3. Phí, lệ phí trong lĩnh vực y tế
Phí, lệ phí trong lĩnh vực y tế là khoản tiền thu tại thời điểm sử dụng dịch vụ y tế như phí đăng kí, phí tư vấn, chi phí cho các loại thuốc và vật tư y tế hoặc chi phí cho bất kì dịch vụ y tế cho bệnh nhân ngoại trú và nội trú.80
Mục tiêu của việc thu phí đối với dịch vụ y tế nhằm: cải tiến chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng các dịch vụ thông qua đó tác động đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong; Tăng nguồn huy động cho ngân sách nhà nước; nâng cao vốn chủ sở hữu thực hiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông qua tái phân bổ các nguồn lực thu được thông qua viện phí.
Xu hướng áp dụng phí y tế hiện nay Trong những năm gần đây, một số nước đã thực hiện cải cách về viện phí theo hướng miễn phí đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, trọng tâm là thực hiện chăm sóc sức khỏe đối với phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ. Theo khảo sát trên 49 nước Châu Á và Châu phi có 88% các nước khảo sát áp dụng viện phí (User fees). Trong 50 nước khảo sát, chỉ có 6 nước không áp dụng bất cứ hình thức phí nào trong khu vực công bao gồm các nước Châu Á như: Angola, Liberia, Madawi, Nam sudan, Uganda, Gambia, còn lại các nước đều áp dụng. 81
Chính sách Viện phí tại các nước châu Phi
Người sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe công ở hầu hết các nước châu Phi được yêu cầu thanh toán phí tạo thời điểm sử dụng dịch vụ. Một vài nước châu Phi đã bắt đầu thu viện phí từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Nhìn chung ít nhất phải thanh toán 1 số phí trước khi nhận được chăm sóc, đặc biệt đối với bệnh nhân ngoại trú. Phí có thể áp dụng đồng thời đối với tất cả dịch vụ hoặc từng dịch vụ nhận được ví dụ như tư vấn, xét nghiệm chẩn đoán, phân phối thuốc…
Dịch vụ y tế phục vụ cho sức khỏe cộng đồng ví dụ điều trị các bệnh truyền nhiễm, tiêm chủng cho trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc tiền sản thường được miễn phí.
Ở một số nước, nguồn thu từ phí được đơn vị thu để lại một phần hoặc toàn bộ để mua vật tư dược phẩm bổ sung hoặc cải thiện chi phí vệ sinh cho đơn vị… Thông thường việc sử dụng các khoản thu từ phí này được cơ quan địa phương quyết định.
Nguồn: Lucy Gilson, 2005, “Removing user fees for primary care in Africa: the need for careful action”.
|
Những cải cách gần đây trong quy định về viện phí ở một số nước
Cải cách đối với quy định viện phí
|
Quốc gia
|
Miễn phí đối với nhóm ưu tiên (hầu hết các nước miễn phí cho trẻ e dưới 5 tuổi, Sê nê gan: miễn phí cho người cao tuổi)
|
Sê-nê-gan, Ghana, Mali, Benin, Burkina, Faso, Burundi, Kenya, Madagasca, Bắc Sudan, Nê-pan, Sierra Leone
|
Thực hiện những chăm sóc sức khỏe miễn phí (cả gói dịch vụ y tế hoặc gói chăm sóc)
|
Nê pan, Zambia , Nam Phi, Lesotho, Liberia
|
Thực hiện chăm sóc miễn phí (hoặc định nghĩa theo cấp dịch vụ y tế hoặc một gói dịch vụ chăm sóc
|
Tazania, Kenya, Rwanda, Ghana
|
Các chương trình bảo hiểm nhắm vào trợ cấp cho người nghèo
|
In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc, Việt Nam
|
Tất cả dịch vụ chăm sóc trong lĩnh vực công miễn phí
|
Uganda, Nam Sudan
|
Thu phí đối với những dịch vụ cung cấp
|
Băng la đét, Camerun
|
Miễn theo khu vực
|
Afghanistan
|
Phí chương trình quốc gia (và khuyến khích nhu cầu biên)
|
Ấn độ (Nepan ..)
|
Quỹ y tế
|
Cam-pu-chia
|
Cam-pu-chi-a
Phí trong lĩnh vực y tế đã được giới thiệu ở Cam-pu-chi-a từ năm 1996 trong Hiến chương Quốc gia về Tài chính y tế (National charter on Health financing) cho phép thực hiện các loại phí sử dụng (user charges). Năm 2008, gần như 100% cơ sở y tế công lập của chính phủ đã thực hiện các chương trình về phí sử dụng.
Thẩm quyền ban hành: Hiến chương quy định viện phí được thiết lập bởi Ủy ban quản lý trung tâm y tế (Health center Management Committees) trong đó có sự tham gia của cộng đồng. Ủy ban có trách nhiệm thiết lập mức phí hợp lí cho từng địa phương.
Ở cấp Trung ương: Các chương trình cần phải được trình lên Bộ Y tế phê duyệt. Việc phân bổ các khoản thu từ viện phí được thực hiện theo sắc lệnh của chính phủ: 99% được sử dụng để hỗ trợ nhân công; 39% cho chi phí hoạt động. Bộ y tế có trách nhiệm theo dõi thu và chi từ nguồn thu viện phí.
4. Lệ phí trước bạ đối với phương tiện ô tô, mô tô, xe máy
Chính sách thu đối với hoạt động mua, chuyển nhượng phương tiện giao thông (ô tô, xe máy) trên thế giới là khá đa dạng và có nhiều tên gọi khác nhau. Có nước gọi là phí (lệ phí), có nước gọi là thuế.
Nhiều nước thu lệ phí đăng ký (tương tự lệ phí trước bạ ở nước ta) khi thực hiện đăng ký phương tiện (bao gồm đăng ký lần đầu và đăng ký lại) với mục đích là để bù đắp cho các chi phí liên quan trong quá trình thực hiện đăng ký. Tuy nhiên, cách tính và mức thu những loại phí (lệ phí) này ở các nước rất khác nhau. Ở một số nước, giữa đăng ký lần đầu và đăng ký lần sau có tên gọi khác nhau, ví dụ ở một số bang của Úc, đăng ký lần đầu thì người đăng ký nộp phí đăng ký (registration fees), đăng ký sau khi chuyển nhượng thì nộp phí đăng ký chuyển nhượng (registration transfer fees).
Một số nước còn áp dụng các khoản thu tại thời điểm đăng ký lần đầu (hoặc chuyển nhượng lần sau) như là một khoản thuế. Ví dụ, ở Trung Quốc, khi mua/chuyển nhượng phương tiện thì người mua phải chịu thuế mua sắm phương tiện (Tax on Buying Vehicles) hay ở Úc người mua phương tiện phải nộp thuế thuế tem (stamp duty). In-đô-nê-xi-a cũng có loại thuế tương tự thu vào lúc đăng ký hoặc chuyển nhượng. Cách thu các loại thuế này ở các nước thu cơ bản như lệ phí trước bạ ở nước ta (đều do người mua trả), song chỉ khác các nước gọi là thuế.
Qua tham khảo kinh nghiệm một số nước, có thể khái quát một số nét chính về chính sách thu lệ phí đăng ký, thuế đăng ký (gọi chung là các khoản thu từ đăng ký phương tiện) như sau:
Về phương thức thu: Tham khảo kinh nghiệm của một số nước cho thấy, hiện có hai phương thức thu các khoản thu từ đăng ký phương tiện chủ yếu. Phương thức thứ nhất là thu theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị của phương tiện khi đăng ký (ví dụ như Hàn Quốc, Trung Quốc...). Phương thức thứ hai là thu theo mức giá trị tuyệt đối bằng tiền. Phương thức thứ hai được áp dụng ở nhiều nước phát triển (ví dụ, như Úc, Mỹ...) và có bản chất của một khoản “lệ phí” nhiều hơn. Các nước áp dụng phương thức thu theo tỷ lệ phần trăm thường gọi là thuế (ví dụ như, Hàn Quốc gọi là thuế đăng ký và cấp phép, Trung Quốc gọi là thuế mua sắm phương tiện, các bang ở Úc gọi là thuế tem...). Ngoài ra, đối với ô tô, có nước thu một mức thống nhất, không phân biệt loại xe, song nhìn chung phần lớn các nước là thu phân biệt theo đặc điểm xe (như phân biệt theo dung tích xi lanh, tải trọng, ví dụ Mỹ, Hàn Quốc).
Về mức thu: Mức thu của các nước rất khác nhau. Ví dụ như ở bang ACT (thủ đô Canberra) của Úc, mức thu đối với xe đăng ký lần đầu là 79,3 AUD, đối với xe chuyển nhượng là 34,5 AUD. Đối với những nước thu theo tỷ lệ phần trăm thì mức thu thường tính trên giá bán tại thời điểm đăng ký. Ở Hàn Quốc, ô tô không sử dụng vào mục đích kinh doanh, có mức thu thuế đăng ký là 5%, nếu xe có dung tích xi lanh dưới 1000 cc có mức thu là 2% (tính trên giá chuyển nhượng). Mức thu thuế đăng ký và chuyển nhượng ở In-đô-nê-xia là 10%, riêng Thủ đô Jakarta là 20%. Mức thu thuế mua sắm phương tiện ở Trung Quốc là 10% (năm 2009 có thời điểm giảm xuống 5% để kích thích tiêu dùng do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu).
Ngoài ra, một số quốc gia còn quy định mức thu phân biệt theo mục đích sử dụng phương tiện, ví dụ như ở Hàn Quốc, Úc (đối với thuế tem). Thông thường, phương tiện sử dụng cho mục đích cá nhân thường phải chịu mức cao hơn. Đây cũng là chính sách được một số nước sử dụng để hạn chế sự gia tăng của phương tiện cá nhân, nhất là đối với những nước áp dụng chính sách thu theo tỷ lệ phần trăm, ví dụ như Hàn Quốc.
Nhìn chung nhiều quốc gia đều không phân biệt về mức thu giữa đăng ký lần đầu và đăng ký khi chuyển nhượng các lần tiếp theo. Tuy nhiên, cũng có quốc gia có phân biệt giữa mức thu đăng ký lần đầu và mức thu từ lần chuyển nhượng thứ hai trở đi (ví dụ như một số bang của Úc). Mức lệ phí trước bạ đối với lần chuyển nhượng thứ hai thường thấp hơn so với lần đầu.
Ngoài ra, để khuyến khích người dân thực hiện đăng ký, pháp luật của nhiều nước đều có quy định về thời hạn phải thực hiện đăng ký (ở Canberra của Úc quy định là trong 14 ngày). Nếu quá thời hạn này mà người mua không thực hiện đăng ký thì ngoài những hình phạt khác còn phải chịu mức lệ phí trước bạ ở mức cao hơn (ví dụ nêu đăng ký trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày mua, mức phí là 24,5 USD, song nếu quá thời hạn này, mức phí là 93,1 AUD).
Cụ thể một số nước:
Hàn Quốc
Thuế trước bạ (Lệ phí trước bạ) ở Hàn Quốc82 là một sắc thuế địa phương. Người nộp thuế trước bạ là người đăng ký quyền sở hữu tài sản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp mua, tạo lập, chuyển nhượng, thay đổi, mất hiệu lực đối với quyền sở hữu. Căn cứ tính thuế là thuế suất và giá trị tài sản tại thời điểm đăng ký quyền sở hữu tài sản do người nộp thuế kê khai. Trường hợp người nộp thuế khai giá trị tài sản thấp hơn “giá trị chuẩn” do chính quyền địa phương quy định hàng năm thì áp dụng “giá trị chuẩn”. Hàn Quốc áp dụng thuế trước bạ không phân biệt đăng ký mới và đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu.
Phương tiện
|
Thuế suất
|
Ô tô không sử dụng vào mục đích kinh doanh
|
5%
2% đối với phương tiện có dung tích xi-lanh dưới 1.000cc
|
Xe buýt, xe tải, xe chuyên dùng, xe 3 bánh trở xuống không sử dụng vào mục đích kinh doanh
|
3%
2% xe loại nhẹ
|
Xe buýt, xe tải, xe chuyên dùng, xe 3 bánh trở xuống sử dụng vào mục đích kinh doanh
|
2%
|
Úc83
Lệ phí đăng ký (registration fee) thuộc thẩm quyền quyết định của các bang. Chẳng hạn vùng Lãnh thổ Thủ đô Úc (ACT) quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với các phương tiện giao thông là mức thu tuyệt đối:
Lệ phí chuyển nhượng lần đầu
|
Mức thu (đô-la Úc)
|
Đăng ký lần đầu các phương tiện giao thông
|
79,30
|
Đăng ký lần đầu xe re-mooc chở hàng, xe re-mooc chở thiết bị, mô tô
|
47,70
|
Đăng ký lại các phương tiện giao thông
|
40,20
|
Lệ phí trước bạ chuyển nhượng các phương tiện giao thông
|
34,50
|
Trường hợp chậm làm thủ tục đăng ký và nộp lệ phí trước bạ chuyển nhượng các phương tiện giao thông (sau 14 ngày, kể từ ngày mua)
|
93,10
|
Ngoài ra, ở Úc khi chuyển nhượng ô tô, người mua còn phải chịu thuế tem (stamp duty) với mức thu cao hơn. Đây là số tiền mà người mua phải đóng để hoàn thành thủ tục chuyển nhượng ngoài lệ phí đăng ký nói trên. Mức thu cũng do các Bang quyết định và thường theo mức lũy tiến theo giá trị xe. Cụ thể mức thu ở Bang Nam Úc như sau:
Giá trị xe
|
Xe không sử dụng cho mục đích thương mại
|
Không quá $1000
|
1%, mức tối thiểu là $5
|
Trên $1000 nhưng không quá $2000
|
$10 + 2% cho phần trên $1000
|
Trên $2000 nhưng không quá $3000
|
$30 cộng 3% cho phần trên $2000
|
Trên $3000
|
$60 cộng 4% cho phần trên $3000
|
Xe sử dụng cho mục đích thương mại chịu mức thuế suất thấp hơn so với mức thuế suất quy định ở trên.
Trung Quốc
Theo quy định “Điều lệ tạm thời thuế trước bạ xe có động cơ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”- Pháp lệnh số 294 của Quốc Vụ Viện, ban hành ngày 22/10/2000, có hiệu lực từ ngày 1/1/2001. Đối tượng nộp thuế bao gồm ô tô, xe máy, xe điện, xe kéo, xe nông nghiệp. Mức thuế suất áp dụng là 10% tính trên giá trị xe. Giá trị xe là giá tại thời điểm giao dịch và trong một số trường hợp áp dụng theo mức giá tối thiểu do chính quyền quy định.
In-đô-nê-xi-a
In-đô-nê-xi-a là quốc gia đánh thuế đăng ký và chuyển nhượng phương tiện khá cao. Mức thuế suất áp dụng là 10% tính trên giá giao dịch. Ở Jakarta, mức thuế suất còn lên đến 20% (do đây là địa bàn có mật độ giao thông lớn và chính phủ In-đô-nê-xi-a có chính sách hạn chế phương tiện giao thông).
Xinh-ga-po
Chi phí sở hữu và lưu hành một phương tiện cá nhân rất cao ở Xin-ga-po, đặc biệt trong bối cảnh đây là một quốc gia có thu nhập bình quân đầu người ở mức 50.714 USD/người/năm (xếp thứ 11 trên thế giới, năm 2011)84 và hệ thống giao thông công cộng thuộc nhóm hiện đại và phát triển nhất trên thế giới.
Lệ phí đăng ký cho xe sở hữu tư nhân là 1000 Đô la Xin-ga-po và 5000 Đôla Xin-ga-po cho công ty đăng ký. Ngoài ra khi một chiếc xe hơi được đăng ký đầu tiên (mới sử dụng), chủ sở hữu phải nộp lệ phí đăng ký bổ sung (ARF) bằng 150% giá trị xe ô tô trên thị trường (OMV). Tất cả các xe có động cơ phải được đăng ký với Bộ Giao thông đường bộ (LTA).
Ma-lai-xi-a
Chi phí sở hữu và vận hành một phương tiện đi lại (CVO) ở Ma-lai-xi-a bao gồm 2 loại cơ bản : giá mua xe và chi phí vận hành xe (gồm: lệ phí đăng ký, phí bảo hiểm, thuế đường bộ và chi phí nhiên liệu). Ma-lai-xi-a là nước có chi phí vận hành xe thấp nhất trong khu vực ASEAN, mặc dù giá mua xe ô tô ở Ma-lai-xi-a đắt thứ hai trong khu vực, chỉ sau Xin-ga-po85.
Đài Loan
Đài Loan áp dụng “Phí sử dụng biển số” đối với phương tiện giao thông. Đây là 1 loại phí địa phương, được dùng bổ sung cho ngân sách chi tiêu của địa phương. Phí sử dụng biển số áp dụng đối với các loại phương tiện giao thông được cấp biển số, ngoại trừ các phương tiện giao thông phục vụ trong quân đội, an toàn công cộng như xe cảnh sát, cứu thương, cứu hỏa, xe ngoại giao, xe người khuyết tật…86
Phí sử dụng biển số mỗi năm phải nộp 1 lần, và chủ xe được phép đăng ký tạm ngừng hoặc ngừng sử dụng nếu không có nhu cầu sử dụng. Mục đích chủ yếu của loại phí này là khuyến khích người dân sử dụng phượng tiên giao thông công cộng, và tiết kiệm chi phí lưu thông nếu không có nhu cầu lưu hành xe. Do đó, về bản chất, có thể coi đây là phí lưu hành phương tiện giao thông cá nhân.
Mức phí được tính căn cứ vào mục đích kinh doanh, loại phương tiện giao thông, cũng như dung tích động cơ. Về thời gian nộp phí, xe cá nhân: mỗi năm nộp 1 lần, trong tháng 4. Xe kinh doanh, mỗi năm nộp 1 lần, trong tháng 4 hoặc tháng 10.87
Trên đây là nội dung Báo cáo Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phí, lệ phí phục vụ cho Dự án Luật phí, lệ phí trình Quốc hội xem xét, thông qua.
CHÍNH PHỦ
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |