CHÍnh phủ n ưỚc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam


II. HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT



tải về 3.48 Mb.
trang3/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích3.48 Mb.
#18706
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33

II. HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT


Tổng diện tích tự nhiên của cả nước là 33.128 nghìn ha, đứng thứ 04 so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Bình quân diện tích tự nhiên trên người đứng thứ 09 trong khu vực (đạt 3.690 m2/người), trên các nước Singapo và Philippin.

Để thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các vùng trong báo cáo điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 sẽ phân thành 6 vùng, trong đó: gộp 2 vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ thành Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; riêng tỉnh Quảng Ninh được tách từ vùng Trung du và miền núi phía Bắc chuyển về vùng Đồng bằng sông Hồng.


1. Nhóm đất nông nghiệp


Năm 2015, nhóm đất nông nghiệp là 26.791,58 nghìn ha, tăng 565,19 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng khoảng 113,04 nghìn ha/năm), vượt 0,91% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (26.550,00 nghìn ha). Trong đó:

* Phân theo mục đích sử dụng:

- Đất sản xuất nông nghiệp 10.305,44 nghìn ha;

- Đất lâm nghiệp 15.700,14 nghìn ha;

- Đất nuôi trồng thủy sản và các loại đất nông nghiệp khác 785,99 nghìn ha.



* Phân theo các vùng:

- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 7.585,08 nghìn ha, chiếm 79,62% diện tích tự nhiên của vùng và 28,31% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, tăng 320,94 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng 64,19 nghìn ha/năm), đạt 99,44% chỉ tiêu Quốc hội;

- Vùng Đồng bằng sông Hồng có 1.380,57 nghìn ha, chiếm 65,31% diện tích tự nhiên của vùng và 5,15% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, giảm 24,81 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân giảm 4,96 nghìn ha/năm), đạt 95,26% chỉ tiêu Quốc hội;

- Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: có 7.731,84 nghìn ha, chiếm 80,48% diện tích tự nhiên của vùng và 28,86% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, tăng 307,28 nghìn ha so với năm 2010, trong đó:

+ Tiểu vùng Bắc Trung Bộ: có 4.098,10 nghìn ha, chiếm 79,68% diện tích tự nhiên của Tiểu vùng và 53,00% diện tích nhóm đất nông nghiệp của vùng, tăng 41,15 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng 8,23 nghìn ha/năm), đạt 97,54% chỉ tiêu Quốc hội;

+ Tiểu vùng Duyên hải miền Trung: có 3.633,74 nghìn ha, chiếm 81,41% diện tích tự nhiên của Tiểu vùng và 47,00% diện tích nhóm đất nông nghiệp của vùng, tăng 266,13 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng 53,23 nghìn ha/năm), vượt 4,91% chỉ tiêu Quốc hội.

- Vùng Tây Nguyên có 4.848,96 nghìn ha, chiếm 88,74% diện tích tự nhiên của vùng và 18,10% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, tăng 23,07 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng khoảng 4,61 nghìn ha/năm), đạt 99,91% chỉ tiêu Quốc hội;

- Vùng Đông Nam Bộ có 1.865,04 nghìn ha, chiếm 79,06% diện tích tự nhiên của vùng và 6,96% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, giảm 36,98 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân giảm 7,40 nghìn ha/năm), đạt 95,48% chỉ tiêu Quốc hội;

-
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 3.380,09 nghìn ha, chiếm 83,32% diện tích tự nhiên của vùng và 12,62% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước, giảm 24,31 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân giảm 4,86 nghìn ha/năm), đạt 97,87% chỉ tiêu Quốc hội.

Biểu đồ 03: Xu hướng biến động nhóm đất nông nghiệp theo vùng


thời kỳ 2011 - 2015

1.1. Đất trồng lúa


Năm 2015, diện tích đất lúa là 4.030,75 nghìn ha, chiếm 12,17% diện tích tự nhiên và chiếm 15,04% diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước; giảm 89,44 nghìn ha so với năm 2010 (trong đó: diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 3.275,38 nghìn ha, giảm 22,10 nghìn ha). Theo chỉ tiêu Quốc hội duyệt đến năm 2015 đất trồng lúa còn 3.951 nghìn ha, cho phép giảm diện tích đất trồng lúa 169,18 nghìn ha (đất chuyên trồng lúa nước 39,49 nghìn ha). Như vậy, việc giảm diện tích đất trồng lúa và đất chuyên trồng lúa nước vẫn nằm trong giới hạn Quốc hội cho phép.

Diện tích đất trồng lúa phân theo các vùng như sau:

- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 526,49 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 258,31 nghìn ha), chiếm 13,06% diện tích đất trồng lúa của cả nước. Đất trồng lúa tập trung chủ yếu tại các tỉnh Bắc Giang (69,20 nghìn ha), Điện Biên (59,54 nghìn ha), Thái Nguyên (45,69 nghìn ha), Phú Thọ (44,41 nghìn ha), Sơn La (42,59 nghìn ha), Lạng Sơn (41,61 nghìn ha).

So với năm 2010, diện tích đất trồng lúa toàn vùng giảm 2,80 nghìn ha, đạt 98,03% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (đất chuyên trồng lúa nước chỉ tiêu Quốc hội duyệt tăng thêm 2,61 nghìn ha nhưng thực tế thực hiện lại giảm 0,67 nghìn ha); trong đó có 10 tỉnh giảm với diện tích 13,34 nghìn ha (Lai Châu 3,51 nghìn ha, Bắc Giang 2,42 nghìn ha, Thái Nguyên 2,34 nghìn ha, còn lại các tỉnh Điện Biên, Yên Bái, Phú Thọ... mỗi tỉnh giảm khoảng 1 nghìn ha); 4 tỉnh tăng 10,53 nghìn ha (Sơn La 5,32 nghìn ha, Bắc Kạn 2,91 nghìn ha, Hà Giang 2,13 nghìn ha,...).

- Vùng Đồng bằng sông Hồng có 586,50 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 541,64 nghìn ha), chiếm 14,55% diện tích đất trồng lúa của cả nước. Đất trồng lúa tập trung chủ yếu tại các tỉnh như: thành phố Hà Nội (109,28 nghìn ha), Thái Bình (79,58 nghìn ha), Nam Định (75,96 nghìn ha), Hải Dương (63,75 nghìn ha),...

So với năm 2010, đất trồng lúa giảm 33,45 nghìn ha, đạt 97,67% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (đất chuyên trồng lúa nước giảm 25,84 nghìn ha, đạt 99,30%). Diện tích đất trồng lúa giảm nhiều tại thành phố Hà Nội 5,50 nghìn ha, Thái Bình 5,08 nghìn ha, Hải Phòng 4,59 nghìn ha, Nam Định 4,11 nghìn ha, Hà Nam 2,73 nghìn ha, Hải Dương 2,66 nghìn ha, Vĩnh Phúc 2,20 nghìn ha,...

- Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 696,12 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 580,34 nghìn ha), chiếm 7,25% diện tích tự nhiên của vùng và 17,27% diện tích đất trồng lúa của cả nước, tăng 0,29 nghìn ha so với năm 2010, trong đó:

+ Tiểu vùng Bắc Trung Bộ có 407,61 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 343,77 nghìn ha), chiếm 58,55% diện tích đất trồng lúa của vùng. Đất trồng lúa tập trung chủ yếu tại các tỉnh Thanh Hóa (143,02 nghìn ha), Nghệ An (105,00 nghìn ha), Hà Tĩnh (69,62 nghìn ha),...

So với năm 2010, đất trồng lúa giảm 0,27 nghìn ha, đạt 95,41% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (đất chuyên trồng lúa nước tăng 10,96 nghìn ha), trong đó có 4 tỉnh giảm (6,40 nghìn ha), Thanh Hóa 3,63 nghìn ha, Quảng Trị 1,81 nghìn ha,...; có 02 tỉnh tăng 6,13 nghìn ha (Hà Tĩnh 4,93 nghìn ha, Quảng Bình 1,19 nghìn ha).

+ Tiểu vùng Duyên hải miền Trung có 288,51 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 236,57 nghìn ha), chiếm 41,45% diện tích đất trồng lúa của vùng, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Bình Thuận (53,29 nghìn ha), Bình Định (54,00 nghìn ha), Quảng Nam (58,34 nghìn ha), Quảng Ngãi (41,91 nghìn ha).

Đất trồng lúa so với năm 2010 tăng 0,56 nghìn ha, vượt 5,58% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (trong đó đất chuyên trồng lúa nước tăng 11,95 nghìn ha), trong đó có 04 tỉnh tăng (3,98 nghìn ha), Quảng Nam 1,93 nghìn ha, Bình Thuận 0,85 nghìn ha, Bình Định 0,65 nghìn ha, Khánh Hóa 0,54 nghìn ha; có 04 tỉnh giảm (3,42 nghìn ha), Quảng Ngãi 1,61 nghìn ha, Phú Yên 0,96 nghìn ha, Đà Nẵng 0,52 nghìn ha, Ninh Thuận 0,33 nghìn ha.

- Vùng Tây Nguyên có 168,20 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 98,08 nghìn ha), chiếm 4,17% diện tích đất trồng lúa của cả nước, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Đắk Lắk (62,35 nghìn ha), Gia Lai (57,57 nghìn ha).

Đất trồng lúa so với năm 2010, tăng 1,32 nghìn ha, so với chỉ tiêu Quốc hội duyệt đạt 97,09% (đất chuyên trồng lúa nước tăng 10,58 nghìn ha, đạt 99,03%), trong đó: có 2 tỉnh tăng (4,23 nghìn ha), gồm: Đắk Lắk 3,70 nghìn, Kon Tum 0,53 nghìn ha; có 3 tỉnh giảm (2,91 nghìn ha), gồm: Gia Lai 2,18 nghìn ha, Lâm Đồng 0,44 nghìn ha, Đắk Nông 0,28 nghìn ha.

- Vùng Đông Nam Bộ có 145,69 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 86,27 nghìn ha), chiếm 3,61% diện tích đất trồng lúa của cả nước, tập trung tại tỉnh Tây Ninh (74,13 nghìn ha), Đồng Nai (29,96 nghìn ha).

Đất trồng lúa so với năm 2010, giảm 35,53 nghìn ha, so với chỉ tiêu Quốc hội duyệt vượt 9,90% (đất chuyên trồng lúa nước giảm 18,76 nghìn ha, vượt 13,67%). Đất trồng lúa giảm nhiều tại thành phố Hồ Chí Minh (10,31 nghìn ha), Tây Ninh (9,37 nghìn ha), Đồng Nai (8,77 nghìn ha), Bình Dương (4,43 nghìn ha),...

- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 1.907,75 nghìn ha (trong đó diện tích đất chuyên trồng lúa nước là 1.710,74 nghìn ha), chiếm 47,33% diện tích đất trồng lúa của cả nước, tập trung tại các tỉnh Kiên Giang (387,94 nghìn ha), Long An (263,02 nghìn ha), An Giang (255,05 nghìn ha), Đồng Tháp (225,27 nghìn ha), Sóc Trăng (147,67 nghìn ha), Cà Mau (99,57 nghìn ha), Trà Vinh (96,63 nghìn ha)...





Biểu đồ 04: Xu hướng biến động đất trồng lúa theo vùng
thời kỳ 2011 - 2015

So với năm 2010, đất trồng lúa giảm 19,27 nghìn ha, đạt 97,84% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (đất chuyên trồng lúa nước giảm 10,33 nghìn ha, đạt chỉ tiêu Quốc hội), trong đó: có 8 tỉnh giảm (39,31 nghìn ha), tập trung chủ yếu tại Cà Mau (17,31 nghìn ha), Bến Tre (7,12 nghìn ha), Tiền Giang (5,40 nghìn ha), Cần Thơ (3,65 nghìn ha)...và có 5 tỉnh tăng (20,04 nghìn ha), tập trung chủ yếu tại Kiên Giang (10,57 nghìn ha), Long An (4,42 nghìn ha), Bạc Liêu (3,91 nghìn ha), Sóc Trăng (1,08 nghìn ha),...

Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích đất trồng lúa tăng khoảng 45 nghìn ha từ đất trồng cây hàng năm, đất trồng tràm và đất chưa sử dụng; đồng thời đất trồng lúa giảm 135 nghìn ha, trong đó chuyển đổi nội bộ khoảng 40 nghìn ha sang đất trồng cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản... để nâng cao hiệu quả sử dụng đất và chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp (phát triển đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ, hạ tầng, xây dựng nông thôn mới...) khoảng 95 nghìn ha. Như vậy, đất trồng lúa thực giảm 89,44 nghìn ha, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhìn chung, diện tích đất trồng lúa trong giai đoạn 2011 - 2015 tiếp tục bị suy giảm cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên tốc độ đất trồng lúa giảm chậm hơn so với giai đoạn 2001 - 2010 và chiếm khoảng 53% diện tích đất trồng lúa được Quốc hội cho phép giảm (đất chuyên trồng lúa nước đạt 56%). Một số tỉnh diện tích đất chuyên trồng lúa nước chỉ tiêu duyệt tăng nhưng thực tế thực hiện lại giảm như Thanh Hóa, Tây Ninh, Bến Tre, Đăk Nông, Bình Dương...

Mặc dù, diện tích đất trồng lúa giảm so với năm 2010, nhưng nhờ tăng cường công tác thủy lợi, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, đưa các giống mới vào sản xuất..., nên năng suất lúa vẫn tiếp tục tăng từ 53,4 tạ/ha lên 57,6 tạ/ha (năm 2014) và sản lượng lúa tăng từ 40 triệu tấn lên 44,97 triệu tấn (tăng 10,2%). Bình quân đạt 495 kg thóc/người/năm, tăng 35 kg/người/năm so với năm 2010 (460 kg/người/năm). Hệ số sử dụng đất đạt 1,95 lần, tăng 0,13 lần so với năm 2010 (1,82 lần). Sản xuất lúa đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đồng thời đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới.

1.2. Đất rừng phòng hộ


Cả nước có 5.648,99 nghìn ha, chiếm 35,98% đất lâm nghiệp, giảm 146,48 nghìn ha so với năm 2010, chỉ tiêu Quốc hội cho phép tăng nhưng thực hiện giảm (5.826,00 nghìn ha). Gồm:

- Đất rừng tự nhiên: 3.949,85 nghìn ha;

- Đất rừng trồng: 634,77 nghìn ha;

- Đất khoanh nuôi phục hồi rừng: 729,49 nghìn ha;

- Đất trồng rừng: 334,88 nghìn ha.

Trong đất rừng phòng hộ có trên 4.200 nghìn ha rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu; 180 nghìn ha rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; 150 nghìn ha rừng chắn gió, chắn cát bay và 31 nghìn ha rừng phòng hộ bảo vệ môi trường cho các thành phố lớn, khu công nghiệp và xây dựng các khu rừng phòng hộ biên giới, hải đảo.

Đất rừng phòng hộ được phân theo các vùng như sau:

- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 2.487,44 nghìn ha, chiếm 44,03% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, giảm 209,39 nghìn ha so với năm 2010 và giảm vượt 5,92% chỉ tiêu Quốc hội duyệt; trong đó: có 7 tỉnh giảm với diện tích 281,61 nghìn ha (Cao Bằng 130,18 nghìn ha, Lai Châu 86,75 nghìn ha, Yên Bái 30,35 nghìn ha, Bắc Kạn 13,83 nghìn ha, Phú Thọ 12,14 nghìn ha, Tuyên Quang 7,68 nghìn ha...); 7 tỉnh tăng 72,22 nghìn ha (Điện Biên 30,10 nghìn ha, Lào Cai 15,27 nghìn ha, Hà Giang 14,21 nghìn ha,...).

- Vùng Đồng bằng sông Hồng có 173,46 nghìn ha, chiếm 3,07% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, tăng 4,33 nghìn ha so với năm 2010 và đạt 99,36% chỉ tiêu Quốc hội duyệt; trong đó có 6 tỉnh tăng với diện tích 7,80 nghìn ha (Quảng Ninh 5,95 nghìn ha, Vĩnh Phúc 1,11 nghìn ha, Bắc Ninh 0,54 nghìn ha...) và có 4 tỉnh giảm với diện tích 3,46 nghìn ha (Ninh Bình 1,60 nghìn ha, Hải Phòng 1,29 nghìn ha, Hà Nam 0,56 nghìn ha,...).

- Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 2.109,48 nghìn ha nghìn ha, chiếm 37,34% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, tăng 47,45 nghìn ha so với năm 2010. Trong đó:

+ Tiểu vùng Bắc Trung Bộ: có 995,56 nghìn ha, chiếm 47,19% diện tích đất rừng phòng hộ của vùng, giảm 2,33 nghìn ha so với năm 2010, thực hiện vượt chỉ tiêu Quốc hội; trong đó: có 03 tỉnh tăng với diện tích 11,73 nghìn ha (tăng chủ yếu tại tỉnh Nghệ An 8,84 nghìn ha, Thanh Hóa 2,54 nghìn ha, Quảng Trị 0,35 nghìn ha) và có 3 tỉnh giảm 14,06 nghìn ha (Quảng Bình 7,53 nghìn ha, Hà Tĩnh 5,82 nghìn ha, Thừa Thiên Huế 0,71 nghìn ha).

+ Tiểu vùng Duyên hải miền Trung: có 1.113,93 nghìn ha, chiếm 52,81% diện tích đất rừng phòng hộ của vùng, tăng 49,90 nghìn ha so với năm 2010, vượt 0,88% chỉ tiêu Quốc hội; trong đó: có 7 tỉnh tăng với diện tích 76,17 nghìn ha (Bình Định 39,99 nghìn ha, Quảng Nam 21,94 nghìn ha, Quảng Ngãi 7,30 nghìn ha,...) và có 1 tỉnh (Bình Thuận) giảm 26,27 nghìn ha.

- Vùng Tây Nguyên 634,31 nghìn ha, chiếm 11,23% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, tăng 8,30 nghìn ha so với năm 2010, đạt 99,50% chỉ tiêu Quốc hội; trong đó: có 4 tỉnh tăng với diện tích 24,54 nghìn ha (Kom Tum 14,55 nghìn ha, Đắk Lắk 4,71 nghìn ha, Gia Lai 2,55 nghìn ha,...); và có 01 tỉnh giảm (Lâm Đồng) 16,24 nghìn ha.

- Vùng Đông Nam Bộ có 158,95 nghìn ha, chiếm 2,81% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, tăng 0,17 nghìn ha so với năm 2010, vượt 1,53% chỉ tiêu Quốc hội; trong đó: có 2 tỉnh tăng 1,79 nghìn ha (thành phố Hồ Chí Minh 1,18 nghìn ha, Bình Dương 0,61 nghìn ha...) và có 4 tỉnh giảm với diện tích 1,62 nghìn ha (Bình Phước 0,60 nghìn ha, Tây Ninh 0,54 nghìn ha,...);

-
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 85,35 nghìn ha, chiếm 1,51% diện tích đất rừng phòng hộ của cả nước, tăng 2,55 nghìn ha so với năm 2010, đạt 93,75% chỉ tiêu Quốc hội. Cụ thể tại các địa phương: có 7 tỉnh tăng 6,63 nghìn ha (Bến Tre 3,00 nghìn ha, Tiền Giang 1,49 nghìn ha, Sóc Trăng 0,68 nghìn ha, Trà Vinh 0,65 nghìn ha,...) và có 3 tỉnh giảm với diện tích 4,08 nghìn ha (tập trung chủ yếu tại Kiên Giang).

Biểu đồ 05: Xu hướng biến động đất rừng phòng hộ theo vùng


thời kỳ 2011 - 2015

Nhìn chung, trong 5 năm qua, mặc dù diện tích đất rừng phòng hộ tăng, nhưng kết quả thực hiện tại các vùng có khác nhau. Các vùng có diện tích tăng gồm Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, ngược lại diện tích giảm tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long,... nguyên nhân chủ yếu do điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng. Diện tích rừng phòng hộ tăng đã góp phần nâng cao độ che phủ, duy trì sự cân bằng ổn định về môi trường đất (chống xói mòn, sa mạc hóa, tồn dư hóa chất độc hại), môi trường nước và khí hậu, giảm tác hại của thiên tai, đảm bảo cho sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, rừng tự nhiên phòng hộ tiếp tục bị suy giảm khoảng 256,07 nghìn ha trong 5 năm, tập trung tại Vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên,...


1.3. Đất rừng đặc dụng


Có 2.210,25 nghìn ha, chiếm 14,08% đất lâm nghiệp, tăng 71,05 nghìn ha so với năm 2010 và đạt 99,56% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (2.220,00 nghìn ha), bao gồm:

- Đất rừng tự nhiên 1.967,09 nghìn ha;

- Đất rừng trồng 87,36 nghìn ha;

- Đất khoanh nuôi phục hồi rừng 107,84 nghìn ha;

- Đất trồng rừng 47,94 nghìn ha.

Trong hệ thống rừng đặc dụng có 164 khu bảo tồn thiên nhiên gồm 30 vườn quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài, 45 khu bảo vệ cảnh quan văn hoá, lịch sử và môi trường và 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.

Rừng đặc dụng phân bố nhiều ở Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (923,53 nghìn ha), Tây Nguyên (488,36 nghìn ha), Trung du và miền núi phía Bắc (465,65 nghìn ha). Nhiều địa phương có diện tích rừng đặc dụng lớn như: Đắk Lắk 224,87 nghìn ha, Nghệ An 169,44 nghìn ha, Quảng Nam 137,32 nghìn ha, Quảng Bình 123,58 nghìn ha, Đồng Nai 101,26 nghìn ha, Kon Tum 90,86 nghìn ha, Lâm Đồng 85,67 nghìn ha, Thừa Thiên Huế 84,53 nghìn ha,...

Biểu đồ 06: Xu hướng biến động đất rừng đặc dụng theo vùng


thời kỳ 2011 - 2015

Giai đoạn 2011 - 2015, diện tích đất rừng đặc dụng tăng 71,05 nghìn ha so với năm 2010, vẫn thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội 9,76 nghìn ha. Diện tích rừng đặc dụng tăng chủ yếu ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc (33,30 nghìn ha), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (30,80 nghìn ha), Đồng bằng sông Cửu Long (4,96 nghìn ha), trong đó một số tỉnh tăng cao như: Hòa Bình (8,56 nghìn ha), Quảng Nam (7,69 nghìn ha), Bình Định (6,92 nghìn ha), Cao Bằng (6,10 nghìn ha), Đắk Lắk (5,56 nghìn ha), Thừa Thiên Huế (5,46 nghìn ha), Bắc Kạn (5,13 nghìn ha), Cà Mau (4,66 nghìn ha), Phú Thọ (4,76 nghìn ha),... diện tích đất rừng đặc dụng tăng chủ yếu do thành lập thêm một số khu bảo tồn và trồng mới đất rừng; đã góp phần tạo môi trường thuận lợi để bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái đặc thù, bảo tồn quỹ gen, bảo tồn sự đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, việc sử dụng đất rừng đặc dụng vẫn còn tồn tại sau:

- Hiện tượng xâm canh, xâm cư đối với một số khu rừng đặc dụng còn xảy ra do áp lực về đất đai và khai thác tài nguyên.

- Hiện tượng xâm lấn ranh giới giữa các khu rừng đặc dụng với vùng đệm, kể cả những nơi ranh giới đã được xác định còn xảy ra khá phổ biến dọc theo vùng ranh giới. Tại những nơi dân còn sống trong rừng hay nương rẫy của họ còn ở bên trong khu rừng đặc dụng, thường xảy ra xâm phạm ranh giới để khai thác tài nguyên rừng để sản xuất (tại các Vườn quốc gia: Ba Vì, Tam Đảo, Cát Tiên, Yok Don,...). Trong quá trình thành lập một số khu rừng đặc dụng, vẫn có diện tích đất của một số cơ quan Nhà nước và các hộ dân nằm bên trong và phần giáp ranh của các khu rừng đặc dụng.

1.4. Đất rừng sản xuất


Có 7.840,91 nghìn ha, chiếm 49,94% đất lâm nghiệp, tăng 409,11 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân mỗi năm tăng khoảng 81,82 nghìn ha), đạt 99,04% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (7.917,00 nghìn ha), gồm:

Trong đất rừng sản xuất có:

- Đất rừng tự nhiên: 4.103,77 nghìn ha;

- Đất rừng trồng: 2.070,84 nghìn ha;

- Đất khoanh nuôi phục hồi rừng: 746,55 nghìn ha;

- Đất trồng rừng: 919,75 nghìn ha.

Rừng sản xuất phân bố nhiều ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc (2.939,86 nghìn ha), Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (2.646,27 nghìn ha), Tây Nguyên (1.686,10 nghìn ha)... Một số địa phương có diện tích rừng sản xuất lớn như: Nghệ An 512,70 nghìn ha, Gia Lai 479,34 nghìn ha, Lạng Sơn 446,12 nghìn ha, Kon Tum 386,60 nghìn ha, Lâm Đồng 321,44 nghìn ha, Thanh Hóa 318,54 nghìn ha, Đắk Lắk 307,36 nghìn ha, Quảng Bình 304,18 nghìn ha, Yên Bái 284,57 nghìn ha,...

B
iểu đồ 07: Xu hướng biến động đất rừng sản xuất theo vùng


thời kỳ 2011 - 2015

So với năm 2010, diện tích đất rừng sản xuất tăng 409,11 nghìn ha so với năm 2010, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội 76,09 nghìn ha. Diện tích rừng sản xuất tăng thêm tập trung tại các vùng như: Trung du và miền núi phía Bắc (406,09 nghìn ha), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (104,54 nghìn ha). Một số địa phương có diện tích rừng sản xuất tăng cao như: Cao Bằng 123,61 nghìn ha, Lai Châu 102,21 nghìn ha, Quảng Nam 60,17 nghìn ha, Sơn La 28,09 nghìn ha, Yên Bái 26,81 nghìn ha, Lâm Đồng 24,73 nghìn ha, Bình Định 15,66 nghìn ha... Nguyên nhân tăng chủ yếu do khoanh nuôi, trồng mới diện tích rừng.

Diện tích đất rừng sản xuất tăng góp phần nâng cao sản lượng khai thác gỗ (từ 4 triệu m3 năm 2010 lên 6,5 triệu m3 vào năm 2014), cung cấp một phần cho công nghiệp giấy, mỏ, dăm gỗ, cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu; tham gia tích cực vào tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc ít người.

Tuy nhiên, công tác giao đất, giao rừng mới chỉ tập trung giao đất chứ chưa thực sự giao rừng và tài sản trên đất rừng được giao. Nhiều nơi, diện tích rừng và đất rừng chưa được giao, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Việc lấn chiếm, tranh chấp diễn ra phức tạp; hồ sơ giao đất, giao rừng thiếu nhất quán, quản lý không chặt chẽ, đồng bộ.

- Tình trạng phá rừng, khai thác, sử dụng đất lâm nghiệp trái phép vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở các địa phương còn nhiều rừng tự nhiên. Nhiều điểm nóng về phá rừng nghiêm trọng, kéo dài chưa được giải quyết triệt để, tình trạng phá rừng trái pháp luật còn diễn ra phổ biến ở nhiều nơi.

- Các lâm trường quốc doanh trước đây sau khi đã sắp xếp lại và chuyển thành công ty vẫn chưa có cơ chế tổ chức quản lý phù hợp, chưa đủ sức bảo vệ rừng được giao, không có cơ chế tạo nguồn thu ổn định cho chủ rừng trong cơ chế thị trường và gắn trách nhiệm vật chất của chủ rừng với kết quả bảo vệ rừng.

- Việc khai thác rừng mới chỉ chú ý ở các lâm trường, doanh nghiệp nhà nước mà chưa chú ý coi trọng đối với các chủ rừng khác. Hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng; người dân sống trong rừng, gần rừng hầu như không có hưởng lợi gì từ việc khai thác rừng của các đơn vị nhà nước nên đã nẩy sinh mâu thuẫn về lợi ích giữa người dân và các chủ rừng nhà nước; nhất là đối với các hộ gia đình sinh sống ở miền núi đa số còn nghèo không đủ điều kiện để sản xuất, kinh doanh nghề rừng trên diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao, trong khi đó ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác này còn hạn chế.

1.5. Đất nuôi trồng thuỷ sản


Có 749,11 nghìn ha, chiếm 2,80% diện tích nhóm đất nông nghiệp, đạt 99,88% chỉ tiêu Quốc hội duyệt (749,99 nghìn ha). Trong đó:

- Đất nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn có 460,11 nghìn ha, chiếm 61,42%;

-
Đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt có 289 nghìn ha, chiếm 38,58%.

Biểu đồ 08: Xu hướng biến động đất nuôi trồng thủy sản theo vùng


thời kỳ 2011 - 2015

Diện tích đất nuôi trồng thủy sản tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long 508,58 nghìn ha (chiếm 67,89%), Đồng bằng sông Hồng 107,45 nghìn ha (chiếm 14,34%). So với năm 2010, đất nuôi trồng thủy sản tăng 59,28 nghìn ha (bình quân tăng 11,86 nghìn ha/năm). Nguyên nhân tăng chủ yếu do chuyển từ đất trồng lúa bị nhiễm mặn, tập trung tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Cà Mau 41,34 nghìn ha).

Ngoài ra, theo thống kê cả nước còn có khoảng trên 312 nghìn ha đất nuôi trồng thủy sản biển ngoài diện tích nội địa, trong đó nuôi cá khoảng trên 1,8 nghìn, nuôi tôm khoảng 283 nghìn, còn lại là nuôi trồng thủy sản hỗn hợp.

Diện tích đất nuôi trồng thủy sản tăng góp phần nâng sản lượng nuôi trồng thủy sản từ 2,73 triệu tấn năm 2010 lên 3,41 triệu tấn năm 2014, đáp ứng đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, việc chuyển một số lớn diện tích đất nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản nước mặn ở một số địa phương còn thiếu cân nhắc đến lợi ích chung toàn vùng, đã có những ảnh hưởng không tốt đến ngành trồng trọt, nhất là trồng lúa; diện tích nuôi trồng thủy sản còn phát triển theo phong trào; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn hạn chế; tư duy sản xuất nhỏ, thiếu định hướng, tầm nhìn, thiếu chính sách cụ thể sử dụng đất, mặt nước lâu dài, ổn định, thiếu vốn đầu tư...; cơ sở hạ tầng thủy lợi vùng nuôi còn nhiều bất cập, hầu hết hiện nay hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản sử dụng chung, cùng hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, vì vậy nguy cơ về ô nhiễm nguồn nước và dịch bệnh từ việc dùng các loại hóa chất, thuốc trừ sâu, phân bón trong nông nghiệp thải ra nguồn nước.

1.6. Đất làm muối


Năm 2015 có 16,70 nghìn ha (trong đó diện tích đất sản xuất muối công nghiệp khoảng 3,91 nghìn ha), giảm 1,16 nghìn ha so với năm 2010. Tuy nhiên, so với chỉ tiêu Quốc hội duyệt (14,78 nghìn ha), diện tích đất làm muối vẫn còn cao hơn 1,92 nghìn ha. Diện tích sản xuất muối tập trung chính ở các tỉnh: Ninh Thuận (3,98 nghìn ha), Bạc Liêu (2,81 nghìn ha), Bến Tre (2,20 nghìn ha), TP. Hồ Chí Minh (1,00 nghìn ha), Bà Rịa - Vũng Tàu (0,92 nghìn ha), Nam Định (0,92 nghìn ha)...

Tuy nhiên, trong những năm qua diện tích đất làm muối có sự tăng giảm thất thường, không ổn định do: sản xuất muối phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thị trường tiêu thụ khó khăn, giá muối xuống thấp, làm cho thu nhập từ sản xuất muối không cao nên nhiều hộ diêm dân không mặn mà sản xuất muối mà bỏ đi làm các việc khác có thu nhập cao hơn; một số nơi nghề nuôi trồng thuỷ sản đem lại thu nhập cao dẫn đến các hộ diêm dân chuyển sản xuất muối sang nuôi trồng thuỷ sản; khi giá muối tăng lên, nghề nuôi trồng thuỷ sản gặp rủi ro thì người dân lại chuyển đất nuôi trồng thuỷ sản sang sản xuất muối...


1.7. Các loại đất nông nghiệp còn lại


Ngoài các loại đất nông nghiệp nêu trên, cả nước còn 6.294,67 nghìn ha các loại đất nông nghiệp khác còn lại (chiếm 23,50% diện tích nhóm đất nông nghiệp), cụ thể gồm các loại đất:

a. Đất trồng cây hàng năm còn lại

Có 2.348,03 nghìn ha, tăng 30,60 nghìn ha so với năm 2010 và chiếm 37,30% diện tích các loại đất nông nghiệp còn lại. Đây là diện tích chuyên trồng các loại rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày,... tập trung ở các vùng: Tây Nguyên 712,20 nghìn ha, Trung du và miền núi phía Bắc 694,51 nghìn ha, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 614,16 nghìn ha,...



b. Đất trồng cây lâu năm

Đến năm 2015, cả nước có 3.926,68 nghìn ha (chiếm 62,38% diện tích đất nông nghiệp còn lại), tăng 238,20 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân mỗi năm tăng khoảng 47,63 nghìn ha). Diện tích cây lâu năm tập trung chủ yếu tại vùng Tây Nguyên 1.149,82 nghìn ha, Đông Nam Bộ 1.031,83 nghìn ha, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 668,00 nghìn ha, Đồng bằng sông Cửu Long 551,71 nghìn ha. Diện tích đất trồng cây lâu năm tăng do một số địa phương đã chuyển một phần đất trồng cây hàng năm kém hiệu quả, đất rừng sản xuất và khai thác đất chưa sử dụng sang trồng cây lâu năm trong quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả.

Trong đất trồng cây lâu năm có:

- Đất trồng cây công nghiệp lâu năm có 2.466,45 nghìn ha, tập trung ở các vùng Tây Nguyên 1.121,81 nghìn ha, Đông Nam Bộ 862,66 nghìn ha, Trung du và miền núi phía Bắc 165,22 nghìn ha... Trong đất trồng cây công nghiệp lâu năm diện tích đất trồng cây cao su là 956 nghìn ha, cà phê 635 nghìn ha, điều 311 nghìn ha, chè 128 nghìn ha, Hồ tiêu 68 nghìn ha,...

Năng suất và sản lượng các loại cây công nghiệp lâu năm chủ lực như: cao su, cà phê, tiêu,... đều tăng so với năm 2010, đưa nước ta trở thành một trong những nước có mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn trên thế giới. Tuy nhiên, việc phát triển các loại cây này đã và đang tiếp tục làm giảm diện tích rừng, đặc biệt ở vùng Tây Nguyên.

- Đất trồng cây ăn quả có 542,15 nghìn ha, tập trung ở các vùng: Đồng bằng sông Cửu Long 236,65 nghìn ha, Trung du và miền núi phía Bắc 126,92 nghìn ha, Đông Nam Bộ 70,26 nghìn ha. Trong đất trồng cây ăn quả diện tích đất trồng xoài 85 nghìn ha, cây vải 70 nghìn ha, nhãn 78 nghìn ha, cam - quýt 70 nghìn ha, chôm chôm 25 nghìn ha...

Ngoài ra, cả nước còn 918,08 nghìn ha đất trồng cây lâu năm khác.

c. Đất nông nghiệp khác

Có 20,18 nghìn ha, chiếm 0,32% diện tích các loại đất nông nghiệp khác còn lại.




tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương