Chuyện phiếM ĐẠO ĐỜi tập VI nhà xuất bản hội nhà VĂn cùng một tác giả



tải về 2.12 Mb.
trang21/25
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích2.12 Mb.
#26243
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25

42. “Non nước u buồn nào”

Đâu bóng cố nhân lòng xót xa tình xưa.”

(Minh Trang/Dương Tiệu Tước - Bóng Chiều Xưa)

(2Tx 2: 15-17)

“Bóng chiều xưa”. Đâu cứ là bóng xót xa. U buồn. Nguồn non nước. “Chiều gió mưa”. Cũng có thể là mưa gió. Bão bùng. Nhiều sầu não. Với đất trời, là môi trường toàn cầu!?

Về đất trời nhiều âu sầu, rầu não bộ thần kinh, bần đạo nhớ nhiều về buổi mạn đàm bỏ túi, mang tính chất rất “khilykhitô”. Có tâm tình bầu bạn, kể cho nhau nghe những “khuôn trăng đáy nước, bên đồi dạ lan”… lan man nhiều chuyện. Lan man buổi chiều ấy, có bạn hiền dõng dạc tuyên bố: “Tôi nay thuộc thế hệ gần đất xa trời, nhưng vẫn nhớ tên tuổi từng bạn cũng đã gần trời, nhưng xa đất…”

“Gần đất xa trời”, ý bạn hiền của bần đạo, không cốt bảo rằng: anh nay rắp ranh đi dần về với chuỗi ngày chuẩn bị chầu Chúa. Cho bằng, anh vẫn cảm kích lập trường của vị Phật sống, Giáo hội Tây Tạng, mới đây từng tuyên bố:

“Những nhân tố nào đã làm cho người Tây Tạng bình lặng và thân mật tự nhiên? Người ta luôn luôn tìm kiếm một câu trả lời trong tôn giáo của chúng tôi, nó đặc thù, mà quên đi rằng môi trường của chúng tôi cũng không là ngoại lệ.

Sự bảo tồn thiên nhiên không cần thiết là một hành vi thiêng liêng, và nó không luôn luôn đòi hỏi từ bi. Như những Phật tử, chúng tôi từ bi với tất cả chúng sinh, nhưng không cần thiết với mỗi hòn đá, cây cối, hay nơi cư ngụ. Hầu hết mọi người chúng tôi chăm sóc ngôi nhà của chúng tôi mà không cần cảm nhận bất cứ sự từ bi nào về nó.

Tương tự thế, hành tinh của ta là ngôi nhà của mình. Và, ta phải duy trì nó với sự cẩn trọng, để bảo đảm hạnh phúc của ta và niềm hạnh phúc của bạn bè, con cháu, và của toàn thể chúng sinh, tức những ai chia sẻ nơi cư trú vĩ đại này. Nếu ta nghĩ về hành tinh của ta như ngôi nhà hay “bà mẹ” của mình, là Bà Mẹ Đất thì ta sẽ cần phải chăm sóc nó.

Ngày nay ta hiểu rằng tương lai nhân loại tùy thuộc vào tinh của ta. Tương lai của nó tùy thuộc trên nhân loại. Nhưng điều ấy không phải lúc nào cũng rõ ràng. Cho đến bây giờ, Bà Mẹ Đất đã bao dung sự vô tình của ta. Tuy thế, ngày nay, thái độ của nhân loại, dân số và kỹ thuật đã đạt đến mức độ mà Bà Mẹ Đất của ta không còn có thể chấp nhận nó nữa, trong im lặng. “Những đứa con của mẹ đang cư xử một cách tệ hại,” bà đã cảnh cáo để ta nhận ra rằng có những giới hạn mà ta không thể vượt qua được.” (x. huffingtonpost.com Dalai Lama Book: My Spirit 11.10.2010)

Nói theo kiểu người nghệ sĩ viết nhạc bản ở trên, thì “Bóng Chiều Xưa” phải là buổi chiều trong đó con người vẫn hoà mình với “Bà Mẹ Đất”, rất trân trọng nên mới hát:

“Mây vương sầu lan,

Gió ơi đưa hồn về làng cũ

nhắn thầm lời nguyện ước trong chiều xưa.”

(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Nguyện ước của nhị vị uyên ương thơ nhạc ở trên, còn là ước nguyện của những ngày xưa cũ, còn đó một tình tự, như:

“Ngạt ngào sắc hương

tay cầm tay luyến thương.

Đôi mắt em nhìn càng say đắm mơ màng nào

thấy đâu sầu vương.”

(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Đã hẳn, đôi uyên ương nào mà chẳng “đắm say tình ngất ngây”, khi “đôi mắt em nhìn” sẽ cứ là “mơ màng, thấy sầu vương”. Hôm nay đây, mắt biếc ấy vẫn ngất ngây một chất tình, đã cảm hoá tâm tình đầy ngấn lệ khi chàng và nàng biết hát những ý từ như:

“Thương nhau làm chi

âm thầm lệ vương khi biệt ly.

Xa xôi còn chi

vô tình em nhớ mối duyên hờ…

(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

“Lệ vương âm thầm”, đã bộc phát từ lúc thấy biệt ly. “Thương nhau làm chi”, là dấu hằn đã in vào cả đời người. Một đời, có những giòng lệ vơi/đầy, khi người đời quên mất lời dặn dò hôm trước, của thánh nhân:

“Hỡi anh em,

hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống

anh em đã thụ giáo với chúng tôi

hoặc nhờ lời nói, hay bằng thư từ.

Nguyện xin Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô

Đấng đã yêu mến ta và đã ban cho ta niềm an ủi hằng có

và mối hy vọng tốt lành bởi ơn Người,

làm cho lòng anh em được phấn khởi và kiên vững

trong mọi việc làm và lời lành.”

(2Tx 2: 15-17)

‘Đứng vững và nắm giữ các truyền thống’, chắc hẳn trong đó có cả cung cách tuân giữ luật tự nhiên, rất an nhiên tự tại. ’Phấn khởi và kiên vững trong mọi việc làm và lời lành’, đương nhiên là quyết tâm ăn ở hiền lành, với mọi người, không riêng gì dân mình.

‘Phấn khởi và kiên vững’, cả khi biết dân con Đạo mình, vẫn thổn thức. Như Cha Nhân Hiền từng thao thức, khi Ngài nói: “Ta đã nghe tiếng chúng kêu than”. (Xh 3: 7)

Chúng dân than, vì nhiều lẽ. Không chỉ là lẽ ưu phiền do thiên tai, động đất, lũ lụt thời suy thoái. Có thể, vẫn là những uẩn khúc của một thời. Và một đời, mà người người không nương tay. Uẩn khúc hay kêu van, vẫn còn đó hy vọng cho một ngày mai tươi sáng, nếu người người biết tin vào lời ngôn sứ, khi xưa từng nói:

“Ta sẽ đổi tan tác của chúng

thành hoan lạc,

Ta sẽ ủi an,

Ta sẽ xuống cho chúng

niềm vui giải sầu.”

(Yr 31: 13)

“Niềm vui giải sầu”. Đó, là hy vọng. Là, sự khác biệt giữa các niềm tin tôn giáo. Tin, vào lời Cha Nhân Hiền, hoặc vị Phật sống. Hoặc, vào lời ngôn sứ xưa đã khuất. Cũng vẫn là tin. Là, hy vọng. Bởi, tin là tự khắc đem lại cho mình niềm hy vọng. Và, còn hy vọng, tức vẫn còn tin. Cứ tin. Dù, trạng huống con người sống sẽ ra tồi tệ thế nào cũng mặc. Vẫn kiên trì một niềm tin. Cứ, loé sáng một hy vọng.

Hy vọng, cụm từ gồm chỉ hai chữ, nhưng ôm gọn cả một vũ trụ/bầu trời, rất nguy nga. Hoành tráng. Tàn tạ, có là cụm từ chỉ về Bà Mẹ Đất, rất ưu phiền vì loài người đang giết Mẹ. Nhưng cuối cùng rồi ra hy vọng sẽ bức phá mọi tàn tạ ; để rồi sẽ đưa con người về với ánh sáng, của niềm tin.

Đức Chúa của Đất Trời, vẫn làm những chuyện lạ, miễn là vũ trụ/loài người mãi còn tin. Còn hy vọng vào Ngài, Đấng Thánh Hiền là Mẫu mực cho niềm tin linh thánh. Mẫu mực, của một hy vọng rất lành, để ta sống. Sống mà không có niềm tin, và hy vọng, thì cũng chỉ như người đã và đang chết. Một thứ chết dần chết mòn, chẳng ai tin. Và cũng chẳng ai còn hy vọng.

Vậy thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ hy vọng và cứ tin. Tin, và hy vọng để sống tỉnh táo như những nhân vật được kể trong truyện ở dưới, quyết tự tạo cho mình niềm hưng phấn, để sống.

« Chuyện rằng,

Lúc ban đầu, đoàn làm phim Titanic định quay ở VN. Đêm. Đại dương đen ngòm. Bầu trời đầy sao. Trên chòi cao, người hoa tiêu của tàu Titanic chăm chú nhìn về phía trước. Bỗng anh hốt hoảng:

- Có một núi băng phía trước tàu khoảng 10 cây số.

Tin đó lập tức được gửi tới phòng hoa tiêu trưởng. Ông này bận dự lễ cắt băng khánh thành câu lạc bộ bida trên tàu. Nhận được tin, ông lắc đầu:

- Phải mang ra phường xác nhận xem núi băng đó thuộc về ai thì tôi mới có hướng giải quyết.

Một bức điện cấp tốc được gửi về phường xin xác nhận ngay, nhưng cô văn thư giữ con dấu lại nghỉ vì nhà có đám giỗ, còn chủ tịch phường thì hiện đang đi nghỉ mát theo lời mời của Ban quản lý dự án giải phóng mặt bằng.

- Núi băng còn cách tàu 5 cây số, Viên hoa tiêu lại báo xuống.

Tin được chuyển ngay xuống thuyền phó. Ông ta vội vã triệu tập một cuộc hội thảo với chủ đề Băng trôi - Thực trạng và giải pháp. Giấy mời hội thảo đề 3giờ sáng, nhưng đến 4 giờ sáng vẫn chưa đủ số đại biểu vì không rõ là có tiền ăn sáng hay không, đồng thời nhân viên cũng báo cáo lại là một số đại biểu đang mải chơi tú Strip nên không thèm nhận giấy mời. Cuối cùng thì buổi hội thảo cũng vẫn được tổ chức lúc 4 rưỡi sáng sau khi Chủ tọa tuyên bố có tiệc đứng sau buổi họp. Các tham luận đều không đưa ra hướng cụ thể gì, chỉ nhấn mạnh là cần phối hợp giải quyết nhịp nhàng và đây là trách nhiệm của tất cả các ban ngành. Cuối buổi, Chủ tọa kết luận dõng dạc:

- Cuộc họp hôm nay chúng ta đã được nghe nhiều ý kiến phát biểu có giá trị cao về cả lý thuyết lẫn thực tế. Các ý kiến đã chỉ ra được tầm nguy hiểm của hiện tượng băng trôi và đưa ra một số giải pháp giải quyết. Các giải pháp tuy còn nhiều tính chất "trừu tượng" và đôi chỗ mâu thuẫn với nhau, nhưng thật khó để có thể kết luận ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai. Đây chính là tiền đề để chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức một buổi Hội thảo nữa vào ngày này năm sau. Xin cám ơn quý vị và mời quý vị dùng tiệc. (clap clap)

- Băng còn cách tàu 100mét, viên hoa tiêu hét lên.

Tin này đến tai thuyền trưởng. Ông vội vã ra lệnh:

- Lái tàu, lùi lại.

- Dạ báo cáo anh, em chưa học lái tàu đi lùi ạ.

- Thế sao bảo có bằng lái tàu thủy ???

- Dạ, thú thiệt là bằng này em... "mua" ạ.

- Hả ???... RẦM!!!

Sườn tàu va vào núi băng. Nước ào ào chảy vào các phòng. Trên giường ngủ, diễn viên nam do DiCaprio thủ vai thức dậy trước tiên. Anh lay những người xung quanh:

- Dậy mau lên, nước ngập.

Mọi người ngái ngủ ngó xuống rồi càu nhàu:

- Mưa thì nước ngập, có chi đâu.

- Nhưng mà ngập đến đầu gối rồi!

- Bực quá, khu phố tôi ở mỗi khi mưa dù là mưa nhỏ mà đều ngập đến bụng cơ, thế này nhằm nhò gì - Rồi họ ngủ tiếp.

Hốt hoảng, Di aprio rút điện thoại di động gọi cho diễn viên nữ Kate Winslet để báo tin. Trong máy vang lên một giọng ngọt ngào: "Thuê bao quí khách vừa gọi hiện đang ngoài vùng phủ sóng hoặc tắt máy, xin vui lòng liên lạc lại sau. The number you've called...".

Kêu trời vì thất vọng, DiCapio chạy ào lên phòng người yêu, kéo cô chạy lên bong. Đôi tình nhân dìu nhau lên những bậc thang chật hẹp. Lúc này trong tàu đã nhốn nháo vô cùng. Dòng người đang xô đẩy bỗng chựng lại.

- Kẹt xe.

DiCaprio cáu:

- Trong tàu thuỷ làm sau kẹt xe được?

Bà con giải thích:

- Được. Xe mấy ông thuỷ thủ nhập lậu giấu kỹ, bây giờ nước ngập ai cũng lôi ra nên kẹt cứng rồi. Đôi uyên ương lao tới chỗ để xuồng cấp cứu. Còn rất nhiều chỗ trống. Hai người định nhảy xuống xuồng thì một nhân viên chặn lại:

- Yêu cầu anh chị mua vé.

- Chúng tôi mua vé tàu rồi mà? - Winslet kêu to.

- Vé tàu khác, vé xuồng khác - Anh nhân viên giải thích - Y như ở công viên, vé vào cửa đâu kèm vé trò chơi!

DiCaprio đành thò tay vào túi, rút ra tờ 100 USD. Người bán vé cầm lấy, điện thoại vào đất liền hỏi tỉ giá chính thức. Cô trực tổng đài cho biết là 8 giờ sáng mới có giá mới, còn nếu tính theo giá hôm qua thì DiCaprio bị thiệt 2 chục ngàn. Đang giằng co thì có một bà béo chạy lại đon đả:

- Anh giai để em đổi theo giá ngoài, vừa nhanh vừa cao hơn. Tính ra theo cái "giá ngoài" đó thì DiCaprio chỉ bị thiệt có 18 ngàn mà thôi.

Đúng lúc nguy cấp thì điện tắt phụt. Thiên hạ la rầm trời đất. Thuyền trưởng chạy tới quay điện thoại hỏi lý do. Suốt tiếng đồng hồ máy bên kia cứ bận liên tục, cuối cùng thuyền trưởng phải cử thuyền phó xuống tận nơi thì được thông báo:

- Một con chuột chạy lụt mắc kẹt ở đường dây và đã bị nướng chín vàng khiến đường dây chập mạch. Phải tìm ngay một con mèo.

Lúc này mối nguy hiểm đã cận kề. Tàu Titanic kêu răng rắc như răng bà lão và gãy làm đôi. Tất cả tranh nhau xuống xuồng và tranh nhau phao cấp cứu. Lượng phao ít hơn lượng người nên đôi tình nhân chỉ được có một chiếc. Họ cứ nhường nhau, nước mắt đầm đìa rất cảm động. Âm nhạc nổi lên tha thiết. Hơn một ngàn rưởi hành khách sắp chết đuối vì thiếu phao. Tàu sắp chìm sâu xuống đại dương. Bỗng nhiên thuyền trưởng vụt nhớ lại kỳ thi tốt nghiệp THPT của mình. Ông cởi chiếc phao trên thân, đưa vào máy Photocopy nhanh chóng in ra hàng ngàn chiếc. Thế là hành khách ai cũng có đủ, thậm chí một người được dăm bảy loại phao. Một điều lạ là trên các loại phao này lại ghi chi chít những công thức toán học, các bài văn mẫu. Nhưng lúc nước sôi lửa bỏng thế này, có phao là tốt rồi nên cũng không ai để ý mà đều ôm phao nhảy ào xuống biển.

Titanic chìm xuống. Tất cả mọi người đều nổi lên. Pháo bông bắn rực trời. Trên nền trời đêm hiện lên dòng chữ: Tỷ lệ "nổi" đạt 100%. Caprio và Winslet ôm nhau hôn thắm thiết! (Vô danh thị).

Truyện kể của tác giả Vô Danh Thị, đích thị từ người Việt, hoàn toàn mang tính hư cấu. Nhưng có hậu. Hư cấu, vì bôi bác những người con của “Bà Mẹ Đất” chẳng lý gì đến Đất Mẹ. Rất có hậu, là bởi đọc hết truyện rồi mà chẳng thấy “chết ba thằng Tây’ nào hết ráo. Bởi, truyện kể chỉ cốt kể lể và minh hoạ, rằng: nếu không cẩn thận trân quý đất, thì rồi ra đất cũng chẳng lý gì đến cuộc sống của ta.

Về với nhà Đạo mình, cũng nên trân trọng và nhớ lời dạy của các thánh trong/ngoài Đạo, để rồi bạn và tôi, ta sẽ lại có những ý nghĩ, hành xử, rất phải lẽ. Với cả đất lẫn trời. Đồng thuận rồi, hỡi tôi và bạn, ta sẽ lại hát nốt câu ca ở trên, làm kết đoạn:

“Một chiều gió mưa

Anh về thăm chốn xưa.

Non nước u buồn nào đâu bóng cố nhân

lòng xót xa tình xưa.”

(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Quả là thế. Non nước u buồn. Cố nhân, có về thăm chốn xưa cũ, thì Bà Mẹ Đất cũng xót xa tình xưa, mà bỏ lỗi. Để rồi, sẽ đưa đàn con yêu dấu vào vòng tay yêu thương/tình ái, rất ôm ấp. Vỗ về. Đầy hy vọng.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ hy vọng rất nhiều

Dù đất trời đổi thay

Loay hoay nhiều trăn trở.

___________________________________________________________________

43. “Hồn cầm phong sương, hình dáng xuân tàn.”

Ngày dần buông trôi, sầu vắng cung đàn.”

(Văn Cao – Cung Đàn Xưa)

(1Cr 11: 23)

Có đôi lần, bầu bạn ở Sydney có ngỏ ý muốn đóng góp đôi chút cho việc in ấn, khi bần đạo biếu tăng sách Phiếm, thì được bần đạo thưa ngay rằng:“Sách Phiếm ký tặng, là để bạn bè nghe và đọc, chứ nào dám động đến bạc tiền đâu. Anh chị thương, thì cứ nguyện cầu cho bọn mình một kinh cũng đủ Sáng Danh Chúa!” Bạn hiền thấy lạ, bèn hỏi: “Sao lại Sáng Danh, chứ không Lạy Cha hoặc Kính Mừng?” Bần đạo bèn tỏ lộ ý mọn mà rằng:“Ở kinh Sáng Danh, bần đạo không thấy ngữ từ mang ý nghĩa cứ “xin” cho mình cả, mà chỉ để Sáng Danh Chúa, mà thôi!

Hôm nay, một lần nữa, bần đạo lại được nghe bạn bè luận bàn về kinh kệ trong thánh lễ rất “Mi-sa”, nên lại đã quay về với phiếm và luận cùng vài đấng bậc có kinh nghiệm về lời cầu đọc ở Tiệc Thánh, rất agapè.

Sở dĩ bần đạo không dùng danh xưng “Misa, thánh lễ” hoặc “Lễ tiến dâng Cha” như hồi nào, là bởi: nay, dân con Đạo Chúa đã và đang hiện thực lời khuyên của Phaolô thánh nhân, hơn một lần từng lập đi lập lại yêu cầu được Chúa nhủ khuyên vào thời trước:

“Thật vậy, điều tôi đã lĩnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em:

trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói:

"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em;

anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."

(1 Cr 11: 23-24)

Trong bài viết ngắn gọn xuất hiện trên tuần báo The Catholic Weekly ngày 27/2/2011, tác giả Don Richardson, linh mục Giám Đốc Uỷ Ban Phụng Vụ thuộc Tổng Giáo Phận Sydney, đã có lời bàn về sách lễ Missale Romanum, bản tiếng Anh như sau:

“Cử hành “thánh lễ Misa” thời buổi này, là dịp để ta hiện thực lời kinh và những động thái được truyền tụng từ trước đến bây giờ. Truyền và tụng, không như báu vật thời đã qua, nhưng vẫn là thực tại sống động. Động thái nói đây, là điều hệ trọng với Kitô-hữu, ở mọi thời.

Thánh Phaolô xưa, khi mô tả nguồn gốc của Tiệc Thánh, cũng đã xác nhận một điều, rằng: “Điều tôi nhận lãnh nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi Ngài bẻ ra và nói…”

ời ở đây, ta cũng nên chú ý đến những điều được thánh Phaolô khi xưa viết: “Điều tôi lĩnh nhận từ Chúa”, và “Tôi xin truyền lại cho anh em”. Xem như thế, thì phụng vụ ta cử hành –có Lời của Chúa, có động thái này khác, có lời cầu cùng dấu hiệu– là cách thức qua đó Tiệc Thánh được truyền đến với ta cả vào thời Chúa sống, qua Hội thánh. Lời kinh ấy, vẫn trải dài ngang qua bao thời đại, để rồi lan rộng khắp thế giới cho đến hôm nay. Nhờ vào đó, ta sẽ rao truyền về sự chết của Chúa và lĩnh nhận Thân Mình cùng Máu rất thánh của Ngài.” (x. Don Richardson ‘Handing on’ prayers and actions of the Mass as ‘lively present realities’, The Catholic Weekly 27.02.2011, tr.24)

Nói theo bài/theo bản từ bậc trưởng thượng Ủy Ban Phụng Vụ Tổng Giáo Phận, đương nhiên là sẽ nói thế. Nhưng, vấn đề là: giáo dân bình thường và đấng bậc vị vọng chốn không cao, nghĩ sao về chuyện ta cứ dịch đi dịch lại văn bản Phụng Vụ, mà tự bản chất, có “biên” hay có “dịch” cho nhiều, thì việc ấy vẫn là cố gắng rất “bội phản” văn bản gốc; như ai đó ở trời Tây, vẫn từng bảo:“Traduire, c’est trahir” (Dịch là phản)

Hỏi, tức đã trả lời cách nào đó, vẫn từ lâu. Và hôm nay, nếu có ai lại hỏi thêm đôi điều gì, thì bần đạo sẽ cứ xin bạn/xin tôi, ta chớ vội mà trả lời/trả vốn rất tốn thì giờ của mọi người. Chi bằng, thay vào đó, ta cứ hát. Hát, lời ca của thi nhân/nghệ sĩ khi xưa vẫn coi lời thơ/ý nhạc người đời, rất như sau:

“Cung thương là tiếng đàn

Cung nam là tiếng người.

Ai oán, khúc ca cầm châu rơi

Tình duyên lãng đãng, nhớ thương dần pha phôi.”

(Văn Cao – bđd)

Thật ra thì, có trả lời câu trên bằng lời ca “phôi pha”, “lãng đãng”, cũng không phải. Không phải, là bởi: câu ca/lời cầu ở phụng vụ dù bằng tiếng nước nào đi nữa, có sâu/có sát với La-ngữ hay không, vẫn chẳng là “ai oán, khúc ca cầm” và “châu rơi”, hết! Tuyệt nhiên, đây chẳng là: “khúc cầm ca châu rơi”; hoặc: ”nhớ thương dần pha phôi” gì hết. Sở dĩ nghệ sĩ nay viết thế, là ý bảo:

“Cung đàn ngân,

buồn xa vắng trong tiếng thầm.

Buồn tê tái trong tiếng ngân,

buồn như lúc xuân sắp tàn.

Ơi đàn xưa, còn vang nhắc chi tới người

Lòng ta tắt, bao thắm tươi u hoài duyên đưa.”

(Văn Cao – bđd)

Vâng. Đúng là thế. Nghệ sĩ ngoài đời, đâu là thánh nhân nhà Đạo! Vẫn là dân con sống ở trần thế rất lễ mễ, thế thôi. Bởi thế nên, lời người hát có ca/có hát kỹ đi nữa, cũng chỉ như một “tán thán”. Hỏi han. Nhắc nhớ. Nhắc, để nhà Đạo nhớ rằng: nhiều vị từng “tán” nhưng không thán. Từng “hỏi” mà chẳng “than”, như người nghệ sĩ đã lại hát tiếp:

“Giờ còn mong chi, người hát theo đàn

Giờ còn mong chi, hợp cánh hoa tàn.

Lời đàn năm xưa se kết đôi lòng

Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời.”

(Văn Cao – bđd)

Nói cho cùng, “đôi lứa xa vời” dù có hỏi han hay ta thán, vẫn là nhận định đáng ta quan tâm cho thật kỹ. Tựa hồ nhận định của đấng bậc khác, cũng về dịch-nhưng-không-phản, như sau:

Kính thưa các Đức Hồng Y, các Giám Mục rất quí mến,

Vốn nặng lòng với Hội thánh, nên mới đây tôi vừa đưa ra một quyết định rất khó khăn có liên quan đến bản dịch sách lễ Rôma bằng tiếng La-tinh sang tiếng Anh. Nay, tôi suy nghĩ kỹ nên rút lại lời đồng thuận mà tôi từng tỏ bày vào lần trước, về chuyện dịch sách lễ Rôma sang tiếng Anh, để phổ biến tại các giáo phận trên toàn nước Mỹ. Sau khi đã hầu chuyện lâu giờ với vị cha già giải tội của mình, và sau nhiều buổi cầu nguyện liên lỉ, nay có quyết định là: tôi không đề bạt/thăng tiến bản dịch tiếng Anh với sự chính trực mình từng có, nữa.

Tôi yêu mến Giáo Hội và yêu thích phụng vụ của hội thánh, có lời ca câu hát bằng tiếng La-tinh và Anh ngữ, và tôi cũng hãnh diện đã có chân trong nhóm sáng tác/dịch thuật này qua tư cách là đan sĩ, linh mục. Thật là vinh dự lớn đối với tôi được phục vụ đến ngày nay với tư cách là chủ tịch phân ban thánh nhạc Uỷ Ban Quốc Tế Dịch thuật sang tiếng Anh và phục vụ soạn thảo các nhạc bản cho sách lễ mới này. Tuy nhiên, tôi vốn tham gia tiến trình này với thiện chí lâu nay mình sẵn có, nhưng sau khi thấy Đức Thánh Cha giải quyết các vụ tai tiếng lớn trong Giáo hội, đã khiến tôi dần dà mở to con mắt biết được rằng vấn đề còn thâm sâu hơn ở cấu trúc tạo quyền trong Giáo hội.

Sách lễ mới bằng tiếng Anh, sắp được đem sử dụng đại trà, là một trong các mô hình lớn nói lên sự áp đặt từ trên do việc tập trung quyền hành, vốn không còn coi mình có trách nhiệm đối với quảng đại quần chúng là thành viên trong hội thánh. Thêm vào đó, khi suy xét công việc dịch thuật quan trọng như thế mà lại giữ kín, không hội ý với các linh mục hoặc tầng lớp giáo dân một cách công khai. Và nhất là, thấy Đức Thánh Cha cho phép một nhóm người rất ít ỏi được phép cướp tay trên quyền phiên dịch hoặc biên soạn ở giai đoạn cuối, đồng thời thấy rằng: bản văn cuối không thoả mãn được nhiều người và: văn bản dịch thuật này lại đã áp đặt lên hội đồng giám mục ở các nước, đến độ vi phạm thẩm quyền chính đáng của các chủ chăn địa phương; đồng thời, khi thấy biết bao đấng bậc chủ quản rất thiện chí nay nản lòng đến bất hoà về điểm đặc trưng của tiến trình dịch thuật, khiến tôi nghĩ ngay đến giáo huấn của Chúa về phục vụ, yêu thương và hợp nhất… Từ lúc đó, tôi đã bật lên thành tiếng khóc, rất chân tình.

Nay, thấy tâm trạng vỡ mộng của một số chức sắc đối với Hội thánh, cũng như tâm tình của bạn bè người thân ở các cấp mà tôi quen biết, một số vị đã rời bỏ Giáo hội, không còn tin vào Hội thánh mình nữa. Một số người khác, dần dà bị cuốn hút theo các vị ấy, cũng đã ra đi. Một số vị nay gia nhập giáo phái khác, Giáo hội khác. Có vị, tuy vẫn ở lại với Hội thánh, nhưng đã gặp khó khăn rất nhiều. Vì vậy, nay tôi quyết định là vẫn ở lại với Hội thánh và làm hết sức mình để phục vụ Hội thánh, nhưng tôi hy vọng rằng: bằng vào việc này, tức nói lên sự thực mà tôi nhận thức; nói lên bằng tất cả tình thương yêu tôn kính tôi vẫn có, tôi sẵn sàng tham gia mọi công tác phụng vụ thực hiện trong mai ngày trong tư thế thoải mái, dễ chịu hơn.

Tôi thấy có lỗi nếu đã tạo rắc rối cho một số vị, qua quyết định rút lại sự đồng thuận này, nhưng tôi vẫn nhận ra rằng: việc tôi đang rút lại sự đồng thuận, là rất đúng. Và, phải làm. Tôi hứa sẽ cầu nguyện cho các ngài và các thủ lĩnh của Giáo hội ta.

Kính chúc các ngài sự bình an trong Đức Kitô,

Lm Anthony Ruff, O.S.B

Thế đó, là lời lẽ chân tình, của một đấng bậc vị vọng trong Đạo dám nói lên những điều phải nói với nhà Đạo. Còn đây, lại là lời ca rất đáng nói của nghệ sĩ ngoài đời khiến ta cứ ca và hát mãi:

“Khi hôn hoàng xuống dần

Trăng lên vàng mái lầu,

Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa,

Ngàn lau thấp thoáng, bóng kinh kỳ sầu bao la.”

(Văn Cao – bđd)

Ca từ hay lời kinh, dù xuất từ miệng ai đó, vẫn là lời trần tình người trong cuộc. Tức, các vị có kinh nghiệm từng trải rất chung đụng, cùng hiện tượng. Hiện tượng này. Sự kiện ấy, là những gì mà thành viên Hội thánh, nay trăn trở. Trăn và trở như hơi thở, của nghệ sĩ nay vẫn hát:

“Từ người ra đi, chờ vắng tin người

Từ người ra đi, là hết mơ rồi…”

(Văn Cao – bđd)

Và, ưu tư/uẩn khúc vẫn lẩn quẩn đâu đây, chốn đời này, như tác giả Paul Philibert, linh mục Dòng từng có lời trần tình ở trên báo điện tử từ Mỹ Quốc rất America, The National Catholic Weekly đề ngày 3/1/2011, như sau:

“37 năm trôi qua, giới Công giáo nói tiếng Anh đã nghe quen hoặc đọc quen bản dịch lời kinh tiếng La tinh khi tham dự thánh lễ. Lời kinh ấy, là: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống, này là máu Ta, máu giáo ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội.”

Từ 1985, cụm từ “các con” bên tiếng Anh đã bị loại bỏ, nhưng nhóm chữ “tất cả”, vẫn được giữ. Nay, các giám mục ở nhiều nơi trên thế giới đang ràng buộc ban phụng vụ thuộc quyền mình nên có tư thế chuẩn bị cho các giáo sĩ bản quyền sử dụng bản dịch sách lễ Rôma, mà trước đây vẫn được coi là Sách Các Phép, và: các linh mục nay được lệnh thay và bỏ cụm từ “tất cả” đó. Trong số những điều gọi được là “bất hạnh” ở bản mới tiếng Anh, có việc thay cụm từ tiếng Latinh “pro vobis et pro multis” mà kể từ năm 1973 mọi người đều vẫn nghe/vẫn biết những lời dịch như: “cho các con và mọi người” nay bản dịch mới đề nghi là “cho các con và số đông”.

Sao lại có chuyện như thế?

Mới đây, tôi được vinh hạnh đi Rôma phó hội quốc tế của bổn Dòng là Tổng Công Hội Dòng Đa Minh. Hôm ấy, Tiệc Thánh được cử hành bằng nhiều thứ tiếng để các vị tham dự đều hiểu được. Cũng vào buổi Tiệc Thánh ấy, tôi chú ý cách đặc biết đến cụm từ “pro multis” được dịch rất kỹ. Nói tóm lại, điều tôi khám phá ra, là: với tiếng Đức, vị chủ tế đọc là: “cho các con và cho tất cả” (“fũr euch und fũr alle”); trong khi đó, bản tiếng Tây Ban Nha được dịch là: “cho các con và cho mọi người” (“por vosotros y por todos los hombres”). Ở tiếng Ý, lại thấy viết “cho các con và cho tất cả” (“per voi e per tutti”). Tiếng Pháp, cũng thấy dịch: “cho các con và cho đám đông” (“pour vous et pour la multitude”), tức ý chỉ về “đoàn lũ đông đảo”, một cụm từ được nhắc đến ở sách Khải Huyền đoạn 7 câu 9 hoặc đoạn 19 câu 6. Nhưng, không một bản mới nào trong các bản có dịch chữ “pro multis”của tiếng La-tinh thấy ở đó, lại bao hàm ý nghĩa của di chúc cứu độ mà lại dành cho một số người ít-hơn-là-toàn-thể-vũ-trụ nhờ nhiệm tích chết đi và sống lại của Đức Kitô, như bản tiếng Anh trước đây dịch không sai thành: “for many”. Dĩ nhiên, các bản dịch ấy đều đã hoàn tất trước lúc có tông huấn Liturgiam Authenticam được Thánh Bộ Phụng Vụ ban hành vào năm 2001.

Thêm nữa, từ tháng Chín năm 2010, Hội Đồng Giám Mục Đức cũng bác bỏ yêu cầu của La Mã buộc áp dụng bản dịch mới. Hội Đồng Giám Mục Đức lấy cớ rằng Sách Các Phép lâu nay vẫn được cả hàng giáo sĩ lẫn cộng đồng giáo dân chấp nhận, và đây là một sự kiện hiếm quý. Vì hiếm quý, nên không thể một sớm một chiều dễ thay “bản văn tiếng Đức rất đúng” bằng “những giải thích mới nhưng không quen thuộc” này.

Đặc biệt, văn phạm La-ngữ không có mạo từ, nên cụm từ “pro multis” có thể dịch hoặc “cho một số rất nhiều người” (“for the many”) hoặc “cho nhiều người” (“for many”). Bên tiếng Anh, nếu không đặt mạo từ “the” ở trước “many”, thì tính từ “nhiều” lại là từ ngữ có ý nghĩa co cụm vào một dúm người tuy nhiều, nhưng không mang ý nghĩa của “mọi-người-trên-thế-giới”, tức ám chỉ một số -có thể là một dúm, có thể cả ngàn người- nhưng tuyệt nhiên không phải là đa số, lại càng không thể là toàn thể loài người được.

Về Sách Lễ mới, nhiều vị giám mục người Mỹ đã bày tỏ quan điểm cho rằng một bản dịch sát từng chữ có gốc tự tiếng La-tinh lại có thể tái tạo được chiều sâu ý nghĩa văn bản gốc của Sách Lễ hơn. Có thật như thế không? Nếu vậy, thì dịch tiếng La-tinh một cách mù quáng rất sát nghĩa như thế khác nào người dịch cũng lại sai phạm những lỗi về qui tắc mà các thày cô dạy tiếng La-tinh xưa vẫn sửa lưng học sinh trung học theo môn cổ ngữ, bảo rằng: “Các em đừng ngại thêm mạo-từ hạn-định vào trước chữ nếu như các chữ ấy không rõ nghĩa”. Đấy, dịch tức bội phản có nghĩa là như thế.

Chữ nghĩa con người thật ra không mang ý nghĩa nhiều cho lắm. Nó đi ngược truyền thống trước-sau-như-một của Hội thánh về lời trối trăn rất cứu độ mang tính cách rộng rãi, phổ cập với toàn thể loài người, như vậy mới đúng.”

Trần tình và giải thích sự việc theo hướng nhà Đạo, thì như thế. Còn tình trần, chẳng bao giờ giải thích kiểu người đời, lại không thế. Vẫn chỉ giải bằng lời ca như thế này:

“Chiều năm xưa, gót hài khai hoa,

Mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương.

Chiều năm nay, bóng người khơi thương

tiếng đàn gieo oan giấc mộng chàng Trương.”

(Văn Cao – bđd)

“Tiếng đàn gieo oan” của Trương Chi với giấc mộng, đương nhiên là phải khác tiếng cầu kinh của nhà Đạo, là như thế. Khác hơn, khi các chuyên gia nguyện cầu như vị sĩ tử Dòng Đa Minh tiếp tục phân tích như sau:

“Các bản văn phụng vụ vừa được dịch sang tiếng Anh mà các chức sắc cho là chính xác hơn, hợp niềm tin hơn, thật ra lại được diễn tả bằng thứ tiếng Anh cứng ngắc, giả tạo và dông dài. Và ở đây, trong trường hợp này, không xứng với thần học Đạo Chúa. Không xứng, là vì thiếu tính chất giảng rao Lời Chúa. Cử hành thánh lễ Chúa nhật, là chuyên chở Lời của Chúa một cách hiệu quả nhất cho quần chúng đông đảo trong cuộc sống. Đó là cơ hội hiếm có để Hội thánh đến mà thức tỉnh niềm tin của họ. Phải chăng các lãnh tụ Hội thánh muốn ra dấu bảo rằng: ân sủng Đức Kitô chỉ dành cho một số người thường xuyên đi nhà thờ, theo truyền thống chăng? Phải chăng các lĩnh tụ ấy có ý hướng muốn quên số người còn lại? Càng ngày ta càng thấy như thể thông điệp ẩn tàng bên dưới bản văn viết là một trong các động thái muốn loại bỏ một cách hữu hiệu hơn là thái độ như trước đây quyết gom toàn thể nhân loại vào lời trăn trối của Chúa để được hưởng ơn cứu độ Đức Kitô ban. Nói tóm lại, ngôn ngữ mới của Sách Lễ đây không giúp ích được gì.” (x. Paul Philibert, For You and Who Else, America The National Catholic Weekly 3/1/2011)

Nói gì thì nói, ta cứ phiếm. Phiếm gì thì phiếm, ta cứ hát và cứ ca. Hát và ca những truyện kể rất dễ hiểu hơn lời kinh, để minh hoạ, như bên dưới:

“Truyện kể rằng:

Một trai nam nhi chí khí nọ, đến gặp vị bác sĩ thân quen để nói và kể hết chuyện của vợ mình, rằng:

-Bác sĩ này, tôi e vợ tôi nay điếc nặng. Tôi nói rất nhiều, nhắc đi nhắc lại cũng không thiếu, mà sao cô ấy cứ như không nghe gì hết, thế có chết không cơ chứ!

-Thôi được rồi, không việc mà ầm ĩ thế. Ông cứ nghe tôi. Tôi này về nhà, ông cứ đứng cách vợ mình chừng 6 thước rồi nói điều gì đó thật lớn. Nếu bà nhà không trả lời, thì đứng lại gần 2 thước, và nhắc lại cũng một câu như thế. Cứ tiếp tục làm thế, để xem mức độ nghễnh ngãng của bà nhà nặng đến cỡ nào.

Anh chồng về, tức tốc thực hiện lời bác sĩ dặn kỹ, đứng cách xa vợ đến 6 thước trong lúc bà vợ còn đang chặt thái khúc thịt ở trong bếp, mà hỏi:

-Cưng à! Tối nay mình ăn gì thế?

Không nghe thấy vợ mình trả lời, anh lại đến gần 2 thước nữa, rồi hỏi lại cũng một câu như lúc nãy. Vẫn chẳng nghe thấy vợ trả lời trả vốn đến một câu, anh bèn đến gần thêm 2 thước nữa. Cũng chẳng thấy động tĩnh gì, lời của vợ. Cuối cùng, anh tiến sát đến đằng sau vợ, sợ xảy ra sự cố, và hỏi:

-Em yêu dấu, tôi nay mình ăn gì thế?

Người vợ trả lời ngay tức khắc:

-Đây là lần thứ tư tôi trả lời rồi đấy nhá: thịt bò hầm chứ ăn gì nữa!!!

Truyện kể chỉ mỗi thế. Không thêm không bớt một điều gì. Chỉ thêm mỗi lời bàn của người kể truyện, là: trong cuộc sống, nhiều người vẫn cứ nói và cứ hỏi. Nói và hỏi mãi một điều. Hỏi rồi nói, lại tưởng rằng chẳng ai nghe. Thực sự, thì có khi chính mình là người có nghe, nhưng không hỏi. Chí ít, là hỏi han hoặc han hỏi.

Và, nếu người kể hôm nay là người nhà Đạo rất đạo đức, lại ít thích mạn đàm chuyện dịch với phản, tức dịch sách/dịch kinh mà không cần phản hồi, chắc sẽ thêm chỉ một đề nghị, rằng: lời có nói, kinh có đọc cũng nên chú ý đến người nghe, hơn người nói và đọc. Chí ít, là nói và đọc lời kinh xem có thích hợp người nghe chăng. Nghe, là nghe một Lời:

“Anh em hãy làm như Thầy vừa làm

để tưởng nhớ đến Thầy."

(1 Cr 11: 24)

Và, đề nghị cuối: nghe và làm, vẫn là: dâng lời chúc tụng tạ ơn và bẻ bánh, ấy mới cần. Cần , hơn chuyện giải thích với phân tích một bản dịch. Của ai đó. Nhà Đạo, hay người đời.

Trần Ngọc Mười Hai

vẫn lòng nhủ lòng mình

từ nay chỉ nghe và thực hiện Lời Thày

hơn nói hoặc hỏi.

___________________________________________________________________



tải về 2.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương