21
2. Mỗi bên yêu cầu những người vận chuyển buôn bán có biện pháp thích
hợp phòng ngừa việc sử dụng phương tiện vận tải của họ để phạm các tội quy
định tại khoản 1 Điều 3. Những biện pháp phòng ngừa đó có thể là:
a) Nếu cơ sở buôn bán chính của những người vận chuyển nằm trên lãnh
thổ của bên đó;
i) Huấn luyện cho nhân viên để nhận biết được những chuyến hàng hoặc
những người nghi vấn;
ii) Khuyến khích tính chính trực của nhân viên;
b) Nếu người vận chuyển đang hoạt động trong lãnh thổ của bên đó;
i) Khi có thể, cần chuyển bản kê khai hàng hoá trước;
ii) Sử dụng những kẹp chỉ niêm phong riêng biệt trên các côngtơnơ;
iii) Kịp thời báo cáo cho các cơ quan có thẩm quyền về tất cả những dấu
hiệu nghi vấn có thể liên quan tới những hành vi phạm tội quy định tại Khoản 1
Điều 3.
3. Mỗi bên tìm cách bảo đảm rằng những người vận chuyển và các cơ
quan có thẩm quyền ở những điểm xuất cảnh, nhập cảnh và những nơi kiểm soát
hải quan sẽ hợp tác nhằm mục đích ngăn ngừa những phương tiện vận tải và
chuyển hàng không được phép vận chuyển không đi qua được và nhằm thực
hiện những biện pháp an toàn thích hợp.
Điều 16. Những tài liệu thương mại và việc dán nhãn hàng hoá xuất
khẩu
1. Mỗi bên yêu cầu để việc xuất khẩu hợp pháp các chất ma tuý và các
chất hướng thần phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ. Theo yêu cầu của Điều 31 Công
ước 1961, Điều 31 Công ước 1961 sửa đổi và Điều 12 Công ước 1971 thì những
giấy tờ thương mại như vận đơn, bản kê khai hàng hoá, giấy tờ hải quan và
những tài liệu liên quan đến chất ma tuý và các chất hướng thần trong danh mục
của Công ước 1961, Công ước 1961 sửa đổi, Công ước 1971 đang được xuất
khẩu số lượng xuất khẩu, tên và địa chỉ của người xuất, nhập khẩu và cả người
nhận nếu có.
2. Mỗi bên yêu cầu những chuyến hàng xuất khẩu các chất ma tuý và các
chất hướng thần phải dán đúng nhãn.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: