Chương ĐẤt và dinh dưỠng đẤt gs. Tskh: Đỗ Đình Sâm pgs. Ts: Ngô Đình Quế Ts: Nguyễn Tử Siêm ks: Nguyễn Ngọc Bình


Đất đỏ trên núi đá vôi (Luvisols, Rendzinas) (1) Đất mùn đỏ nâu trên núi đá vôi



tải về 2.06 Mb.
trang8/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích2.06 Mb.
#31118
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

3.2.9. Đất đỏ trên núi đá vôi (Luvisols, Rendzinas) (1) Đất mùn đỏ nâu trên núi đá vôi

Có diện tích 66.148 ha.


Phân bố ở cao nguyên đá vôi Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) có độ cao trên mặt biển
≥1.000m.
Rừng khí hậu nguyên sinh ở đây, là các rừng dẻ (Pasania sp?), rừng sồi (Quercus sp),

ưa canxi
(2) Đất mùn thô, than bùn trên núi đá vôi (Histric Rendzinas)


Loại đất này có diện tích không lớn, phân bố ở đỉnh các dãy núi đá vôi ở vùng cao nguyên Đồng Văn, có độ cao trên mặt biển ≥ 1.000 m. Rừng nguyên sinh ở đây là rừng lá kim, ưa canxi: Rừng du xam đá vôi (Keteleeria calcarea).
Tầng đất mỏng, đất có màu đen, hàm lượng mùn và chất hữu cơ trong đất rất cao > 68

%, tỷ lệ C/N = 16 – 17, dạng mùn thô và than bùn.


3.2.10. Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols)
Có diện tích: 495.727 ha, tập trung ở vung đồi núi trọc, từ trung du đến vùng núi.
Đất mỏng lớp, nhiều đá lẫn và kết von sắt nhôm.
Độ xốp của đất rất kém, thấm và giữ nước cũng kém.
Do đó, tuy nằm ở vùng có lượng mưa > 1.500 mm/năm, nhưng đất vẫn thiếu nước quan trọng cho cây trồng.
Đây là loại đất được hình thành do nhân tác, nó không mang tính địa đới.
Diện tích đất xói mòn trơ sỏi đá phân bố ở tất cả 7 vùng kinh tế trong cả nước, nhưng tập trung vào 3 vùng quan trọng:
- Khu IV cũ: 194.198 ha.
- Tây Nguyên: 172.602 ha.

68

- Và Duyên hải Nam bộ: 72.673 ha.


3.3. Độ phì của đất rừng
3.3.1. Khái niệm về độ phì của đất
Ngay từ thời xa xưa, khi con người biết sử dụng đất để trồng trọt, nhằm tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống, họ đã biết đánh giá đất tốt hay xấu đối với một loại cây trồng nào đó và đấy cũng là khái niệm sơ khai đơn giản ban đầu về độ phì của đất.
Các người dân tộc Jarai, Êđê, Bana sống ở Tây Nguyên khi chọn đất làm nương rẫy, họ đã biết dựa vào màu sắc của đất để đánh giá đất tốt hay xấu, nghĩa là đất có độ phì cao hay thấp, như:
- Đất màu đen, hoặc nâu đen: Đất tốt, các cây trồng trên rẫy cho năng suất cao (đất có

độ phì cao).


- Đất màu đỏ: Đất có độ phì trung bình, các cây trồng trên rẫy cho năng suất không cao.
- Đất màu vàng: Đất xấu, rất ít khi được chọn để phát rừng làm nương rẫy (đất có độ phì thấp).
- Đất màu vàng, lại nhiều cát: Đất rất xấu, không sử dụng để canh tác nương rẫy (đất có

độ phì rất thấp).


Theo V.R.Viliam (nhà khoa học thổ nhưỡng Nga) thì độ phì của đất là khả năng của đất có thể cung cấp cho những nhu cầu của thực vật về các chất dinh dưỡng khoáng, nước và không khí để tạo ra một năng suất sinh học nhất định nào đó về gỗ, lá, quả, hạt, và củ, nhằm phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống con người.
3.3.2. Độ phì của đất gồm có các loại khác nhau như sau
Độ phì tự nhiên (độ phì vốn có của đất trong tự nhiên).
Độ phì nhân tạo (độ phì của đất do con người tạo ra, như tưới nước, bón phân…).
Độ phì hiệu dụng (hay độ phì kinh tế: Đó là độ phì tự nhiên của đất kết hợp với độ phì nhân tạo, được thể hiện qua các năng suất của cây trồng hiện tại).
Độ phì tiềm năng: là độ phì của đất trong tương lai.
3.3.3. Độ phì đất rừng
Độ phì đất rừng là độ phì tự nhiên của đất là cơ bản, khác với độ phì của đất nông nghiệp, ở đây độ phì nhân tạo là cơ bản kết hợp với độ phì tự nhiên của đất. Độ phì đất rừng có liên quan chặt chẽ với thảm thực vật rừng thông qua vòng tiểu tuần hoàn sinh học.
3.3.4. Vòng tiểu tuần hoàn sinh học của rừng, liên quan đến độ phì của đất rừng

Theo các kết quả nghiên cứu của Bazilivich và Rodin (1967) thì vòng tuần hoàn sinh học về các chất khoáng dinh dưỡng của rừng mưa nhiệt đới thể hiện như sau:

69

là:


- Tổng hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng được hút lên từ đất qua rừng nhiệt đới

- N = 425 kg/ha (100 %).


- Ca = 260 kg/ha ( 100 %).
- K = 205 kg/ha ( 100 %).
- P = 30 kg/ha (100 %).
- Hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng được rừng hút lên và tích luỹ lại, trong các bộ

phận sống của các cây trong rừng (lá, cành, thân, rễ cây) là:
- N = 165 kg/ha (38,8 %).
- Ca = 80 kg/ha (30,8 %).
- K = 160 kg/ha (78,0 %).
- P = 15 kg/ha (50 %).
Hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng được rừng mưa nhiệt đới trả lại cho đất qua cành, lá rụng và rễ cây chết hàng năm, tạo thành tầng thảm mục trên mặt đất qua rừng là:
- N = 260 kg/ha (61,2 %).
- Ca = 180 kg/ha (69,2 %).
- K = 55 kg/ha (22 %).
- P = 15 kg/ha (50 %).
Các kết quả nghiên cứu về vòng tiểu tuần hoàn sinh học các chất khoáng dinh dưỡng của rừng bồ đề trồng (Styrax tonkinensis) của PGS TS. Hoàng Xuân Tý - Viện KHLNVN –

1980, cho thấy:


Bảng 13: Sinh khối và hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng tích luỹ ở cuối luân kỳ

rừng bồ đề 10 tuổi, có trữ lượng gỗ 120 m³/ha

Các bộ phận của sinh khối


Sinh khối khô (kg/ha)


Các chất dinh dưỡng khoáng (kg/ha)


N

P

K

Ca

Mg

Cộng

Cành (<5cm) Vỏ


2.100


4.740

4.700

42,2

16,6


27,7

3,8


3,8

3,3

27,7

3,8


30,5

10,7


8,5

33,8

9,7

7,1


9,4

94,0


59,0

105,0


70




Các bộ phận của sinh khối


Sinh khối khô (kg/ha)


Các chất dinh dưỡng khoáng (kg/ha)


N

P

K

Ca

Mg

Cộng

Gỗ (>5cm)


43.300

95,3

21,6

90,9

52,0

17,3

277,0

Cộng

54.840

181,8

32,5

171,8

105,0

43,5

535

Rễ (> 3cm)

Rễ (< 3cm)


6.490


4.550

23,4


28,7

4,5


4,6

30,5


22,7

10,4


8,6

9,1


7,7

78,0


72,0

Tổng cộng


65.880

234,0

41,0

225,0

124,0

60,3

685,0

Nguồn: Hoàng Xuân Tí, 1980
Qua bảng trên cho ta thấy, lượng tăng trưởng về sinh khối của rừng bồ đề hàng năm là

6.588 kg/năm hay 6, 588 tấn chất khô/năm.


Lượng thảm mục được tạo thành do cành lá khô rơi rụng hàng năm của rừng bồ đề là:

5,240 tấn khô/ha/năm.


Như vậy lượng tăng trưởng thực về sinh khối của rừng bồ đề chỉ có: 1.164 kg sinh khối khô/ha/năm (1,164 tấn/ha/năm).
Lượng thảm mục được tạo thành do cành lá khô rơi rụng của rừng bồ đề + nứa (tầng 2),

6 tuổi: là 6,5 tấn khô/ha/năm và hàng năm rừng này đã trả lại cho đất các chất khoáng dinh dưỡng qua cành rơi, lá rụng là:


- N = 64 kg; K2O = 101 kg, P2O5 = 26,6 kg; CaO = 99 kg và MgO = 15,5 kg.
- Tổng cộng là: 306 kg/ha/năm các chất khoáng dinh dưỡng trả lại cho đất.
Đối với rừng gỗ tự nhiên, lá rộng thường xanh, có lim phân bố ở vùng đồi Phú Thọ (rừng hỗn loài có kết cấu nhiều tầng cây) có lượng chất hữu cơ rơi rụng hàng năm là: 11,5 tấn ha/năm (trọng lượng khô). Trong đó có chứa hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng (kg/ha/năm) là:
- N = 195 kg; P2O5 = 24 kg; K2O = 25 kg; CaO = 211 kg; MgO = 87 kg và SiO2= 50 kg.
- Tổng cộng: 592 kg/ha/năm các chất khoáng dinh dưỡng được trả lại cho đất hàng năm
Theo kết quả nghiên cứu nơi đây của TS. Nguyễn Huy Sơn - Viện KHLN 1998) thì rừng keo tai tượng 7 tuổi, trồng ở Tây Nguyên, có lượng rơi rụng hàng năm từ lá, cành khô là:

10,857 tấn/ha/năm (theo trọng lượng khô), hàng năm đã trả lại cho đất 148,75 kg N; 8,69 kg P

và 13,03 kg K. Tổng cộng là 170,47 các chất khoáng dinh dưỡng N,P,K được trả lại cho đất hàng năm.

71

Điều đáng chú ý là, trong 148,75 kg N trả lại cho đất hàng năm của rừng keo tai tượng (Acacia mangium) thì có tới 120 kg N được lấy từ không khí (80 %) do hoạt động của vi sinh vật nốt sần cố định N, cộng sinh ở rễ.


Như vậy, qua tác dụng của vòng tiểu tuần hoàn sinh học các chất khoáng dinh dưỡng và phân phối nước của rừng, chúng ta nhận thấy, hệ sinh thái rừng khác với hệ sinh thái nông nghiệp; nó có tác dụng quan trọng về bảo vệ, phục hồi và phát triển độ phì của đất rừng.
3.3.5. Độ phì nhiêu và các chỉ tiêu đánh giá độ phì của các nhóm đất chính trong lâm nghiệp
(1) Độ phì của nhóm đất cát ven biển và các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất
Độ phì của nhóm đất cát ven biển
Nhóm đất cát ven biển là nhóm đất có độ phì tự nhiên thấp nhất ở Việt Nam. Bởi vì đất cát ven biển có tỷ lệ cấp hạt cát rất cao.
Đất cát có độ ẩm rất thấp. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất cát rất thấp. Hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng N,P,K lại rất nghèo, nhưng lại rất dễ bị rửa trôi xuống sâu; theo nước trọng lực trong mùa mưa.
Đất cát có phản ứng ít chua, gần trung tính, hoặc trung tính (pH (H2O) = 6 – 7).
Một đặc điểm quan trọng là đất cát vùng ven biển, dưới tác động của gió, dông và bão, luôn xuất hiện nạn cát bay, làm dập nát lá, ngọn non các cây trồng trên đất cát. Đó cũng là hiện tượng xói mòn do gió, nó làm giảm nhanh độ phì của lớp đất cát trên mặt, thậm chí còn làm trốc cả các rễ cây trồng trên đất cát.
Các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất cát ven biển
Để xác định các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất cát ven biển, chúng ta có thể lựa chọn các đặc điểm của đất cát có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng tốt hay xấu của cây phi lao (Casuarina equisetifolia Forst), một loài cây đã trồng thành rừng chống cát bay ven biển Việt Nam.
Các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất cát:
Độ phì của đất cát có sự khác nhau giữa các đơn vị đất cát trong nhóm, có liên quan đến sự khác nhau về mức độ sinh trưởng của cây phi lao, như: Đất cát và cồn cát trắng < Đất cát và cồn cát vàng < Đất cát và cồn cát đỏ < Đất cát mới bồi ven biển < Đất cát biển lẫn phù sa < Đất cát biển có lẫn nhiều vỏ sò và san hô.
Mức độ di động của đất cát: Sự sinh trưởng của cây phi lao phụ thuộc rất rõ vào mức độ di động của cát và được sắp xếp từ tốt đến xấu như sau: Đất cát và cồn cát cố định > Cồn cát bán di động > Cồn cát di động.
Khả năng thoát nước của đất cát, có liên quan chặt chẽ đến địa hình, mực nước ngầm ở

gần hay xa mặt đất và được sắp xếp từ tốt đến xấu như sau: Đất cát thoát nước tốt > Đất cát


72

thoát nước kém > Đất cát thoát nước rất kém, trong mùa mưa có thời gian bị ngập nước.


Khoảng cách gần hay xa biển của các đơn vị đất cát cũng có ảnh hưởng đến sinh trưởng của rừng phi lao và được xếp theo thứ tự từ tốt đến xấu như sau: Đất cát mới bồi nằm sát ngay bờ biển > Đất cát nằm trung gian > Đất cát nằm xa bờ biển, sát nội đồng.
(2) Độ phì của nhóm đất ngập mặn ven biển và các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất
Độ phì của đất ngập mặn
Nhìn khái quát nếu dựa vào mức độ tăng trưởng sinh khối hàng năm của rừng ngập mặn, nơi sinh trưởng tốt nhất của các vùng đất ngập mặn ở Việt Nam, thì chúng ta có thể sắp xếp như sau:
- Đất ngập mặn có độ phì thấp: Vùng Đông Bắc (ven biển Quảng Ninh) rừng ngập mặn tăng trưởng về sinh khối từ 3 – 5 tấn/khô/ha/năm.
- Đất ngập mặn có độ phì trung bình: Vùng đồng bằng Bắc bộ và ven biển miền Trung, rừng ngập mặn tăng trưởng về sinh khối từ 6 – 10 tấn khô/ha/năm.
- Đất ngập mặn có độ phì cao: vùng đồng bằng Nam bộ rừng ngập mặn tăng trưởng từ

20 – 27 tấn sinh khối/ha/năm (theo trọng lượng khô).


Các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất ngập mặn
Đặc điểm của nước biển ven bờ
Nhiệt độ của nước biển
Nếu nước biển, nhiều thời gian trong năm có nhiệt độ nhỏ hơn 16ºC thì không xuất hiện rừng ngập mặn.
Nếu nhiệt độ của nước biển từ 16 – 18 ºC, thì chỉ có rừng mắm biển (Avicennia marina)

phân bố, rừng sinh trưởng xấu.


Nếu nhiệt độ nước biển từ 18 – 20ºC đã xuất hiện rừng Trang (Kandelia candel), rừng sinh trưởng về sinh khối trung bình.
Nếu nhiệt độ nước biển cao hơn 20ºC, đã bắt đầu xuất hiện rừng đước (Rhizophora apiculata) rừng tăng trưởng về sinh khối tương đối cao (Francois Blasco, 1983).
Độ mặn của nước biển có quan hệ hữu cơ với độ mặn của đất
Nước biển có độ mặn rất thấp ≤ 4 ‰, hoặc độ mặn rất cao > 90 ‰, đều không xuất hiện các rừng ngập mặn.
Nước biển có độ mặn cao, từ 40 – 80 ‰ thì chỉ có rừng mắm tồn tại và sinh trưởng rất

xấu.


Nếu nước biển có độ mặn từ 20 – 30 ‰, rừng mắm trắng (Avicennia alba) sinh trưởng

73


tốt, lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm ở mức trung bình.
Nếu nước biển có độ mặn từ 10 – 20 ‰ thì rừng đước sinh trưởng tốt và lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm ở mức cao.
Ảnh hưởng ngập của nước biển khi triều cường (có quan hệ chặt chẽ với độ thành thục của đất ngập mặn)
Biên độ triều:
- Biên độ triều chênh lệch thấp ≤ 1 m thì rừng ngập mặn sinh trưởng xấu.
- Biên độ triều chênh lệch cao từ 2 – 4 m thì rừng ngập mặn sinh trưởng tốt.
Thời gian ngập triều:
- Nếu đất ngập nước triều lâu hơn 8 giờ/ngày thì không xuất hiện rừng ngập mặn.
- Nếu đất được ngập nước triều từ 3 đến 4 giờ/ngày, thì rừng ngập mặn sinh trưởng tốt.
- Nếu đất được ngập triều ít hơn 2,5 giờ/ngày thì rừng ngập mặn lại sinh trưởng xấu.
Các đặc điểm của đất ngập mặn
Thành phần các cấp hạt của đất:
- Đất cát không có rừng ngập mặn phân bố (tỷ lệ cát chiếm > 90 %).
- Đất cát dính và cát pha (tỷ lệ cát từ 60 – 90 %), rừng ngập mặn sinh trưởng xấu.
- Đất thịt pha sét (hàm lượng sét trong đất từ 30 – 50 %), rừng ngập mặn sinh trưởng tốt.
Độ thành thục của đất:
- Nếu đất mặn ven biển có độ thành thục rất thấp: n > 4 (dạng bùn rất loãng) thì chưa xuất hiện rừng ngập mặn.

Nếu đất ngập mặn có độ thành thục thấp n = 4 – 2,5 (dạng bùn loãng) thì bắt đầu xuất hiện rừng mắm trắng tiên phong cố định bãi bồi, rừng cho tăng trưởng sinh khối hàng năm, trung bình.


- Nếu đất ngập mặn có độ thành thục n = 1,4 – 1 (dạng sét mềm) thỉ rừng sinh trưởng rất tốt, cho lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm cao.
- Nếu đất có độ thành thục tương đối cao n < 0,4 (dạng sét rắn chắc) thì các rừng ngập mặn đều sinh trưởng xấu, cho lượng tăng trưởng sinh khối thấp.
Hàm lượng chất hữu cơ trong đất:
- Đất có hàm lượng chất hữu cơ quá thấp < 1% thì rừng ngập mặn sinh trưởng xấu.

74

- Đất có hàm lượng chất hữu cơ từ 1 – 4 %, rừng ngập mặn sinh trưởng trung bình.


- Đất có hàm lượng chất hữu cơ từ 5 – 15 %, rừng ngập mặn sinh trưởng tốt.
- Đất có hàm lượng chất hữu cơ quá cao ≥ 50 % thì rừng ngập mặn lại sinh trưởng xấu.
- Các đơn vị đất ngập mặn:
- Đất ngập mặn (không có phèn tiềm tàng), rừng ngập mặn sinh trưởng tương đối tốt.
- Đất ngập mặn phèn tiềm tàng, rừng ngập mặn sinh trưởng trung bình, hoặc khá.
- Đất than bùn ngập mặn phèn tiềm tàng, rừng ngập mặn sinh trưởng xấu.
(3) Độ phì của nhóm đất phèn và các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất
Độ phì của đất phèn
Đất phèn trong tự nhien có rát nhiều yếu tố hạn chế sinh trưởng cây trồng đặc biẹt là độ

chua thấp, độ độc nhôm, sắt cao.


Nhưng trong tự nhiên đã xuất hiện các loại rừng tràm phân bố trên đất phèn ở đồng bằng sông Cửu Long, bởi vì cây tràm là một loài cây chịu được phèn và chịu được ngập úng.
Nhưng nếu trồng rừng tràm trên đất phèn hoạt động mạnh bị nhiễm mặn, thì do ảnh hưởng của dọ mặn mức độ sinh trưởng của rừng tràm bị giảm đi đáng kể và nếu nước có độ mặn > 20 ‰ thì rừng tràm non (4 tuổi) sẽ bị chết.
Các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất phèn sử dụng trong Lâm nghiệp
Dựa vào các đơn vị đất
Đất than bùn phèn tiềm tàng (chủ yếu trong các khu đặc dụng).
Đất phèn hoạt động mạnh (độ phì tự nhiên ở mức trung bình khá).
Đất phèn hoạt động mạnh bị nhiễm mặn (độ phì tự nhiên ở mức thấp do bị hạn chế bởi nhiễm mặn)
Hàm lượng chất hữu cơ trong đất phèn
Thuận lợi: Đất có hàm lượng hữu cơ 8 – 15 %. Bị hạn chế: Đất có hàm lượng hữu cơ > 15 %

(Do gây ra các tác hại xấu trong thời gian đất bị ngập nước).


Thời gian đất bị ngập nước

Ngập nước ít hơn 3 tháng: Rất thích hợp. Ngập nước từ 3 – 4 tháng: thích hợp.

75

Ngập nước > 4 tháng: Hạn chế


Độ sâu ngập nước
Ngập nước nông < 60 cm: Rất thuận lợi.
Ngập nước sâu trung bình 60 – 100 cm: Thuận lợi
Ngập nước sâu > 100 cm: Hạn chế.
Khả năng cấp nước ngọt để rửa phèn
Nước tưới tự chảy 9 tháng trong 1 năm. Nguồn nước tưới phong phú trong kênh rạch: Thuận lợi.
Có nước tưới, nhưng thiếu các kênh trục chính và kênh rạch nội đồng để dẫn nước: Có khó khăn.
Rất khó dẫn nước tưới vì quá xa nguồn nước ngọt: Rất khó khăn.
(4) Độ phì của đất miền đồi núi (đất dốc) và các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất
Độ phì của đất
Độ phì của đất miền đồi núi tuy rất khác nhau, nhưng nó khác với đất ngập mặn và đất phèn là độ phì tự nhiên của đất được thể hiện tương đối đầy đủ và rõ nét qua lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm của các hệ sinh thái rừng. Do đó chúng ta có thể dựa vào đặc điểm này để sắp xếp mức độ cao thấp về độ phì của từng nhóm đất khác nhau và sự khác nhau về độ phì giữa các đơn vị đất trong mỗi nhóm đất.
Mức độ cao, thấp khác nhau về độ phì của các nhóm đất phân bổ ở vùng khí hậu nhiệt đới, được sắp xếp như sau: Nhóm đất đỏ vàng > nhóm đất đen nhiệt đới > nhóm đất nâu nhiệt đới bán khô hạn.
Mức độ cao thấp khác nhau về độ phì của các nhóm đất phân bố theo độ cao nằm trong các đới khí hậu khác nhau, được sắp xếp theo thứ tự như sau: Nhóm đất đỏ vàng > nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi > nhóm đất mùn alít và mùn thô than bùn núi cao.
Nhóm đất có độ phì thấp nhất ở miền đồi núi là nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá.
Cuối cùng để đánh giá mức độ cao thấp khác nhau về độ phì của các đơn vị đất trong mỗi nhóm đất, về đại thể chúng ta có thể dựa vào đặc điểm của đá mẹ và mẫu chất hình thành đất khác nhau để sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp, như sau:
Ví dụ: Trong nhóm đất đỏ vàng thì các đơn vị đất được sắp xếp độ phì từ cao đến thấp, như sau: (các đơn vị đất sử dụng trong lâm nghiệp).
Đất nâu đỏ và nâu vàng trên đá mác ma bazơ và trung tính > Đất đỏ vàng trên đá sét và

đá biến chất > Đất nâu vàng trên phù sa cổ > Đất vàng đỏ trên đá mác ma chua (granít) > Đất

76

xám trên phù sa cổ > Đất vàng nhạt trên đá cát.


Các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất miền đồi núi
Độ dốc:
Có thể chia thành các cấp độ dốc khác nhau, như sau:
- Cấp I: Độ dốc < 15º. Đất dốc nhẹ.
- Cấp II: Độ dốc từ 15 – 25º. Đất dốc trung bình và hơi mạnh.
- Cấp III: Từ 25 – 35º. Đất dốc mạnh.
- Cấp IV: > 35º. Đất dốc mạnh.
Độ dày tầng đất
Có thể chia độ dày của tầng đất thành 3 cấp sau đây:
- Cấp I: > 100 cm, đất dày.
- Cấp II: 50 – 100 cm, đất có độ dày trung bình.
- Cấp III: < 50 cm, đất mỏng lớp.
Thành phần cơ giới của đất:
Chúng ta có thể chia thành phần cơ giới của đất, thành 3 cấp sau đây:
- Cấp I: Đất nặng (đất sét), hàm lượng sét > 45 %.
- Cấp II: Đất trung bình (đất thịt), hàm lượng sét 15 – 25 %.
- Cấp III: Đất nhẹ (đất cát và cát pha), hàm lượng sét < 15 %.
Độ xốp của đất
Đánh giá độ xốp % của đất (theo S.V.Astapốp).
- Cấp I: Độ xốp > 65 %, đất rất xốp.
- Cấp II: Độ xốp từ 55 – 65 %, đất pha xốp (đất xốp).
- Cấp III: Độ xốp từ 50 – 55 %, đất xốp trung bình.
- Cấp IV: Độ xốp < 50 %, đất chặt (độ xốp kém).
Khả năng thấm nước của đất (mm/phút) Cấp I: > 8 mm/phút, (thấm nước rất nhanh). Cấp II: 2 – 8 mm/phút, (thấm nước nhanh).

Cấp III: 0,5 – 2 mm/phút, (thấm nước trung bình). Cấp IV: 0,5 mm/phút, (thấm nước kém).

77


trọng.

Khả năng chứa nước của đất (% trọng lượng đất khô) Cấp I: > 40 %, rất tốt.

Cấp II: 30 – 40 %, tốt.


Cấp III: 2 – 30 %, trung bình. Cấp IV: < 20 %, kém.

Hàm lượng mùn trong đất (% theo trọng lượng khô kiệt)
Hàm lượng mùn trong đất là một chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất đồi núi khá quan


Bảng 14: Đánh giá hàm lượng mùn trong đất lâm nghiệp
(% theo trọng lượng khô kiệt)


Cấp

Mức độ

Các loại đất


Đất mùn vàng

đỏ trên núi

Đất vàng đỏ trên đá mác ma kiềm và trung tính



Các loại đất khác


I

Rất giàu mùn

> 10 %

> 8 %

> 5 %

II

Giàu mùn

5 – 10 %

5 – 8 %

3 – 5 %

III

Hàm lượng mùn trung bình

3 – 5 %

3 – 5 %

2 – 3 %

IV

Nghèo mùn




< 3 %


< 3 %


< 2 %

Nguồn: Đỗ Đình Sâm - Nguyễn Ngọc Bình. Viên KHLN – 2000


Hàm lượng các chất khoáng dinh dưỡng
Hàm lượng đạm trong đất:
Bảng 15: Hàm lượng N tổng số và N thuỷ phân

Cấp

Mức độ

N tổng số (%)


Phương pháp phân tích

Kjeldahl

N thuỷ phân (Mg/100 g)
Phương pháp phân tích

Kononooa Tiurin


I II


III

Giàu
Khá


Trung bình

> 0,20
0,15 – 0,20


0,10 – 0,15

> 8
6 – 8


4 – 6

78




Cấp

Mức độ

N tổng số (%)


Phương pháp phân tích

Kjeldahl

N thuỷ phân (Mg/100 g)
Phương pháp phân tích

Kononooa Tiurin


IV
V


Nghèo
Rất nghèo


0,05 – 0,10


< 0,05

2,5 – 4
< 2,5


Nguồn: Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình, 2000


Hàm lượng đạm dễ tiêu (p.p.m)

Đạm NO3- (ppm) Đạm NH4+ (ppm)


Cấp I: > 20 giàu. Cấp II: 10 – 20 khá.

Cấp III: 5 – 10 trung bình.


Cấp IV: < 5 nghèo.

Cấp I: > 12 giàu.


Cấp II: 9 – 12 trung bình. Cấp III: < 9 Nghèo.



Hàm lượng P2O5 trong đất



Hàm lượng P2O5 tổng số trong đất % [Phương pháp Lorentz]

Hàm lượng P2O5 dễ tiêu trong đất

(mg/100g)
[Phương pháp Kirsanốp]


Cấp I: > 0,15 %, giàu
Cấp II: 0,10 – 15 %, khá.
Cấp III: 0,05 – 1,10 %, trung bình. Cấp IV: < 0,05 %, nghèo

Cấp I: > 5,0, rất giàu. Cấp II: 4,0 – 5,0 giàu.

Cấp III: 3,0 – 4,0 trung bình. Cấp IV: 1,5 – 3,0 nghèo.

Cấp V: < 1,5 rất nghèo.


Hàm lượng K2O trong đất

Hàm lượng K2O tổng số (%) trong

đất
(phương pháp Barbier Morgan)
Hàm lượng K2O dễ tiêu trong đất

(mg/100g)
[Phương pháp Kirsanốp]

79





Cấp I: > 0,25 %, giàu
Cấp II: 0,15 – 0,25 %, khá.

Cấp III: 0,10 – 1,15 %, trung bình. Cấp IV: < 0,10 %, nghèo

Cấp I: > 14, rất giàu. Cấp II: 8 – 14, giàu.

Cấp III: 4 – 8, trung bình.


Cấp IV: < 4, nghèo.


Độ chua của đất pH(KCL)
Sau đây là các trị số pH biểu thị các đặc điểm phản ứng của đất:
pH < 3: Đất chua mạnh. pH = 3 – 4,5: Đất chua mạnh. pH = 4,5 – 5,5: Đất chua.

pH = 5,5 – 6,5: Đất ít chua.


pH = 6,5 – 7,0: Đất trung tính. pH = 7,0 – 7,5: Đất kiềm yếu. pH = 7,5 – 8,0: Đất kiềm.

pH > 8,0: Đất kiềm mạnh.


Hầu hết các cây trồng trong lâm nghiệp và nông nghiệp đều sinh trưởng tốt ở môi trường đất có pH = 5,5 – 6,5 (đất ít chua).
Nhìn tổng quát các chỉ tiêu đánh giá độ phì của đất đồi núi:
Chúng ta thấy quan trọng nhất là các đặc điểm của đất có quan hệ đến khả năng thấm nước và giữ nước, để tạo ra độ ẩm cần thiết ở trong đất, cung cấp cho thực vật, như các chỉ tiêu:
1. Độ dốc.
2. Độ dầy tầng đất.
3. Thành phần cơ giới.
4. Độ xốp.
5. Hàm lượng mùn trong đất.
6. pH của đất.
Trong thời gian từ 1971 đến 2005, để đánh giá tổng hợp độ phì tự nhiên của đất rừng ở miền đồi núi, chúng ta đã lấy các quần lạc thực vật tự nhiên để chỉ thị mức độ phì khác nhau của đất rừng làm cơ sở đưa ra các biện pháp sử dụng đất trong lâm nghiệp 1 cách hợp lý, như
80

sau:




tải về 2.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương