Chương 1 CƠ SỞ LÝ luận về du lịch và MÔi trưỜng lý luận chung 1 Du lịch


(Nguồn: Hiệp hội Địa lý Mỹ, 1998)



tải về 0.97 Mb.
trang11/12
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.97 Mb.
#25515
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

(Nguồn: Hiệp hội Địa lý Mỹ, 1998)

3.3.2. Các tác động của tai biến môi trường đến du lịch


Bất kỳ loại tai biến môi trường nào vừa mới kể ra trên đây cũng đều có thể gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho du lịch nếu chúng làm thay đổi các điều kiện tự nhiên, xã hội và làm xáo trộn các hoạt động du lịch. Đối với các tai biến thiên nhiên như hạn hán, bão lụt, cháy rừng … thường ít tác động đến du lịch hơn so với các trận cuồng phong, trượt lở đất, sóng thần và động đất. Tuy nhiên đa số các thiên tai thường tàn phá nhiều cảnh quan đẹp, khu hệ động thực vật, các bãi biển đẹp, các rạn san hô, các khu rừng … gắn liền với hình ảnh của khu du lịch.

Tai biến môi trường ngoài việc gây nên những thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội, còn đe doạ tính mạng của khách du lịch, làm cho họ cảm thấy bất an khi lưu lại điểm du lịch. Thực tiễn cho thấy rằng các tai biến xã hội cũng có tác động rất xấu đến du lịch. Tai biến xã hội thường có nhiều tác động đến tâm lý của du khách hơn so với các tai biến thiên nhiên, nhất là những tai biến thiên nhiên thông thường. Khác với tai biến thiên nhiên thường xảy ra đột ngột và không dự đoán được, các tai biến xã hội thường rõ ràng và dễ nhận thấy trước nên du khách có thể tiên liệu các nguy cơ tiềm ẩn về mặt xã hội ở một khu du lịch để lựa chọn các địa điểm du lịch khác. Một đất nước không có các xung đột sắc tộc, chiến tranh cũng như các nguy cơ khủng bố sẽ được các du khách ưu tiên hơn trong sự lựa chọn. Chính vì vậy mà sau vụ khủng bố 11/9/2001, một số quốc gia như Thái Lan đã thêm một yếu tố S của sự an toàn (security) vào trong 3 yếu tố S (sun, sand and sea) để quảng bá cho du lịch.

Như vậy, các tai biến môi trường gây ra nhiều tác động làm giảm chất lượng môi trường du lịch và ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch. Vì vậy, cùng với những biện pháp và nỗ lực chung để hạn chế các tai biến môi trường như sự sẵn sàng trong tình trang đối phó với thiên tai, cũng cần phải có những nghiên cứu đánh giá và quan trắc mang tính khoa học cao nhằm thành lập các bản đồ, sơ đồ phân vùng tai biến, các nguy cơ sự cố nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả trong các hoạt động phát triển du lịch. Cũng cần phải có các hệ thống cảnh báo, dự báo sớm các chỉ thị về tai biến để làm cho du khách thực sự yên tâm hơn. Ngoài ra, phải luôn coi trọng các vấn đề liên quan đến an ninh và an toàn cho khu du lịch. Ngoài lực lượng an ninh khu vực, cũng rất cần thiết để thành lập lực lượng cảnh sát du lịch nhằm đảm bảo thêm sự an toàn về mặt xã hội cho du khách.

Sau đây, chúng ta sẽ xem xét hai nghiên cứu điển hình về các tác động của tai biến môi trường đối với du lịch:



Khung 3.9. Tác động của sự nóng lên toàn cầu đến du lịch

Du lịch là một phần nguyên nhân và cũng là nạn nhân của sự nóng lên toàn cầu. Sự phát triển của các hoạt động và dịch vụ du lịch đã xả thải vào khí quyển một lượng khí nhà kính làm cho nhiệt độ trái đất ngày càng gia tăng. Theo ước tính của các nhà khoa học, ngành du lịch quốc tế thải ra khoảng 3,4% trong tổng số lượng khí nhà kính có nguồn gốc từ các hoạt động của con người. Phần lớn lượng khí thải trong du lịch do giao thông gây ra, trong đó các khí thải từ máy bay chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Sự nóng lên toàn cầu đang gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng cho ngành du lịch của nhiều khu vực và quốc gia do sự gia tăng mức độ nghiêm trọng và tần suất xuất hiện của các thiên tai như lốc, bão, vòi rồng, lũ lụt … Ngành du lịch trên toàn thế giới còn phải đối mặt với các tác động khác do sự nóng lên toàn cầu gây ra như: hạn hán, các dịch bệnh, sự ảnh hưởng của sóng nhiệt lên sức khoẻ con người … Những ảnh hưởng tiêu cực này có thể làm cho du khách tránh xa những điểm du lịch bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, sự biến đổi khí hậu toàn cầu còn gây ra những tác động tiêu cực sau đây đối với du lịch:


  • Sự gia tăng nhiệt độ và lượng mưa ít sẽ gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho các hệ sinh thái nhạy cảm như rừng mưa nhiệt đới và các rạn san hô. Các rạn san hô có nguy cơ bị tẩy trắng khi nhiệt độ nước biển tăng trên 320C. Do vậy, một số khu du lịch nổi tiếng về san hô như Great Barrier Reef của Australia, các khu rừng mưa nhiệt đới ở nhiều quốc gia sẽ mất đi sự quyến rũ đối với du khách.

  • Mực nước biển gia tăng do giãn nở vì nhiệt và băng ở hai cực tan ra khi nhiệt độ tăng cao. Sự gia tăng này sẽ đe doạ các vùng du lịch biển và ven biển. Hàng ngàn hòn đảo và nhiều thành phố du lịch ven biển xinh đẹp cùng với các cộng đồng và các nền văn hoá có nguy cơ bị nhấn chìm trong nước biển.

  • Sự nóng lên toàn cầu góp phần làm cho các tác động có hại của El Nino và La Nina trở nên khốc liệt hơn do các dòng nước biển ở bề mặt bị hâm nóng nhiều hơn. Điều này sẽ dẫn đến việc thời tiết sẽ khô hạn hơn, cháy rừng sẽ xảy ra thường xuyên hơn, lũ lụt sẽ khốc liệt hơn ở những khu vực bị ảnh hưởng, nhất là các quốc gia và các khu du lịch nằm ở Thái Bình Dương.

  • Mùa trượt tuyết ở một số khu du lịch sẽ bị rút ngắn lại do lượng tuyết và thời gian có tuyết ít hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch thể thao trên tuyết ở một số vùng thuộc dãy Anpơ và ở các khu vực khác.

  • Sự nóng lên toàn cầu có thể ảnh hưởng trực tiếp đến du lịch thông qua quá trình quyết định của du khách về hai vấn đề cơ bản: đi du lịch khi nào (mùa vụ du lịch)? và đi đâu (điểm du lịch)?. Một vài điểm du lịch ở các vùng phía đông Địa Trung Hải sẽ trở nên ít hấp dẫn đối với du khách hơn do nhiệt độ và độ ẩm tăng lên quá mức và không thích hợp đối với du lịch. Trong khi đó, một số điểm du lịch khác như ở Bắc Mỹ và Bắc Âu lại trở nên hấp dẫn hơn do thời tiết trở nên ấm áp hơn.

(Nguồn: Tourism: Principles, Practices, Philosophies - Charles & Goeldner, 2002)

Tác động của thảm họa sóng thần đến du lịch

Các thảm hoạ sóng thần cho thấy nhiều tác động nghiêm trọng lên các vùng ven biển. Mặc dù ít khi xuất hiện nhưng tính trung bình trong 5 thế kỷ vừa qua, mỗi thế kỷ đã có từ 3-4 cơn sóng thần hung dữ. Năm 1946, sóng thần xuất hiện tại Hilo, năm 1960 tại Chi Lê và Nhật Bản cướp đi nhiều sinh mạng. Du lịch thường tập trung ở những vùng ven biển, do vậy thường bị ảnh hưởng nặng nề bởi sóng thần.

Đặc biệt, trận động đất với những cơn sóng thần dữ dội tại Nam Á và Đông Nam Á vào tháng 12/2004 đã gây nên những thiệt hại to lớn về người và của cho hơn 10 quốc gia ở khu vực Ấn Độ Dương mà đặc biệt là Thái Lan, Maldives và Sri Lanka. Các quốc gia khác trong khu vực, dù có bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sóng thần hay không, cũng phải đối mặt với sụt giảm về lượng khách du lịch trong một thời gian dài. Khách du lịch thật sự không an tâm khi lựa chọn những điểm đến ở Nam Á hay một phần của Đông Nam Á, là những nơi vẫn còn đang bị đe dọa bởi hiểm hoạ sóng thần.

Trong hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 được tổ chức tại New Delhi (Ấn Độ) vào ngày 08/04/2005 vừa qua, Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC) đã đưa ra dự báo về tình hình du lịch của 174 quốc gia và của cả thế giới, đồng thời cho biết những ảnh hưởng nặng nề của thảm họa sóng thần Ấn Độ Dương đối với nền công nghiệp du lịch và lữ hành. WTTC cũng đã công bố những hành động đặc biệt đối với 3 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Maldives, Sri Lanka và Thái Lan. Với mỗi quốc gia, các nhà phân tích dự báo những suy thoái trong xuất khẩu du lịch do ảnh hưởng của sóng thần, chi phí và vốn đầu tư mà chính phủ cần tăng cường cho việc quảng bá, khôi phục và tái xây dựng công nghiệp du lịch:



  • Tại Maldives, xuất khẩu du lịch giảm 29,9% trong năm 2005. Chi phí hỗ trợ của chính phủ sẽ tăng 6,6%, vốn đầu tư tăng cường thêm 14,6%. Maldives chịu thiệt hại tổng cộng 30,4%, không đóng góp cho GDP năm 2005 là 55 triệu đô la và 10.440 lao động mất công ăn việc làm.

  • Tại Sri Lanka, xuất khẩu du lịch giảm 21,4% trong năm 2005. Chi phí hỗ trợ của chính phủ sẽ tăng 13,1%, vốn đầu tư tăng cường thêm 12,8%. Sri Lanka có thiệt hại tổng cộng 14,1%, không đóng góp cho GDP năm 2005 là 201 triệu đô la và 66.840 lao động mất công ăn việc làm.

  • Tại Thái Lan, xuất khẩu du lịch giảm 22,8%. Chi phí hỗ trợ của chính phủ sẽ tăng 5,1%, vốn đầu tư tăng cường thêm 4,7%. Thái Lan chịu thiệt hại tổng cộng 16,7%, không đóng góp cho GDP năm 2005 là 1,2 tỷ đô la và 94.780 lao động mất công ăn việc làm.

Ông Richard Miller, Phó Chủ tịch WTTC cho biết: "Ảnh hưởng của thảm họa sóng thần đối với du lịch và lữ hành ở các nước chịu ảnh hưởng trực tiếp của sóng thần ước tính khoảng 3 tỷ đô la và làm mất công ăn việc làm của hơn 250.000 lao động. Công ăn việc làm sẽ được phục hồi khi khách du lịch quay trở lại những khu vực bị ảnh hưởng, tuy nhiên nền kinh tế ở các nước này sẽ tiếp tục trì trệ một thời gian.

Mặc dù ảnh hưởng của thảm họa sóng thần thật nghiêm trọng, nhưng nhìn chung, mức tác động chỉ đáng kể đối với một số điểm du lịch, do vậy chỉ ảnh hưởng phần nào đối với toàn bộ nền kinh tế du lịch. So với thảm hoạ sóng thần tháng 12/2004 thì sự kiện khủng bố 11/9 tại Mỹ có thiệt hại tài chính ước tính lớn gấp 37,5 lần. Số lao động mất việc làm lớn hơn 2,8 lần. Vụ đánh bom khủng bố tại Bali năm 2002 chỉ gây thiệt hại tài chính 20% so với sóng thần, nhưng số lao động mất việc làm lớn gấp 1,8 lần. Nhiều chuyên gia cũng dự báo rằng tác động tiêu cực của sóng thần sẽ rất "ngắn hạn" chứ không hệ lụy dai dẳng như đại dịch SARS. Theo các chuyên gia kinh tế, ngành du lịch ở những khu vực bị thiệt hại nhẹ, chẳng hạn như Penang và Langkawi ở Malaysia sẽ nhanh chóng vượt qua các khó khăn, sớm trở lại kinh doanh bình thường. Ở những khu vực bị thiệt hại nặng tại Thái Lan, Ấn Độ và Sri Lanka, các nỗ lực hỗ trợ của chính phủ và sự năng động của các cơ sở tư nhân cũng sẽ giúp ngành du lịch sớm hồi phục.

Trong khi sóng thần đã tàn phá không thương tiếc các địa điểm du lịch hấp dẫn và cướp đi hàng trăm ngàn sinh mạng, nhiều người vẫn tin vào một vài khía cạnh tích cực của nó. Bằng cách quét sạch những thứ mọc lên bừa bãi, quy hoạch lộn xộn, những khu vực đã bị thương mại hóa nặng nề, sóng thần đã đưa các bãi biển trở về trạng thái tự nhiên, trả lại cho các bãi biển vẻ đẹp tinh khôi và hoang sơ 20 năm về trước. Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra cũng nhận định rằng sóng thần đã quét sạch những công trình xây dựng bất hợp lý, từ đó tạo ra cơ hội các phát triển lại theo quy hoạch hợp lý hơn.

Ảnh hưởng của sóng thần ở một số nước trong khu vực lại có tác động tích cực đến hoạt động của ngành du lịch ở một số quốc gia hay ở các điểm du lịch khác. Chẳng hạn như kể từ sau cơn sóng thần tháng 12/2004, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng đột biến, đồng thời các tour trong nước cũng được khách nội địa quan tâm hơn. Rất nhiều khách du lịch quốc tế chuyển từ các điểm du lịch ở Đông Á vào các khu nghỉ mát của Việt Nam. Việt Nam cũng có các khu du lịch tương tự như Thái Lan và Indonesia, đặc biệt là du lịch biển. Ngoài vấn đề tâm lý, khách du lịch nước ngoài còn muốn thay đổi điểm du lịch vì rất nhiều bãi biển ở Thái Lan hay Indonesia bị hư hỏng nặng do ảnh hưởng của sóng thần. Đây là cơ hội du lịch không chỉ của Việt Nam, mà của các quốc gia trong khu vực có sản phẩm du lịch tương tự. Ví dụ như Bali ở Indonesia là điểm du lịch vẫn còn nguyên vẹn sau loạt sóng thần tấn công đảo Sumatra và điều này vô tình có thể là "cú hích" giúp ngành du lịch Bali hồi sinh sau vụ khủng bố đánh bom cách nay hơn 2 năm. Bộ trưởng Du lịch Jero Wacik phát biểu với hãng thông tấn Antara rằng "Có khả năng là Bali sẽ đón nhận được 100.000 du khách trở lại, chủ yếu là khách các nước châu Âu".



(Nguồn: Tổng hợp từ Eturbo News, 2005)



Hình 3.8. Sóng thần ở Phuket – Thái Lan, năm 2004

3.4. Sức tải và các hoạt động du lịch

Sức tải là một thuật ngữ bắt nguồn từ sinh thái học được hình thành vào những năm của thập niên 1950 dưới hình tượng của một bãi chăn thả gia súc. Trong đó, các nhà chăn nuôi cần phải biết rõ số lượng tối đa của gia súc trên một bãi chăn thả vào từng mùa nhất định trong năm là bao nhiêu để bãi chăn thả vẫn luôn ở trong điều kiện đảm bảo sự sinh sống và phát triển của bầy gia súc.

Mặc dù có nguồn từ gốc từ việc nghiên cứu quần thể động vật, khái niệm về sức tải hiện nay không chỉ đơn thuần là sự tính toán về số lượng các cá thể. Cùng với thời gian, khái niệm này được mở rộng và từ đó được áp dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong lĩnh vực dân số, khái niệm sức tải dùng để tính toán số dân mà một khu vực nào đó có thể tiếp nhận và đảm bảo được các điều kiện sống nhất định cho họ.

Khái niệm sức tải liên tục được phát triển như là một công cụ quản lý và hoạch định trong nhiều lĩnh vực nhằm giúp cho các nhà quy hoạch và quản lý xác định các giới hạn của sự thay đổi ở các khu vực. Ngoài thuật ngữ sức tải, còn có nhiều khái niệm tương đương khác được sử dụng như: các giới hạn sử dụng (limits to use), giới hạn bền vững (sustainable limit), sở hữu tối đa (maximum occupancy), v.v… Tất cả những thuật ngữ này đều minh hoạ sự cần thiết phải duy trì sự phát triển và các hoạt động ở một mức độ nhất định nào đó nhằm đảm bảo sự bền vững về mặt xã hội lẫn sinh thái.



3.4.1. Khái niệm về sức tải trong du lịch

Trong hai thập kỷ 1960 và 1970, sự quá tải ở nhiều điểm du lịch nổi tiếng trên thế giới đã làm cho các nhà quản lý chấp nhận thuật ngữ sức tải như là một lý thuyết cơ bản trong việc đưa ra các giới hạn sử dụng điểm du lịch. Khái niệm về sức tải cũng được sử dụng trong việc quy hoạch phát triển du lịch với quan niệm rằng có một giới hạn về môi trường đối với lượng khách mà một điểm du lịch có thể “tải” được. Nếu vượt qua giới hạn này, điểm du lịch sẽ trở nên không bền vững và suy thoái nếu không có các biện pháp cải tiến về môi trường cùng với các chiến lược quản lý thích hợp.

Hovien (1982) cho rằng sức tải là số lượng du khách tối đa mà một mà một điểm du lịch có thể chứa được nhưng không gây ra sự suy thoái môi trường và làm suy giảm sự thỏa mãn nhu cầu của du khách.

Theo Martyn và Uysyal (1990) thì sức tải của một điểm du lịch thường đúng với giả định rằng không sớm thì muộn, ngưỡng của điểm du lịch sẽ đạt đến và sau đó điểm du lịch sẽ trở nên nhàm chán dần đối với du khách.

Năm 1992, WTO và UNEP đưa ra khái niệm tương đối đầy đủ hơn: “sức tải là khả năng chịu tải về số lượng du khách và sự phát triển của điểm du lịch mà không gây ra các ảnh hưởng có hại cho môi trường và các nguồn tài nguyên của nó, hoặc làm suy giảm chất lượng đáp ứng các yêu cầu và mong muốn của du khách”.

Nói tóm lại, sức tải của một điểm du lịch cho thấy rằng có một giới hạn về sự phát triển và các hoạt động diễn ra trong khu vực mà vượt qua giới hạn đó, các dịch vụ trở nên quá tải, du khách sẽ bắt đầu cảm thấy không hài lòng và sự suy thoái môi trường bắt đầu xảy ra.



3.4.2. Phân loại sức tải trong du lịch

Trong ngành du lịch, đã có nhiều cách phân loại sức tải khác nhau. Nhìn chung, cần phân biệt 5 loại sức tải chủ yếu như sau:

3.4.2.1. Sức tải vật lý

Sức tải vật lý là ngưỡng giới hạn về không gian mà vượt qua nó điểm du lịch trở nên quá tải. Hoặc sức tải vật lý là tổng giá trị sử dụng cho du lịch trên một khoảng không gian đã được xác định, ví dụ như số lượng người tắm trên một mét vuông ở một bãi biển, số lượng người ngủ qua đêm trên một diện tích của khu cắm trại, số lượng người lặn ngắm san hô trên một diện tích rạn san hô …



Đới với sức tải vật lý, do diện tích không gian của một khu vực là cố định nên cơ hội duy nhất để gia tăng sức tải là thông qua việc quản lý thích hợp để tăng hiệu quả sử dụng của không gian. Việc tính toán sức tải vật lý cũng thường rất phức tạp do các đánh giá về yêu cầu không gian là khác nhau đối với những nhóm du khách khác nhau. Ví dụ nhóm khách du lịch lớn tuổi thường đòi hỏi khoảng không gian nhiều hơn so với các nhóm trẻ. Đồng thời, sức tải vật lý còn phụ thuộc vào các hoạt động khác nhau của du lịch và phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan khác của du khách.

Khung 3.10. Một vài ví dụ áp dụng sức tải vật lý ở các điểm du lịch

New Zealand: đã thiết lập một số sức tải vật lý như sau: giới hạn khoảng 500 du khách/năm ở các đảo cận Nam Cực, 200 du khách vào bất cứ thời điểm nào ở các hang động Waitomo và 160 du khách/ngày trong thời gian khu du lịch đường mòn Milford mở cửa.

Bermuda: Chính quyền địa phương đã đưa ra giới hạn tối đa là 120.000 khách du lịch tàu biển trong mùa du lịch cao điểm.

Campuchia: Ban quản lý Di sản thế giới Ăngkovat đã đưa ra giới hạn khoảng 500.000 du khách mỗi năm (với ước tính là mỗi du khách sẽ viếng thăm khu di tích hai lần trong khi họ lưu lại ở đây).

Vùng Caribê và Ai Cập: Năm 1996, hai nhà sinh vật học Hawkins va Robert của Trường Đại học York của Anh đã bắt đầu nghiên cứu sức tải cho các khu vực lặn ngắm san hô ở các khu bảo tồn biển. Họ so sánh mức độ thiệt hại của các rạn san hô ở 3 khu vực: Bonaire ở phía Tây Nam vùng Caribê, Saba ở phía Tây vùng Caribê và Ai Cập. Ba khu vực này khá tương đồng về mật độ san hô và địa hình nói chung. Mỗi rạn san hô có một số lượng du khách lặn ngắm san hô khác nhau. Kết quả cho thấy mỗi rạn san hô có thể chịu được sức tải của khoảng 5000-6000 du khách lặn mỗi năm. Vượt quá số lượng này, mức thiệt hại gây ra cho rạn san hô sẽ tăng lên nhanh chóng. Một khu bảo tồn biển có nhiều điểm lặn ngắm san hô có thể chịu được sức tải lớn hơn nhiều lần con số đã tính toán được, tuy nhiên mỗi điểm không được vượt quá con số 5000-6000 người lặn/năm. Một cách tình cờ, con số này cũng rất sát với số liệu của một nghiên cứu cũng tại khu vực này do Word Bank tài trợ. Tuy nhiên Hawkins and Roberts cũng cho biết rằng con số trên đây chỉ là tương đối bởi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc trưng khác của các khu bảo tồn biển như độ bền vững của san hô, loại san hô, số lượng phao báo hiệu ở các điểm lặn, mức độ kinh nghiệm của người lặn …

(Nguồn: MPA NEWS  Vol. 6, No. 2, 2004)


tải về 0.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương