gian giải quyết và việc hưởng chế độ trong thời gian chờ cấp mới, cấp lại, đổi thẻ như sau:

1. Đối với cấp mới thẻ Bảo hiểm y tế: Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị cấp thẻ đúng quy định, Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố tiến hành in thẻ thời gian không quá 10 ngày làm việc.

2. Đối với thẻ Bảo hiểm y tế cấp lại, đổi: Thời gian không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định.

3. Đối với việc hưởng chế độ Bảo hiểm y tế trong thời gian chờ cấp mới, cấp lại, đổi thẻ: Bảo hiểm xã hội sẽ thanh toán trực tiếp với người bệnh sau khi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế mới có giá trị sử dụng trùng với thời gian người bệnh đi khám chữa bệnh.

Hiện nay Bảo hiểm xã hội tỉnh đã phân cấp cho 14 huyện, thị xã, thành phố in và phát hành thẻ cho các đối tượng chính sách và các đối tượng khác nên việc cấp thẻ Bảo hiểm y tế mới, cấp lại, đổi thẻ rất thuận lợi khi Bảo hiểm xã hội nhận được đủ hồ sơ theo quy định.



Каталог: vi-VN -> Lists
Lists -> THÔng tư CỦa bộ quốc phòng số 113/2009/tt-bqp ngàY 07 tháng 12 NĂM 2009
Lists -> THÔng tư Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 12/2007/NĐ-cp ngày 17 tháng 01 năm 2007 quy định về công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân
Lists -> UỶ ban nhân dân tỉnh quảng ninh
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh ban chỉ ĐẠo công tác y tế trưỜng họC
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Số: 1216 /QĐ-snv cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 485.23 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương