CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập-Tự do-Hạnh phúc


II. Đơn thư do Đoàn ĐBQH tỉnh chuyển đến



tải về 485.23 Kb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích485.23 Kb.
#16256
1   2   3   4   5   6

II. Đơn thư do Đoàn ĐBQH tỉnh chuyển đến

1. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo kết quả giải quyết các đơn khiếu nại liên quan đến việc thành lập các Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

1.1. Vụ việc khiếu nại của ông Vũ Hoàng Hiệp, trú tại tổ 4, khu Trần Hưng Đạo, phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, khiếu nại Quyết định số 1869/QĐ-UBND ngày 25/7/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc cho phép thành lập văn phòng công chứng Quảng Ninh. Ủy ban nhân dân Tỉnh đã giao Thanh tra Tỉnh căn cứ quy định của pháp luật thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Vũ Hồng Hiệp, báo cáo đề xuất việc giải quyết và dự thảo Quyết định giải quyết trình Ủy ban nhân dân Tỉnh.

Thanh tra tỉnh đã có báo cáo kết luận số 12/BC-TTr ngày 01/3/2013 về việc kết quả xác minh, kết luận và kiến nghị giải quyết khiếu nại của ông Vũ Hồng Hiệp với nội dung kết luận:

Đối với khiếu nại của ông Vũ Hồng Hiệp:

- Khiếu nại Quyết định số 1869/QĐ-UBND ngày 25/7/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc cho phép thành lập Văn phòng công chứng Quảng Ninh. Việc khiếu nại quyết định trên là do Sở Tư pháp không thực hiện đúng một số nội dung công việc, dẫn đến tham mưu sai cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định, cụ thể:

+ Ông Vũ Hồng Hiệp khiếu nại về việc Sở Tư pháp chấm điểm chưa đúng với quy định về tiêu trí trụ sở, an toàn giao thông, công nghệ thông tin; Văn phòng công chứng Quảng Ninh không trung thực; Sở Tư pháp giải quyết khiếu nại của ông Vũ Hồng Hiệp không đúng quy định của Luật khiếu nại, tố cáo là nội dung khiếu nại đúng.

+ Ông Vũ Hồng Hiệp khiếu nại về việc Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành “Quy định tạm thời về xét ưu tiên hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” khác với Dự thảo gửi Bộ Tư pháp; Sở Tư pháp không gửi công văn số 4005/STP-BTTP ngày 06/11/2011 cho các chủ Đề án; Không công khai Quyết định 3092/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kèm theo “Quy định tạm thời xét ưu tiên thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” là nội dung khiếu nại không đúng.

- Nội dung khiếu nại về quy trình xét chấm điểm cho các Đề án của Tổ công tác:

Trong quá trình kiểm tra thực địa, thẩm định hồ sơ, chấm điểm các Đề án, Tổ công tác của Sở Tư pháp thực hiện không đầy đủ, không đúng nội dung Quyết định số 117/QĐ-STP ngày 03/8/2011, Quyết định số 146/QĐ-STP ngày 07/10/2011 của Giám đốc Sở Tư pháp. Đồng thời, cần rút kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận quản lý hồ sơ Đề án theo đúng quy định tại phần II “Quy định tạm thời xét ưu tiên thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” về nguyên tắc lựa chọn ưu tiên, theo đó khi kiểm tra, đánh giá để ưu tiên lựa chọn hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng phải đảm bảo trên nguyên tắc công bằng, khách quan.



Đối với Văn phòng công chứng Quảng Ninh do ông Đặng Văn Minh làm chủ Đề án:

Trong quá trình lập Đề án thành lập Văn phòng công chứng, ông Đặng Văn Minh có hành vi không trung thực thể hiện trong tiêu chí về Thư ký nghiệp vụ, vi phạm Khoản 1 Điều 13 Luật Công chứng/2006/QH11 quy định về Công chứng viên phải có phẩm chất đạo đức tốt và Khoản 2 Điều 3 quy định về nguyên tắc hành nghề công chứng phải khách quan, trung thực.



Đối với Sở Tư pháp:

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, kiểm tra, chấm điểm hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, trình Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định cho phép thành lập, Sở Tư pháp còn có những khuyết điểm, tồn tại như sau:

- Không kiểm tra chặt chẽ kết quả thực hiện nhiệm vụ của Tổ công tác trước khi trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định cho thành lập Văn phòng công chứng được quy định tại Phần II “Quy định tạm thời xét ưu tiên thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.

- Thực hiện chưa đúng quy định của Luật Khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại của ông Vũ Hồng Hiệp.

- Chưa khẩn trương trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng theo quy định.

Trên cơ sở kiến nghị của Thanh tra tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đang xem xét để ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đối với ông Vũ Hồng hiệp theo quy định.

1.2. Vụ của ông Nguyễn Đức Phương, trú tại khu Vĩnh Trung, thị trấn Mạo Khê, huyện Đông Triều, có đơn phản ánh và đề nghị giải quyết hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật của một số cán bộ thuộc Sở Tư pháp Quảng Ninh và Ủy ban nhân dân huyện Đông Triều.

Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh tại văn bản số 4037/UBND-TD ngày 31/7/2013 “V/v giải quyết đơn của ông Nguyễn Đức Phương, Văn phòng công chứng Mạo Khê, huyện Đông Triều”, ngày 19/8/2013, Thanh tra tỉnh đã có buổi làm việc với ông Nguyễn Đức Phương để làm rõ các nội dung tố cáo, khiếu nại, kiến nghị của ông Phương và Văn phòng Công chứng Mạo Khê. Trên cơ sở kết quả làm việc, căn cứ quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo năm 2011, Thanh tra tỉnh đã có văn bản thông báo, trả lời với nội dung cụ thể như sau:

- Về nội dung tố cáo, khiếu nại, kiến nghị

+ Nội dung 1: Ông Mạc Văn Bình (chủ sở hữu nhà, nơi đặt trụ sở Văn phòng công chứng Mạo Khê) đã có hành vi đe dọa giết ông; Đe dọa cản trở hoạt động công chứng của Văn phòng công chứng Mạo Khê (không cho chuyển văn phòng đi nơi khác, nếu chuyển sẽ đến đòi nợ theo hợp đồng và hàng ngày dắt chó Tây đến văn phòng làm công chứng).

+ Nội dung 2: Tố cáo, kiến nghị việc bà Nguyễn Thị Thu Hằng, Trưởng phòng Tư pháp huyện Đông Triều và bà Nguyễn Thị Bích Hải, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn Mạo Khê, huyện Đông Triều lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng, ép buộc Văn phòng công chứng Mạo Khê thông qua việc đòi chia sẻ lợi nhuận (50% lợi nhuận thu được), đưa người nhà vào tham gia quản lý tại Văn phòng công chứng và bắt buộc phải đặt địa điểm tại nhà ông Mạc Văn Bình.

+ Nội dung 3: Khiếu nại Quyết định số 44/QĐ-STP ngày 04/5/2013 của Sở Tư pháp "V/v giải quyết khiếu nại của Văn phòng công chứng Mạo Khê, Địa chỉ: số nhà 54-TT. Mạo Khê-huyện Đông Triều-tỉnh Quảng Ninh”.


  • Căn cứ quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo năm 2011:

+ Đối với nội dung 1: Đề nghị ông Phương đến Công an huyện Đông Triều trình báo sự việc, gửi đơn để được giải quyết theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật.

+ Đối với nội dung 2: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đông Triều đã thụ lý và giải quyết theo thẩm quyền và trả lời tại văn bản số 1086/UBND ngày 21/6/2013 “V/v trả lời đơn đề nghị của Văn phòng công chứng Mạo Khê”, trong đó có gửi cho Văn phòng công chứng Mạo Khê và ông Nguyễn Đức Phương (số nhà 75, phố Phúc Lâm, thị trấn Kinh Môn, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Đề nghị ông liên hệ với Uỷ ban nhân dân huyện Đông Triều để được thông báo, trả lời về kết quả giải quyết theo quy định.

+ Đối với nội dung 3: Đây là nội dung khiếu nại, nằm ngoài nội dung đơn tố cáo, kiến nghị ông Nguyễn Đức Phương, Văn phòng công chứng Mạo Khê đã gửi đến Uỷ ban nhân dân tỉnh. Đề nghị Văn phòng công chứng Mạo Khê gửi đơn đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh để được xem xét giải quyết theo thẩm quyền hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định.

Ông Nguyễn Đức Phương đã nhận được nội dung thông báo này.

Trên cơ sở nội dung đơn mới của ông Nguyễn Đức Phương, ngày 25/10/2013 Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã có văn bản số 5797/UBND-TD giao Thanh tra tỉnh thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Phương và báo cáo đề xuất việc giải quyết với Uỷ ban nhân dân Tỉnh trong tháng 11/2013.

2. Các khiếu nại về giải phóng mặt bằng đường quốc lộ 18 đi qua địa bàn tỉnh:

Về đơn khiếu nại, tố cáo của công dân 3 địa phương: Hạ Long, Uông Bí, Quảng Yên, liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thi công Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18, đoạn Uông Bí-Hạ Long. Đoàn ĐBQH tỉnh đã có công văn chuyển đơn đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tổ chức kiểm tra, đôn đốc giải quyết đơn thư của công dân.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo kết quả kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại 3 địa phương nêu trên, trong đó có đơn Tố cáo của 78 hộ dân khu Nam Trung, Nam Khê, Uông Bí.

Ngày 14/6/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1503/QĐ-UBND thành lập Đoàn kiểm tra đôn đốc việc giải quyết KNTC, kiến nghị của công dân, Đoàn kiểm tra đã triển khai nhiệm vụ tại 03 địa phương là thành phố Uông Bí, thị xã Quảng Yên và thành phố Hạ Long.

Theo báo cáo của 03 địa phương thì trong quá trình bồi thường GPMB dự án nâng cấp, mở rộng đường 18 đoạn tuyến Uông Bí-Hạ Long, các địa phương đã tiếp nhận tổng số đơn thư của 572 hộ dân đề nghị được xem xét giải quyết (thành phố Uông Bí 346 đơn, thị xã Quảng Yên 116 đơn và thành phố Hạ Long 110 đơn).

- Các cấp chính quyền địa phương ban hành văn bản trả lời được 336/572 hộ có đơn không còn khiếu kiện, chiếm 58,2%; (Uông bí 178 đơn, Quảng Yên 88 đơn, Hạ Long 70 đơn).

- Số hộ dân đã được Uỷ ban nhân dân phường, Uỷ ban nhân dân thành phố và thị xã đối thoại, giải quyết nhưng chưa đồng ý, tiếp tục kiến nghị, khiếu nại: 77/572 hộ có đơn, chiếm 13,4% (Uông bí 52 đơn, Quảng Yên 9 đơn, Hạ Long 16 đơn)

- Số đơn địa phương chưa ban hành văn bản trả lời là 116/572 hộ có đơn, chiếm 20% (Uông Bí 116 đơn, Quảng Yên 16 đơn).



2.1. Việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư tại các địa phương

a. Thành phố Uông Bí:

- Đã tiếp nhận 346 đơn thư của tổ chức và công dân (trong đó có 345 đơn kiến nghị, phản ánh, 01 đơn khiếu nại) đề nghị được xem xét giải quyết, chủ yếu gồm các nhóm việc sau:

+ Đơn giá bồi thường, hỗ trợ đất thấp, không đảm bảo khách quan, công bằng;

+ Đề nghị được bồi thường đất và vật kiến trúc (theo quy định không được bồi thường do lấn, chiếm hoặc xây dựng công trình trái phép đã bị xử phạt vi phạm hành chính);

+ Đề nghị bồi thường đất hành lang đường là đất ở;

+ Người nhận chuyển nhượng nhưng khi cấp GCNQSDĐ không thể hiện phần diện tích đất nằm trong hành lang an toàn giao thông, nay yêu cầu bồi thường là đất ở hoặc đất vườn liền kề đất ở (theo công văn số 6389/UBND-QLĐĐ1 ngày 20/12/2012 của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì được bồi thường là đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường);

+ Đề nghị bồi thường đất nằm trong hành lang an toàn giao thông (chưa xuất trình được hồ sơ GPMB trước đây);

+ Đề nghị bồi thường đất nằm trong hành lang an toàn giao thông chưa được bồi thường năm 1996-2000;

+ Mép đường cách tường nhà dân 2,0m, cách ban công 0,4m, không đảm bảo an toàn;

+ Giá đất ở để bồi thường, hỗ trợ chưa phù hợp với các hộ lân cận;

+ Bồi thường đất hành lang là đất ở (không đồng ý bồi thường đất vườn) vì gia đình ở trước ngày 18/12/1980;

- Thành phố đã giải quyết và thông qua vận động rút đơn được 178/346 đơn không còn khiếu kiện, chiếm 51 %.

- Số hộ dân đã được các cấp chính quyền thành phố đối thoại, giải quyết nhưng chưa đồng ý, tiếp tục kiến nghị khiếu nại 52/346 hộ dân, chiếm 15% gồm: 38 đơn kiến nghị bồi thường về đất hành lang giao thông, 04 đơn kiến nghị cho di chuyển chỗ ở để đảm bảo ATGT, 01 đơn kiến nghị bồi thường đất hành lang nhận chuyển nhượng, 01 đơn kiến nghị xác định lại nguồn gốc đất, 05 đơn kiến nghị đơn giá bồi thường đất, 03 đơn kiến nghị hỗ trợ tôn tạo đất trong hành lang ATGT.

- Số lượng đơn chưa ban hành văn bản trả lời là 116/346 đơn, chiếm 33,53%, nguyên nhân là phần lớn các hộ dân có đơn kiến nghị về đất nằm trong hành lang ATGT nên Uỷ ban nhân dân phường, Uỷ ban nhân dân thành phố chưa trả lời được do thiếu Bản đồ tuyến giải phóng mặt bằng Quốc lộ 18 năm 1996-2000 (Sở Giao thông Vận tải cung cấp còn thiếu).

b. Thị xã Quảng Yên:

Đã tiếp nhận 116 đơn thư của công dân đề nghị được xem xét giải quyết, chủ yếu gồm các nhóm việc sau:

+ Người nhận chuyển nhượng nhưng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần diện tích đất nằm trong hành lang an toàn giao thông nay đòi bồi thường là đất ở hoặc đất vườn ao (theo văn bản 6389/UBND-QLĐĐ1 ngày 20/12/2012 của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì bồi thường là đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường);

+ Một số hộ đề nghị được bồi thường đất theo hiện trạng (bao gồm cả đất sử dụng hợp pháp và đất đã được bồi thường năm 1996- 2000):

+ Một số hộ không trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp đề nghị bồi thường đất nông nghiệp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo Điều 50 Luật Đất đai;

+ Một số hộ sử dụng đất nông nghiệp nhưng đã tự ý xây dựng nhà ở nay đòi bồi thường là đất ở (sử dụng đất sai mục đích);

+ Một số kiến nghị về hạn mức đất ở trung bình để tính hỗ trợ đất nông nghiệp trong địa giới hành chính, phường Minh Thành 160m2, phường Đại Yên 250m2.

- Các cấp chính quyền thị xã đã ban hành văn bản trả lời giải quyết được 88/116 đơn bước đầu không còn khiếu kiện, chiếm 75%.

- Số hộ dân đã được Uỷ ban nhân dân phường và thị xã đối thoại, giải quyết nhưng chưa đồng ý, tiếp tục kiến nghị khiếu nại 9//116 hộ dân, chiếm 8%.

- Số lượng đơn chưa ban hành văn bản trả lời là 7/116 đơn, chiếm 6% .

c. Thành phố Hạ Long:

Đã tiếp nhận đơn thư của 110 hộ dân (trong đó có 1 đơn tập thể của 16 hộ tại phường Hà Khẩu do Trung tâm bảo vệ rừng số 1 giao đất từ năm 1991 thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền) đề nghị được xem xét giải quyết, chủ yếu gồm các nhóm việc sau:

+ 14 đơn kiến nghị liên quan đến bồi thường, hỗ trợ bố trí tái định cư.

+ 18 đơn kiến nghị liên quan đến bồi thường đất hành lang giao thông.

+ 15 đơn kiến nghị liên quan đến bồi thường về chênh cốt giữa đường và nhà ở.

+ 19 đơn kiến nghi, khiếu nại Liên quan đến việc kiểm đếm tài sản trên đất còn thiếu về khối lượng, xác định loại đất không đúng để tính bồi thường, yêu cầu gộp thửa, đề nghị giải quyết tranh chấp đất.

+ 02 đơn đề nghị được xem xét việc dự án lấy đất đến sát nhà gây mất an toàn cho người sử dụng đất.

+ 42 đơn liên quan đến bồi thường công trình ngoài mốc GPMB.

Qua kiểm tra cho thấy, trong quá trình tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, kiến nghị. Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã có các văn bản chỉ đạo và trực tiếp nghe, giải quyết các nội dung kiến nghị, khiếu nại của các hộ dân (trong đó có 07 cuộc họp tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân các phường và nhiều lần tại hiện trường). Riêng các phòng, ban, đơn vị, đặc biệt là Lãnh đạo và cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất Thành phố và Uỷ ban nhân dân các phường đã tổ chức 116 buổi đối thoại trực tiếp giải quyết kiến nghị của các hộ dân tại trụ sở và tại hiện trường.

Tại thời điểm Đoàn kiểm tra đôn đốc kết quả như sau:

- Các cấp chính quyền thành phố thông qua vận động, ban hành văn bản trả lời, giải quyết đơn của các hộ dân được 70/110 không còn khiếu kiện,chiếm 64%.

- Số đơn của các hộ dân đang được thành phố xem xét giải quyết: 24/110, chiếm 22% (trong đó: 18 đơn kiến nghị về đất nằm trong hành lang ATGT nay không bồi thường các công trình phụ, hoặc các công trình phụ trợ tách rời với công trình nhà chính mà phải phá dỡ nằm ngoài mốc GPMB dự án; 01 đơn kiến nghị cho di chuyển chỗ ở để đảm bảo ATGT; 01 đơn kiến nghị về chênh cos; 04 đơn kiến nghị về xác định lại nguồn gốc đất).

- Số đơn của các hộ dân đã được Uỷ ban nhân dân phường và thành phố đối thoại, giải quyết nhưng chưa đồng ý, tiếp tục kiến nghị khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân thành phố 16/110, chiếm 14% gồm: 03 đơn kiến nghị bồi thường về đất giao thông, 03 đơn kiến nghị bồi thường ngoài bản đồ địa chính, 01 đơn kiến nghị về bồi thường chênh cos, 01 đơn đề nghị thu hồi hết đất nông nghiệp do không đủ diện tích đất canh tác, 01 đơn yêu cầu gộp nhiều thửa đất làm 1 thửa, 01 đơn yêu cầu xin giải quyết tranh chấp đất và 06 đơn chưa đồng ý về phương án bồi thường.



Đánh giá chung qua kết quả kiểm tra đôn đốc :

a. Ưu điểm:

-Cả 03 địa phương đã có nhiều cố gắng trong thực hiện công tác bồi thương GPMB, giải quyết đơn thư của công dân trong điều kiện tài liệu thiếu, phân tán ( bản đồ hiện trạng GPMB tuyến đường 18 năm 1996-2000; hồ sơ hoàn công kênh N1) tiến độ yêu cầu phải khẩn trương.

- Các địa phương đã chủ động phối hợp với các Sở, ngành, đặc biệt là tranh thủ sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh để kịp thời tháo gỡ một số vướng mắc phát sinh trong quá trình bồi thường GPMB. Đến nay công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đã cơ bản hoàn thành. Đến thời điểm 31/7/2013 toàn bộ chiều dài tuyến Uông Bí- Hạ Long cơ bản đã tổ chức bồi thường GPMB xong và đảm bảo bàn giao mặt bằng theo yêu cầu của Chủ đầu tư.

b. Tồn tại:

- Công tác khảo sát bồi thường giải phóng mặt bằng còn hạn chế dẫn đến tiến độ giải phóng mặt bằng kéo dài thêm (khi thực hiện bồi thường GPMB số hộ dân bị ảnh hưởng phải thu hồi lớn hơn nhiều so với khảo sát ban đầu);

- Năng lực một số cán bộ Phòng, ban, phường của thành phố, thị xã làm công tác giải phóng mặt bằng còn hạn chế đẫn đến việc lập phương án bồi thường, phê duyệt phương án chưa chính xác, phải thu hồi, điều chỉnh lại phương án bồi thường làm cho một bộ phận nhân dân băn khoăn, dẫn đến phát sinh khiếu kiện (tính đến ngày 31/7/2013, các địa phương đã ban hành quyết định thu hồi, giảm chi đối với các phương án lập chưa chính xác với số tiền 24,123 tỷ đồng, trong đó: TP Uông Bí 9,569 tỷ đồng, TX Quảng Yên 1,156 tỷ đồng, TP Hạ Long 13,389 tỷ đồng);

- Một số hộ dân ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt, chưa chấp nhận phương án bồi thường, đòi hỏi quyền lợi cao hơn chế độ chính sách, chưa bàn giao mặt bằng, gây áp lực với chính quyền.

Hiện tại Uỷ ban nhân dân Tỉnh đang xem xét nội dung báo cáo của Đoàn Kiểm tra để trên cơ sở đó có ý kiến chỉ đạo, yêu cầu các địa phương tập trung giải quyết một số công việc cụ thể như sau:

- Tiếp tục tuyên truyền, vận động để tạo sự đồng thuận cao trong quần chúng nhân dân ủng hộ thực hiện dự án đúng tiến độ theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh.

- Ban hành các văn bản trả lời, các Quyết định giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền để giải quyết đến tận cùng các đơn khiếu nại, kiến nghị của công dân;

- Chủ động kiểm tra, rà soát các phương án bồi thường GPMB đảm bảo chính xác, đúng quy định không để phát sinh đơn thư khiếu kiện;

- Đối với các hộ dân chưa bàn giao mặt bằng, tiến hành rà soát, giải quyết đến tận cùng kiến nghị của các hộ dân đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật các hộ dân vẫn chưa bàn giao mặt bằng thì tổ chức cưỡng chế theo quy định. Đảm bảo đáp ứng mặt bằng thi công theo đúng yêu cầu của Chủ đầu tư .

- Chủ động phối hợp với Sở Giao thông Vận tải thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc xác định chân đường Quốc lộ 18 giai đoạn 1996-2000, làm cơ sở để bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân trong thời gian sớm nhất.

- Các địa phương phải nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm những tồn tại, thiếu sót trong công tác giải phóng mặt bằng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân liên quan đến GPMB Quốc lộ 18 nêu trên.

3. Các khiếu nại về đất đai

3.1. Vụ việc ông Lê Văn Sỹ và một số hộ dân tổ 79, khu 9, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh: Tố cáo một số cán bộ, đảng viên thuộc phường Cao Thắng và Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để làm trái chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và tổ chức cưỡng chế thu hồi đất của dân trái pháp luật ở Dự án khu tự xây, tái định cư và khu dân cư Bãi Muối phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; không ra quyết định giải quyết khiếu nại... (Công văn số 121/ĐĐBQH-TTDN2 ngày 18/4/2013).

Ngày 08/5/2013, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã ban hành 08 Quyết định giải quyết khiếu nại đối với ông Lê Văn Sỹ và 07 hộ dân tổ 79 khu 9 phường Cao Thắng, với nội dung: Không chấp nhận khiếu nại của các hộ dân, công dân không đồng ý và tiếp khiếu lên Ủy ban nhân dân tỉnh.

Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã giao Sở Tài nguyên & Môi trường thẩm tra xác minh vụ việc và đã có báo cáo kết quả xác minh, hiện nay Ủy ban nhân dân tỉnh đang xem xét ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại cho các hộ dân theo quy định.

3.2. Vụ việc ông Đồng Xuân Ba (Nhận ủy quyền của ông Đồng Xuân Tuấn, Đồng Xuân Tú) tổ 94, khu Đồn Điền, phường Hà Khẩu, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh: Khiếu nại về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án “Khu đô thị mới Đồn Điền” từ năm 2005 (CV số 118/ĐĐBQH-TTDN2 Ngày 27/7/2012).

- Về tái định cư: Đến nay Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã tiến hành thông báo bắt thăm đất TĐC cho hộ ông Phú và đang hoàn thiện hồ sơ giao đất cho ông Phú theo quy định; 02 hộ (ông Đồng Xuân Phú và Đồng Xuân Tú).

- Về lập phương án bổ sung phần đất: Đã hoàn thiện xong phương án bổ sung về đất với tổng giá trị: 154.228.000đ.

- Về hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm: Sau khi hoàn thiện hồ sơ giao đất TĐC lập phương án bổ sung tiền thuê nhà ở tạm theo chế độ chính sách.



3.3. Vụ việc ông Nguyễn Khắc Hướng cùng 1 số hộ dân khu 2, khu 3, Hà Khẩu, thành phố Hạ Long: Tiếp tục gửi đơn kiến nghị việc Công ty Viglacera không thực hiện Kết luận thanh tra số 1811 của UBTP Hạ Long về thực hiện việc bồi thường khi thu hồi đất thực hiện dự án khu tập thể cán bộ, công nhân viên Công ty.

Ngày 25/6/2013, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã có Văn bản số 2307/UBND báo cáo với nội dung cụ thể như sau:

a. Về nội dung kết luận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông bà Đặng Quang Dự-Ngô Thị Mương, trong đó có 740,0 m2 đất nông nghiệp của HTX An Tiêm (gồm 03 thửa đất nông nghiệp số 592,593,594) và chuyển 60m2 đất nông nghiệp của HTX thành đất ở làm thất thoát 44.760.000 đồng tiền sử dụng đất là chưa đủ cơ sở do có sai lệch về số liệu khi lồng ghép bản đồ giải thửa đất nông nghiệp của HTX An Tiêm được can vẽ lại năm 1991 và bản đồ địa chính xác lập năm 1998. Việc này, Uỷ ban nhân dân Thành phố đang tiếp tục chỉ đạo thu thập bổ sung thêm hồ sơ để làm rõ.

b. Về nội dung kết luận bà Đoàn Thị Hường có hành vi chiếm đất, xây dựng công trình trái phép trên diện tích đất dự kiến làm nhà văn hóa khu 2 phường Hà Khẩu. Ngày 18/7/2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã ban hành quyết định số 1791/QĐ -UBND xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và hoạt động xây dựng đối với bà Đoàn Thị Hường; Ngày 30/5/2013, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 648/QĐ-CC áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1791/QĐ -UBND ngày 18/7/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh. Tuy nhiên, không đồng ý với Quyết định cưỡng chế bà Đoàn Thị Hường đã có đơn khiếu nại. Hiện nay, việc cưỡng chế đang được dừng lại để giải quyết đơn khiếu nại của bà Hường. Sau khi khiếu nại đã được giải quyết xong, Uỷ ban nhân dân thành phố sẽ thực hiệc việc xử lý công trình xây dựng vi phạm của bà Hường theo đúng quy định của pháp luật.

c. Về các nội dung còn lại nêu trong Kết luận số 1811/KL-XMTC ngày 18/6/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố “về việc xác minh đơn tố cáo của công dân”.

Ngày 25/6/2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố đã chuyển nội dung


kết luận nói trên cùng toàn bộ hồ sơ vụ việc sang cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự.

Ngày 27/5/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố đã có


cáo trạng số 144/KSĐT-HS quyết định đưa vụ việc ra truy tố trước Tòa án.

Khi có bản án của Tòa án thì sẽ thực hiện theo bản án có hiệu lực pháp luật.



3.4. Về xác minh đơn tố cáo của 78 hộ dân khu Nam Trung, Nam Khê, Uông Bí:

Sau khi nhận được đơn khiếu nại, tố cáo của các hộ dân, Uỷ ban nhân dân thành phố Uông Bí đã chỉ đạo các phòng, ban chức năng thụ lý xem xét, giải quyết đơn theo đúng quy định.

- Nội dung về việc xét duyệt nguồn gốc đất không đúng thành phần, sai với mục a, khoản 2 điều 55 nghị định 84 của chính phủ... không căn cứ không xem xét theo giấy tờ các hộ dân cung cấp...

Uỷ ban nhân dân phường Nam Khê đã thành lập Hội đồng xét duyệt nguồn gốc đất gồm: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường-Chủ tịch hội đồng; Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường-Phó Chủ tịch hội đồng; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận tổ quốc phường, Chủ tịch Hội Nông dân, Công chức Tư pháp-Hộ tịch, Công chức địa chính-Xây dựng, trưởng Công an phường, các ông khu trưởng khu dân cư làm uỷ viên. Để bảo đảm tính khách quan và kế thừa dự án trước Uỷ ban nhân dân phường mời đồng chí Đinh Công Tĩnh Phó Bí thư Đảng uỷ- Chủ tịch Hội đồng nhân dân (nguyên Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường), đồng chí Mai Văn Bạn Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường, nguyên cán bộ địa chính trực tiếp tham gia công tác giải phóng mặt bằng mở rộng đường 18 giai đoạn năm 1996-2000); ông Trần Cường Phó Chủ tịch Hội Nông Dân (nguyên cán bộ Địa chính xã Nam Khê) và một số cán bộ qua các thời kỳ, lãnh đạo khu dân cư tham gia xét duyệt.

-Nội dung về căn cứ để xét duyệt:

Ngày 02/11/2013, Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân Tỉnh cùng lãnh đạo một số Sở, ngành: Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Thanh tra tỉnh, Văn phòng Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Uỷ ban nhân dân thành phố Uông Bí và Chủ đầu tư đã thống nhất việc giải quyết một số những vướng mắc liên quan đến việc Bồi thường, giải phóng mặt bằng của các hộ dân, trong đó có các hộ dân thuộc phường Nam Khê, thành phố Uông Bí. Cụ thể:

+ Về xác định nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và loại đất để đền bù, giải phóng mặt bằng: nội dung này thuộc trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân thành phố Uông Bí và dựa trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban nhân dân thành phố Uông Bí tại văn bản số 3309/UBND ngày 12/12/2012 và Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã có văn bản trả lời cụ thể.

+ Về xác định diện tích giải phóng mặt bằng để đền bù cho dân phần vỉa hè và hành lang an toàn giao thông: Trường hợp đã có hồ sơ giải phóng mặt bằng giai đoạn 1996-2000 thì giải quyết theo hồ sơ. Giao Sở Giao thông vận tải cử đoàn cán bộ công tác phối hợp với Uỷ ban nhân dân thành phố Uông Bí, đơn vị giải phóng mặt bằngcuar thành phố Uông Bí để rà soát, xác định ranh giới đối với các trường hợp có hồ sơ cụ thể cho các hộ gia đình cá nhân đảm bảo theo quy định.

Trường hợp không có hồ sơ giải phóng mặt bằng giai đoạn 1996-2000, không xác định được rõ ranh giới để àm cơ sở thanh toán thì giải quyết như sau: Thiết kế đường Uông bí Hạ Long thời kỳ cải tạo nâng cấp giai đoạn 1996-2000 là đường cấp ba đồng bằng, mặt cắt ngang là 12m.

Đối với những đoạn Thành phố Uông Bí đã làm bó vỉa rồi, thì tính từ mép ngoài bó vỉa để xác định ranh giới giải phóng mặt bằng đền bù (đảm bảo mặt cắt ngang giữa mép ngoài 2 viên bó vỉa tối thiểu 12m và căn cứ vào thực tế sử dụng đất và GCNQSDĐ được cấp của các hộ dân để giải quyết)

Đối với những vị trí không lấy bó vỉa thì lấy từ tim đường thời kỳ cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18A giai đoạn 1996-2000 tính ra mỗi bên 06m làm ranh giới.

Trên cơ sở nội dung về xác định đất để đền bù giải phóng mặt bằng (xác định nguồn gốc đất), về xác định diện tích giải phóng mặt bằng để đền bù cho dân phần vỉa hè, hành lang an toàn: thành phố Uông Bí tính toán để lập phương án và tiến hành đền bù cho các hộ dân xong trong ngày 05/11/2013 trên nguyên tắc tổng kinh phí bồi thường không vượt tổng mức đầu tư được phê duyệt. Bắt đầu từ ngày 05/11/2013, đơn vị thi công bỗ trí lực lượng, máy móc để thi công trên toàn tuyến.



Каталог: vi-VN -> Lists
Lists -> THÔng tư CỦa bộ quốc phòng số 113/2009/tt-bqp ngàY 07 tháng 12 NĂM 2009
Lists -> THÔng tư Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 12/2007/NĐ-cp ngày 17 tháng 01 năm 2007 quy định về công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân
Lists -> UỶ ban nhân dân tỉnh quảng ninh
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh ban chỉ ĐẠo công tác y tế trưỜng họC
Lists -> Ubnd tỉnh quảng ninh sở giáo dục và ĐÀo tạO
Lists -> Số: 1216 /QĐ-snv cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 485.23 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương