Chương ĐẤt và dinh dưỠng đẤt gs. Tskh: Đỗ Đình Sâm pgs. Ts: Ngô Đình Quế Ts: Nguyễn Tử Siêm ks: Nguyễn Ngọc Bình


a. Dạng địa hình xói mòn (đất dốc)



tải về 2.06 Mb.
trang2/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích2.06 Mb.
#31118
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

a. Dạng địa hình xói mòn (đất dốc)
Có tổng diện tích 22.203.600 ha (chiếm 67 % diện tích tự nhiên), bao gồm:
Đất ít dốc: Có độ dốc từ 3 - < 15º, có diện tích 4.461.600 ha.
Đất dốc trung bình, có độ dốc từ 15 – 25º, có diện tích 2.905.000 ha.
Đất dốc mạnh và rất mạnh > 25º, có diện tích 14.837.000 ha.
Theo các kết quả nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình (Viện KHLN –

2000) thì trong 7 vùng kinh tế lâm nghiệp ở vùng đồi núi nước ta, có các cấp độ dốc khác nhau như sau:


Đất dốc nhẹ, có độ dốc < 15º , có diện tích 2.867.900 ha (chiếm 14,23 % diện tích tự

nhiên).
Đất có độ dốc trung bình và hơi mạnh: 15 – 25º, có diện tích 2.604.960 ha (chiếm

12,92 % diện tích tự nhiên).
Đất có độ dốc mạnh: 25 – 35º, có diện tích 5.182.280 ha (chiếm 25,71 % diện tích tự

nhiên).
Đất có độ dốc rất mạnh: > 35º, có diện tích 9.499.640 ha (bao gồm cả núi đá vôi có độ độ dốc gần như dựng đứng), chiếm 47,13 % diện tích tự nhiên.


Các kết quả nghiên cứu về xói mòn đất ở nước ta đã chứng tỏ rằng, nếu lượng mưa trong một lần mưa đạt trên 10 mm, với cường độ mưa trung bình 0,275 mm/phút, thì ngay cả những vùng đất có độ dốc nhẹ 8 – 10 º, với chiều dài của sườn dốc ngắn, đều luôn xuất hiện dòng chảy trên mặt đất, gây ra hiện tượng xói mòn đất, một hiện tượng quan trọng làm giảm độ phì và độ dày của đất.
Các nghiên cứu của Bùi Ngạnh (Viện KHLN 1963 – 1965) đã cho thấy trên đất Feralít đỏ vàng trên đá biến hình, có độ dốc 22º, với lượng mưa trung bình hàng năm là 1.980 mm/năm, ở nơi có rừng tự nhiên lá rộng nhiệt đới thường xanh, có kết cấu nhiều tầng cây, với độ tàn che 0,7 – 0,8 thì lượng dòng chảy trên mặt đất là 802 m³/ha/năm và lượng đất bị xói mòn 1 tấn/ha/năm (có thể chấp nhận không gây nguy hại).
Tuy vậy, sau khi rừng tự nhiên bị tàn phá, mặt đất bị phơi trống thì lượng dòng chảy trên mặt đất đã tăng lên gần 6 lần (58 %) với lượng dòng chảy lên tới 4.680 m³/ha/năm và lượng đất bị xói mòn là 124 tấn/ha/năm (tăng lên 124 lần) với lớp đất mặt bị bào mòn 1,5 cm.
Các kết quả nghiên cứu của Bùi Quang Toản (1962 – 1964) trên đất Feralít vàng đỏ trên phiến thạch sét ở tỉnh Sơn La, với độ dốc 24 – 26º và lượng mưa hàng năm 1.300 mm (không cao) cho thấy:
Sau 3 năm canh tác lúa nương, không áp dụng các biện pháp chống xói mòn, thì tổng

9

lượng đất mặt đã bị xói mòn là 366,7 tấn/ha, với lớp đất bề mặt bị lấp đi 2,44 cm. Hàm lượng mùn ở lớp đất mặt lúc đầu là 4,61 %, sau 3 năm chỉ còn 2,42 %. Lượng N % tổng số lúc đầu là 0,21 %, sau 3 năm chỉ còn 0,13 %.



Khi độ dốc càng mạnh thì dòng chảy trên mặt đất càng tăng và lượng đất bị xói mòn càng lớn hơn.

Bảng 2: Kết quả nghiên cứu ở trạm sông Cầu - Thái Nguyên (1967-1968) trên đất phiến thạch sét



Độ dốc

Dòng chảy trên mặt

Lượng đất bị xói mòn




m³/ha/năm


%


tấn/ha/năm


%


10 º


2.520


100


25,5


100


15 º


3.780


150


44,7


175


25 º


5.080


201


100,8


395

Nguồn: Kết quả nghiên cứu của Trạm Sông Cầu, Thái Nguyên (1967-1968)


Trên đất dốc, trong quá trình sử dụng đất không áp dụng các biện pháp chống xói mòn, sẽ dễ dàng hình thành loại đất xói mòn trơ sỏi đá, không mang tính địa đới.
Bên cạnh quá trình xói mòn đất, một tác nhân nguy hiểm nhất, thường xuyên uy hiếp ở vùng độ dốc, làm thoái hoá nhanh chóng nguồn tài nguyên đất đai đó là quá trình rửa trôi trong đất với nhiều mức độ khác nhau.
b. Dạng địa hình rửa trôi (đất bằng)
Dạng địa hình đất bằng, chủ yếu tập trung ở các vùng đất phù sa châu thổ, có diện tích khoảng hơn 8 triệu ha.
Trong quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp không đúng sẽ dẫn đến sự rửa trôi các khoáng sét và các chất dinh dưỡng N, P, K, Ca, Mg, xuống các tầng đất sâu hơn, tạo thành các loại đất bất đồng hoá phẫu diện và đặc biệt xuất hiện loại đất bạc màu.
c. Dạng địa hình bồi tụ (đất trũng)
Đây là vùng đất trũng, trong quá trình tự nhiên hình thành đất, kết hợp với quá trình sử

dụng, sẽ xuất hiện các loại đất sau:


- Đất lầy thụt bị glây mạnh.
- Đất phèn mạnh do quá trình đọng phèn.
- Đất đen thuỷ thành v.v…
1.3. Đặc điểm đá mẹ và mẫu chất hình thành đất
Các loại đá mẹ và mẫu chất hình thành đất ở các miền nhiệt đới nói chung và ở Việt

10

Nam nói riêng rất phức tạp, có sự khác nhau rất lớn về các thành phần khoáng vật tạo thành



đá và mẫu chất.
Các loại đá mẹ hình thành đất ở Việt Nam có thể chia thành 3 nhóm cơ bản:
Nhóm đá mác ma gồm có:
- Tro núi lửa: Đây là sản phẩm tro phun trào của núi lửa trong đó có chứa nhiều manhêtít, nên hình thành đất có màu đen, đất có phản ứng ít chua, với độ bão hoà bazơ cao

80%, đặc biệt rất giàu P2O5 và K2O dễ tiêu.


- Đá mác ma kiềm (gabbro).
- Đá mác ma trung tính (đá bazan và poóc-phia): hình thành ra các loại đất nâu và nâu

đỏ, giàu hạt sét, có cấu tượng tốt, giàu P2O5 và tầng đất rất dày.


- Đá mác ma chua (đá granite, rhyolite): thường hình thành đất có màu vàng đỏ, giàu thạch anh (SiO2) nghèo các chất khoáng dinh dưỡng.
Nhóm đá trầm tích:
- Các loại đá trầm tích giàu kiềm và kiềm thổ như đá mác ma, đá vôi.
- Các loại đá nghèo kiềm và kiểm thổ, như đá phiến thạch sét.
- Các loại đá giàu thạch anh, nghèo các chất dinh dưỡng, như đá cát (sa thạch).
Các loại đá trầm tích trên đã hình thành ra các loại đất có tính chất rất khác nhau, như đất đen trên đá vôi, có PH trung tính, với độ bão hoà bazơ rất cao ≥ 90 %, đất có thành phần cơ giới nặng, giàu cấp hạt sét. Ngược lại, đất hình thành trên đá cát, đất có màu vàng nhạt, hoặc vàng xám, có thành phần cơ giới nhẹ, giàu hạt cát. Đất có phản ứng chua với độ bão hoà bazơ rất thấp.
Nhóm đá biến hình (Metamorphic):
Như đá phiến thạch mica, đá gnai v.v.… nghèo các khoáng kiềm và kiềm thổ.
Bên cạnh các loại đá mẹ hình thành đất phức tạp ấy, chúng ta còn gặp nhiều các sản phẩm phong hoá hình thành đất rất khác nhau, từ các mẫu chất trầm tích phù sa sông và biển, như:
Đất trên sản phẩm bồi tụ phù sa sông Hồng giầu cát phấn (limông) giàu các chất kiềm và kiềm thổ, giàu P2O5, có phản ứng trung tính và kiềm yếu. Ngược lại, đất trên sản phẩm bồi tụ của phù sa sông Cầu, sông Thái Bình lại giàu hạt sét, nghèo chất kiềm và kiềm thổ, nên đất có phản ứng chua hoặc ít chua.
Ở đồng bằng Nam Bộ, chúng ta có sản phẩm bồi tụ và trầm tích của phù sa sông Cửu Long, giàu hạt sét, giàu các chất khoáng dinh dưỡng và kiềm, có PH ít chua hoặc gần trung tính, nhưng do địa hình thấp lại có nhiều cửa sông, kênh rạch thông ra biển, với mùa khô

11

tương đối sâu sắc, nên ảnh hưởng của nước mặn đã xâm nhập rất sâu và rộng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đó là nguyên nhân để hình thành ra 744.547 ha đất phù sa mặn, bên cạnh các loại đất phù sa khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngược lại, sản phẩm bồi tụ và trầm tích phù sa của sông Đồng Nai, lại giàu cấp hạt sét, nghèo các chất khoáng kiềm và kiềm thổ, giàu Fe, Al, nên dễ hình thành đất phèn ở vùng ven biển qua các quá trình địa hoá.


Ở dải đồng bằng dọc ven biển các tỉnh miền Trung, do các sản phẩm phù sa bồi tụ giàu hạt cát, nghèo các chất dinh dưỡng. Đặc biệt ở vùng này, có các sản phẩm bồi tụ ven biển hầu hết là cát đã tạo thành các cồn cát di động và bán di động, nằm dọc theo ven biển các tỉnh miền Trung.
Chính do các đặc điểm đá mẹ và mẫu chất rất khác nhau như trên mà ở Việt Nam đã hình thành các loại đất phi địa đới như:
- Đất đen trên đá tuf (tro, đá bọt núi lửa).
- Đất nâu trên đá vôi.v.v…
Trên cơ sở đó hình thành các loại đất nội địa đới như: Đất phù sa, đất phèn, đất mặn, đất cát và cồn cát ven biển…Chúng tồn tại bên cạnh các loại đất mang tính địa đới đất Feralít hình thành trong điều kiện khí hậu và sinh vật nhiệt đới ẩm.
Các loại đá mẹ và mẫu chất hình thành đất khác nhau ở nước ta cũng có mối quan hệ

chặt chẽ với sự khác nhau về địa hình.


1.4. Đặc điểm thảm thực vật rừng ở Việt Nam và ảnh hưởng của chúng đến quá trình hình thành đất
Về phương diện địa lý thực vật, Việt Nam thuộc khu hệ thực vật lục địa Đông Nam Châu Á, thuộc tiểu khu Ấn Độ - Mã Lai của khu nhiệt đới cổ (Good, 1954). Tuổi của khu hệ thực vật này thuộc kỷ Tam Điệp, cách đây khoảng 50 – 60 triệu năm. Đặc điểm đó đã nói lên sự ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc của yếu tố thảm thực vật đến các quá trình hình thành đất ở Việt Nam.
Do tính đa dạng khí hậu và đất đai nên Việt Nam có số loài thực vật rất phong phú. Theo thống kê của Gagnepain (1944), thì ở nước ta có tới 7.004 loài thực vật khác nhau, nằm trong 1.850 chi, của 289 họ thực vật, nhưng hiện nay số loài thực vật được định danh ở Việt Nam đã lên tới 10.500 loài (Nguyễn Bá Hoạt - Viện Dược liệu - 2005).
Về phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam, có 2 công trình quan trọng là của cố GS. TSKH. Thái Văn Trừng (1963, 1999) và của Trần Ngũ Phương.

Ở Việt Nam, nhìn khái quát, thì đai rừng nhiệt đới ẩm chỉ phân bố ở độ cao < 600 m so với mặt biển (miền Bắc), < 800 m so với mặt biển ở miền Trung và ở miền Nam thì đai rừng nhiệt đới ẩm lên tới độ cao 1.000 m.


12


Lên đến độ cao: 600 – 1.600 m ở miền Bắc.
800 – 1.800 ở miền Trung.
1.000 – 2.000 m ở miền Nam.

Từ độ cao: 1.600 – 2.400 m ở miền Bắc
1.800 – 2.800 m ở miền Trung
2.000 – 3.000 m ở miền Nam.

Là đai rừng á nhiệt đới ẩm vùng núi cận nhiệt đới.


Là đai rừng á nhiệt đới mưa mù núi cao.




Ở miền Bắc khi lên tới độ cao 2.400 – 3.142 m trên mặt biển, chủ yếu nằm ở dãy núi Hoàng Liên Sơn đã xuất hiện đai rừng á nhiệt đới núi cao, thiên về ôn đới, bên cạnh các rừng sồi, dẻ, xuất hiện các rừng lá kim nhu lãnh sam (Abies pindrow), thiết sam (Tsuga yunnanensis) (Nguồn GS.TS Thái Văn Trừng 1970).
Ảnh hưởng của yếu tố thực vật đến quá trình hình thành đất ở Việt Nam
Qua quá trình tiểu tuần hoàn sinh vật về vật chất của thảm thực vật rừng theo thời gian, các chất hữu cơ và các chất khoáng dinh dưỡng ngày càng tập trung nhiều ở lớp đất mặt và đã hình thành kết cấu các tầng đất trong phẫu diện, như:
- Tầng A: Tầng đất mặt, tầng tích lỹ mùn và các chất khoáng dinh dưỡng.
- Tầng B: Tầng tâm của phẫu diện, tầng tích tụ.
- Tầng C: Tầng phong hoá.
William cho rằng sự phân giải và hợp thành các chất hữu cơ là bản chất của quá trình hình thành đất.
Trên đất ngập mặn vùng ven biển Việt Nam, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, rừng ngập mặn hàng năm đã trả lại cho đất từ 10 – 12 tấn chất hữu cơ, từ các cành rơi, lá rụng và hàng tấn rễ cây. Trong thành phần của xác hữu cơ rừng ngập mặn lại chứa nhiều lưu huỳnh, ví dụ lá cây đước (Rhizophora apiculata) có chứa tới 1,08 % SO3. Thông qua các quá trình phân giải và chuyển hoá các chất hữu cơ từ các hoạt động của vi sinh vật trong đất, S dần dần được chuyển thành khoáng disulfua sắt (pyrite): FeS2 (chất sinh phèn). Khi FeS2 được tích luỹ nhiều trong đất, tới một mức độ nào đó, sẽ chuyển từ loại đất ngập mặn sang loại đất ngập mặn phèn tiềm tàng. Các kết quả nghiên cứu gần đây của tổ chức OSTOM (Pháp) cho thấy rằng, tất cả các lưu huỳnh của khoáng FeS2 trong đất ngập mặn ở bán đảo Cà Mau (đồng bằng sông Cửu Long) đều có nguồn gốc từ chất hữu cơ có liên quan đến rừng ngập mặn (1993).
Thảm mục của rừng ngập mặn được phân giải trong điều kiện ngập nước thiếu ôxy,

13


nên theo thời gian, chất hữu cơ trong đất dưới rừng ngập mặn được tích luỹ khá cao, biến đất ngập mặn phèn tiềm tàng thành đất than bùn ngập mặn phèn tiềm tàng.
Rừng tràm (Melaleuca cajuputi) phân bố tự nhiên trên đất phèn ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có từ 6 đến 8 tháng bị ngập nước trong mùa mưa, cho nên đã tích luỹ được 1 khối lượng lớn chất hữu cơ từ rừng tràm, theo thời gian, có nơi tầng chất hữu cơ trở thành tầng than bùn dày từ 40 – 100 cm, hoặc dày hơn nữa và đã biến đất phèn thành đất than bùn phèn tiềm tàng.
Trong đai rừng nhiệt đới mưa mùa lá rộng thường xanh ở Việt Nam, rừng có cấu trúc nhiều tầng cây. Theo E.P.Odum (1971) thì rừng nhiệt đới có tới 75 % tổng lượng các bon hữu cơ nằm trong phần sinh khối của rừng, phần các bon nằm trong đất dưới rừng chỉ có 25%… Đặc biệt sự trao đổi vật chất giữa rừng nhiệt đới và đất, diễn ra rất nhanh và mãnh liệt, tạo thành một vòng tuần hoàn vật chất giữa rừng và đất được khép kín, trong thời gian rất ngắn, so với các miền rừng ôn đới. Đặc điểm này đã giải thích rõ nguyên nhân sự giảm sút nhanh về độ phì của đất, khi thảm thực vật rừng nhiệt đới bị phá huỷ, như đốt rừng làm nương rẫy.
Nhưng trong đai rừng á nhiệt đới ẩm vùng núi, cận nhiệt đới và nhất là ở đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao ở Việt Nam, thì rừng thường có kết cấu đơn giản hơn về tầng tán, càng lên cao, khí hậu càng lạnh, các cây trong rừng càng thấp và cong queo, tổng lượng sinh khối trên mặt đất của rừng bị giảm sút nhiều so với rừng nhiệt đới ẩm, nhưng hàm lượng chất hữu cơ và mùn được tích luỹ trong đất lại nhiều hơn so với rừng nhiệt đới, do tốc độ phân giải chất hữu cơ trong đất giảm đi đáng kể theo độ cao. Bởi vậy, đất dưới rừng á nhiệt đới vùng núi ở Việt Nam thường có tầng thảm mục (tầng A0) dày với hàm lượng mùn ở tầng đất mặt (A1) khá cao. Càng lên cao tầng thảm mục càng dày và hàm lượng mùn ở tầng đất mặt càng cao hơn. Chính tầng đất mặt tích luỹ mùn này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tính chất và chiều hướng của các quá trình hình thành đất. Do đó ở vùng này, dưới các kiểu rừng á nhiệt đới đã hình thành các loại đất và loại đất phụ khác nhau, như:
Dưới kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh (rừng dẻ) đã hình thành loại đất mùn

alít.


Dưới kiểu rừng á nhiệt đới lá kim: (rừng Pơ mu – Fokienia hodginsii) đã hình thành đất

vàng alít pốtzôn hoá.
Dưới đai rừng á nhiệt đới mưa mù núi cao, có nơi đã hình thành loại đất mùn thô than bùn trên núi cao (Histric Alisols), thậm chí có nơi còn xuất hiện loại đất mùn alít núi cao bị glây ở tầng đất mặt, ngay trên dạng địa hình dốc mạnh của sườn núi cao. (Nguyễn Ngọc Bình

– 1968).
1.5. Yếu tố thời gian với quá trình hình thành đất ở Việt Nam


Quá trình hình thành đất, cũng như quá trình phát sinh các vật thể khác trong tự nhiên

đều có nhiều yếu tố tham gia, trong đó luôn có yếu tố thời gian. Sông Hồng và sông Cửu


14

Long là 2 con sông lớn nhất ở Việt Nam, lúc đầu, chúng tạo thành loại đất phù sa được bồi hàng năm, Sau đó là loại đất phù sa không được bồi hàng năm có độ pH của đất gần trung

tính, hoặc trung tính, với độ bão hoà bazơ cao và tỷ lệ



dạng vỏ phong hoá Sialit.

SiO2

Al2O3
trong keo sét lớn hơn 2, thuộc

Tiếp tục theo thời gian, loại đất phù sa được bồi hàng năm chuyển thành đất phù sa không được bồi hàng năm, có tầng loang lổ với địa hình hơi cao hơn và cuối cùng là các loại



đất:
- Đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ của sông Hồng.
- Đất xám phát triển trên phù sa cổ của sông Cửu Long.
Các loại đất này bắt đầu đã có các tính chất của loại đất Feralít, ở mức độ nhất định, khác về cơ bản với đặc điểm của loại đất phù sa được bồi hàng năm. V.M.Fridland (1964) đã xếp chúng vào các dạng vỏ phong hoá Sialit – Feralít hay Feralít – Sialit (dạng vỏ phong hoá trung gian giữa Sialit và Feralít).

Chúng ta cũng có thể lấy thí dụ thứ 2 thể hiện đậm nét hơn là quá trình biến đổi các loại đất phát triển trên đá vôi ở Việt Nam theo thời gian. Loại đất đá vôi trẻ nhất là loại đất đen, hoặc đất nâu mỏng lớp phát triển trên đá vôi. Loại đất này có phản ứng gần chung tính hoặc


trung tính, với độ bão hoà bazơ rất cao > 90 %, đất có tỷ lệ



SiO2

Al2O3
trong keo sét ≥ 2,5, với

thành phần khoáng sét chủ yếu là Montmorilonit và Vecmiculit, đất không mang tính địa đới. Sau đó theo thời gian, do quá trình phong hoá và rửa trôi trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, loại đất đen (hoặc đất nâu) trên đá vôi, chuyển thành loại đất: Macgalit – Feralít có màu nâu đỏ, với tầng đất dày hơn, đất có phản ứng chua (pH: 5,5 – 6), với độ bão hoà badơ 44 – 46 %,

và tỷ lệ


SiO2

Al2O3
trong keo sét đã nhỏ hơn 2 (V.M.Fridland, 1964).

Và đến giai đoạn cuối cùng theo thời gian đã hình thành loại đất đỏ phát sinh trên đá vôi, mang tính địa đới rõ rệt: Đất Feralít màu đỏ phát triển trên đá vôi, đất tương đối dày, có phản ứng chua mạnh [pH (KCl) = 4,2 – 4,5] với độ bão hoà bazơ thấp ≤ 30 %, trong thành phần khoáng sét của đất, khoáng Kaolinít chiếm ưu thế và trong đất có chứa khá nhiều Fe2O3



SiO

nH2O, t l

Liêm, 1968).

2

Al2O3

trong keo sét đã tụt xuống khá thấp: 1,5 – 1,6 (Hans Pagel, 1962; Cao




1.6. Hoạt động sản xuất của con người có liên quan đến các quá trình hình thành và biến

đổi các loại đất ở Việt Nam
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, kể từ khi con người biết chăn nuôi và trồng tỉa, các hoạt động sản xuất này đã có ảnh hưởng sâu sắc, làm thay đổi các tính chất và độ phì của

15

các loại đất.
Việt Nam đã xây dựng được một nền văn minh canh tác lúa nước lâu đời trên đất phù sa sông Hồng và mở rộng mãi cho tới vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn nằm ở phía Nam. Sau một thời gian dài trồng lúa gần như quanh năm, đất được cho ngập nước gần hết các thời gian trong năm, nên nước trọng lực đã rửa trôi các chất khoáng và keo sét xuống tầng đất sâu hơn. Đặc biệt do cày, bừa làm đất 2 – 3 vụ trong một năm để cấy lúa nước, nên sự rửa trôi keo sét xuống sâu theo nước trọng lực càng diễn ra mạnh mẽ, cuối cùng hình thành tầng đế cày trong đất trồng lúa nước có hàm lượng sét tích tụ tương đối cao, với độ chặt khá lớn (nằm ở độ sâu 25 – 35 cm) khác hẳn với hình thái phẫu diện của loại đất phù sa ban đầu. Nhiều nhà nông học đã đề nghị nên gọi là loại đất trồng lúa nước.
Công việc đắp đê ngăn nước mặn kết hợp với các hệ thống kênh mương dẫn nước ngọt, thực hiện rửa mặn tích cực và đã biến đổi loại đất ngập mặn ven biển có độ mặn 15 ‰ đến

25‰, không thể trồng lúa nước, thành loại đất phù sa có độ mặn của đất không vượt quá 4 ‰, trồng lúa nước có năng suất cao (loại đất phù sa không mặn).


Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết khôi phục lại các thảm thực vật rừng ngập mặn, nằm ở phía ngoài đê trên các bãi bùn lầy mới bồi ven biển để mở nhanh diện tích đất phù sa ra biển Đông, do tăng nhanh tốc độ bồi tụ phù sa nhờ có thảm rừng ngập mặn (khoảng từ 2 – 3 lần), tăng nhanh độ thành thục của đất ngập mặn v.v… đồng thời thảm thực vật rừng ngập mặn này còn có tác dụng quan trọng, cản sóng, bảo vệ vững chắc cho các hệ thống đê ngăn nước mặn.
Trong quá trình khai phá mở rộng diện tích đất canh tác lúa nước vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi có hơn 1,6 triệu ha đất phèn (chiếm tới 40 % diện tích đất tự nhiên đồng bằng sông Cửu Long), chúng ta đã đào hàng chục ngàn cây số các hệ thống kênh mương để dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long, rửa phèn tích cực, biến loại đất phèn hoạt động mạnh có nhiều hạn chế, thậm chí có nơi không thể trồng lúa nước, trở thành loại đất phèn nhẹ, trồng lúa nước có năng suất cao, có thể canh tác từ 2 - 3 vụ lúa nước trong một năm, đưa năng suất lúa hiện nay ở nhiều nơi đạt tới 9 tấn đến 12 tấn/ha/năm. (Sở NN và PTNT tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Tiền Giang – 1995).
Các hệ thống ruộng bậc thang trồng lúa nước trùng điệp ở hầu hết các tỉnh miền núi, đã làm thay đổi sâu sắc các tính chất đất dốc ở vùng này. Từ đất dốc trở thành đất bậc thềm, có khả năng giữ nước và cũng từ đất dốc không ngập nước, nay trở thành loại đất ngập nước trong mùa mưa, hoặc gần như quanh năm (nếu trồng 2 vụ lúa), kết hợp với việc cày bừa và bón phân cho đất hàng năm, đã biến đổi loại đất Feralít thành loại đất bậc thang trồng lúa nước. Đó là lý do V.M.Fridland (1959 – 1964) đã xếp đặt ruộng bậc thang trồng lúa nước ở Việt nam thuộc loại đất Feralít biến đổi do trồng lúa nước. Hiện nay diện tích loại đất này ở Việt nam đã rộng tới 159.882 ha. (Hội Khoa học đất Việt Nam – 2000).
Ngược lại, trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nước ta cũng có không ít các

ảnh hưởng tiêu cực đến các tính chất và độ phì của đất có liên quan đến các quá trình hình

16

thành đất ở Việt Nam. Ví dụ: Hàng ngàn hécta rừng ngập mặn vùng ven biển Việt Nam, đặc biệt ở bán đảo Cà Mau đã và đang bị tàn phá ồ ạt để lấy đất xây dựng các đầm nuôi tôm theo phương thức quảng canh, đã làm biến đổi sâu sắc các loại đất ngập mặn ven biển ở vùng này theo hướng không có lợi.


Các khu rừng tràm sinh trưởng trên đất than bùn phèn tiềm tàng ở vùng U Minh (đồng bằng sông Cửu Long) đã có tác dụng tích cực hạn chế quá trình phèn hoá diễn ra trong đất, đặc biệt là tầng than bùn dưới rừng tràm. Nhưng để mở rộng diện tích trồng lúa nước, người ta đã tàn phá khu rừng tràm này, kết quả từ loại đất than bùn phèn tiềm tàng trở thành loại đất phèn mạnh và trồng lúa cũng không cho thu hoạch ở nơi không có đủ hệ thống kênh mương dẫn nước ngọt để rửa phèn và thoát phèn.
Trên vùng đất xám phù sa cổ ở miền Đông Nam Bộ, nơi phân bố phong phú các rừng cây họ Dầu, cho gỗ quí và hiếm, do sử dụng không hợp lý nên nhiều diện tích đã trở thành loại đất xám bạc màu trên phù sa cổ.
Sau cùng, phương thức canh tác của các đồng bào dân tộc ít người ở miền núi đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự thay đổi các tính chất và độ phì của đất rừng. Đó là phương thức canh tác đốt rừng làm nương rẫy, hay cũng gọi là phương thức luân canh giữa rừng và rẫy. Phương thức canh tác này được đánh giá là tương đối tốt khi mật độ dân số thưa thớt, quỹ đất rừng còn nhiều, thời gian bỏ hóa dài (10-12 năm) để rừng phục hồi. Nhưng trong điều kiện kinh tế xã hội của các tỉnh miền núi ở nước ta hiện nay, do mật độ dân số ở miền núi đã tăng lên nhiều, quĩ đất theo đầu người ngày càng thấp, nhất là diện tích đất có rừng tự nhiên ngày càng thu hẹp nhanh. Do đó, thời gian bỏ hoá của đất canh tác sau nương rẫy rút ngắn lại 6 – 7 năm, thậm chí có nơi chỉ còn 3 – 4 năm hoặc ngắn hơn nữa. Như vậy đất sau nương rẫy chưa kịp phục hồi lại độ phì, lại tiếp tục bị phát làm nương rẫy lần thứ hai.
Tác động tổng hợp của nhiều hoạt động như khai thác lạm dụng rừng tự nhiên liên tục, chuyển đỏi sử dụng đất lâm nghiệp không hợp lý, canh tác nương rẫy, cháy rừng, tác động chiến tranh....đã làm mất đi một diện tích lớn rừng tự nhiên tạo điều kiện hình thành đất trống đồi núi trọc có độ phì rất thấp.



tải về 2.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương