Chương 1 CƠ SỞ LÝ luận về du lịch và MÔi trưỜng lý luận chung 1 Du lịch


Chương 3 VAI TRÒ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG DU LỊCH



tải về 0.97 Mb.
trang8/12
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.97 Mb.
#25515
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

Chương 3

VAI TRÒ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

Khái niệm về môi trường trong du lịch theo nghĩa rộng bao gồm các nhân tố về tự nhiên, văn hóa và xã hội mà trong đó các hoạt động du lịch tồn tại và phát triển. Ngoài ra, môi trường trong du lịch còn bao gồm tất cả các yếu tố nhân tạo do con người tạo ra, chịu sự chi phối của con người và hình thành nên những tiện nghi phục vụ cho cuộc sống của con người như các phương tiên giao thông hiện đại, các khu vui chơi giải trí ...

Các hoạt động du lịch có mối quan hệ mật thiết với môi trường, khai thác tiềm năng của môi trường tự nhiên như các cảnh đẹp quyến rũ của núi, sông, biển ... và các giá trị văn hoá, nhân văn gắn liền với chúng. Do vậy thành phần, tính đa dạng và chất lượng của môi trường có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của du lịch. Sự suy giảm của chất lượng môi trường, cho dù là tự nhiên hay nhân văn, đều có tác động rất lớn đến các hoạt động du lịch và thường dẫn đến sự suy thoái của khu du lịch.

3.1. Môi trường tự nhiên và các hoạt động du lịch

Môi trường tự nhiên trong du lịch là toàn bộ không gian lãnh thổ bao gồm môi trường đất, nước, không khí, các hệ sinh thái, hệ động thực vật trên cạn và dưới nước ... và các công trình kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên nơi tiến hành các hoạt động du lịch.

Môi trường tự nhiên có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển và đa dạng hoá các hoạt động du lịch, tạo ra tiền đề cho sự phát triển các khu du lịch. Nhiều khu du lịch nổi tiếng trên thế giới như Gold Coast và Great Barrier Reef (Úc), Pattaya và Phuket (Thái Lan), Hawaii (Mỹ), Langkawi (Malaysia), Cancun (Mêxicô) ... và ở Việt Nam như Phong Nha - Kẻ Bàng, Hạ Long - Cát Bà, Tam Đảo, Sa Pa, Đà Lạt ... là những điểm du lịch dựa trên cơ sở môi trường tự nhiên với những cảnh quan thiên nhiên quyến rũ và đặc sắc. Trước hết, các thành phần cơ bản của môi trường tự nhiên là những điều kiện cần thiết cho các hoạt động du lịch. Trong nhiều trường hợp cụ thể, một số tính chất của các thành phần này có sức hấp dẫn rất lớn du khách, do vậy chúng được trực tiếp khai thác vào mục đích kinh doanh du lịch. Các điều kiện và thành phần cơ bản của môi trường tự nhiên có tác động đáng kể nhất đối với du lịch có thể kể là vị trí địa lý, địa hình - địa mạo, thời tiết và khí hậu, nước và thủy văn và đa dạng sinh học.

3.1.1. Các điều kiện và thành phần cơ bản của môi trường tự nhiên và các hoạt động du lịch.

3.1.1.1. Vị trí địa lý

Khoảng cách từ khu du lịch đến vị trí các thị trường tiềm năng của du lịch như các đô thị lớn, các trung tâm cung cấp khách, các trung tâm trung chuyển khách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến sự phát triển của du lịch. Theo quy luật chung, các khu du lịch, nhất là những khu vui chơi giải trí, càng gần với các thị trường tiềm năng càng thuận tiện và thu hút nhiều du khách. Khoảng cách quá xa của khu du lịch sẽ có ảnh hưởng đến khách ở ba yếu tố chính. Thứ nhất, du khách phải trả thêm tiền cho việc đi lại. Thứ hai, thời gian lưu lại ở nơi du lịch của du khách bị rút ngắn lại do du khách đã mất nhiều thời gian đi lại. Thứ ba, việc đi lại quá xa sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của du khách. Đối với những du khách đi du lịch bằng các phương tiện như ô tô, tàu hoả hay tàu thủy thì ảnh hưởng bất lợi của khoảng cách thể hiện rất rõ nét. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển không ngừng và xu hướng giảm giá của ngành hàng không có thể sẽ khắc phục phần nào những bất lợi trên đây đối với khách du lịch và đối với những khu du lịch ở cách xa thị trường tiềm năng.

Tuy nhiên, cũng có các trường hợp ngoại lệ. Trong một số trường hợp, khoảng cách lớn lại có sức hấp dẫn đối với một số du khách. Họ thường là những người có khả năng thanh toán cao và có tính hiếu kỳ vì sự tương phản và khác lạ giữa các khu du lịch xa xôi, hiểm trở và vị trí của nguồn cung cấp khách (Trần Đức Thanh, 2003). Các ví dụ minh họa cho sự hấp dẫn này là điểm cực Tây Land’s End của nước Anh, núi Kosciuszko và ngọn hải đăng ở Vịnh Bayron sát với điểm cực Tây của Australia... Những địa điểm xa xôi cách trở này đều thu hút rất nhiều du khách đến thăm hàng năm. Hoặc như thị trấn Rugby của bang North Dakota, nơi được xem như là trung tâm của Bắc Mỹ, mặc dù thị trấn này cách xa trung tâm thành phố nhưng rất nhiều du khách đã dừng lại tại đây để chụp ảnh và sử dụng các dịch vụ trước khi chuyển tiếp sang các điểm du lịch khác.





Hình 3.1. Điểm du lịch nổi tiếng ở thị trấn Rugby của bang North Dakota - nơi được xem là trung tâm của Bắc Mỹ.

3.1.1.2. Địa hình - địa mạo

Địa hình của một khu vực là sản phẩm của các quá trình địa chất lâu dài, là một thành phần quan trọng của tự nhiên và là nơi diễn ra mọi hoạt động của con người. Đối với các hoạt động du lịch, đặc điểm hình thái của địa hình và các dạng đặc biệt của địa hình là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng cảnh quan ở khu vực đó. Địa hình của một khu du lịch càng đa dạng, tương phản và độc đáo thì càng có sức hấp dẫn đối với du khách.

Thực tế cho thấy khách du lịch rất ưa thích những nơi có nhiều đồi núi, là những nơi vừa có sự kết hợp của nhiều dạng địa hình thể hiện được vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên, vừa có khí hậu mát mẻ, không khí trong lành. Do sự phân cắt của địa hình nên địa hình đồi núi thường có tác động mạnh đến tâm lý khách du lịch dã ngoại, rất thích hợp với các loại hình cắm trại, tham quan. Địa hình vùng đồi thường cũng là nơi có chứa nhiều di tích khảo cổ và tài nguyên văn hoá, lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch và tham quan theo chuyên đề (Nguyễn Minh Tuệ, 1999). Trong khi đó, địa hình vùng núi lại rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình thể thao mùa đông như trượt tuyết, các môn thể thao mùa hè như leo núi. Trên thế giới, các vùng núi cao có vẻ đẹp ấn tượng và hũng vĩ như dãy núi Anpơ ỏ Châu Âu, Rockies ở Bắc Mỹ, Himalaya ở Châu Á, Andes ở Nam Mỹ, Atlas ở Châu Phi ... là những địa điểm có địa hình hiểm trở nhưng thu hút nhiều du khách. Nhờ có giá trị thẩm mỹ cao gắn liền với văn hóa và tôn giáo mà nhiều vùng núi cũng đã trở thành một giá trị biểu tượng đặc sắc gắn liền với địa điểm du lịch. Núi đá đỏ Uluru, một biểu tượng nổi tiếng của miền Bắc Australia, là một điển hình rõ nét nhất. Ngoài ra còn có một số địa danh nổi tiếng khác như đỉnh Evơrét ở Nepal, Phú Sĩ ở Nhật Bản, Kilimanzarô ở Tanzania...





Hình 3.2. Núi đá đỏ Uluru, biểu tượng nổi tiếng của miền Bắc nước Úc



Hình 3.3. Núi Phú Sĩ - Ngọn núi nổi tiếng của Nhật Bản

Ở nước ta, các vùng núi và cao nguyên có phong cảnh đẹp đã được phát triển và khai thác phục vụ cho mục đích du lịch như cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng), Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây). Đặc biệt nhất là Đà Lạt và Sapa ở độ cao trên 1.500 m được mệnh danh là những “thành phố trong sương mù“ với nhiều sắc thái vùng ôn đới đã được xây dựng thành điểm tham quan, du lịch và nghỉ mát cách đây trên 100 năm. Cao nguyên Bắc Hà, các núi Bà Vì, Mẫu Sơn, Bạch Mã, Bà Nà cũng là những điểm du lịch nổi tiếng, hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp.

Trong các loại địa hình, kiểu địa hình karstơ (đá vôi) có giá trị đặc biệt với du lịch. Kiểu địa hình karstơ được tạo thành do sự lưu thông của nước mặt hay nước ngầm trong các đá dễ hoà tan (đá vôi, đôlômit, đá phấn, thạch cao, muối mỏ...). Một trong các kiểu địa hình karstơ hấp dẫn nhất đối với khách du lịch chính là karstơ hang động. Nhiều hang động rất dài và sâu như hệ thống hang động Flint Mamauth dài 530 km ở Mỹ, hang Optimisticceskaya dài 153 km ở Ucraina, hang Rescau Jecan Bernard sâu 1535 m ở Pháp, hang Sistema de Trave sâu 1380 m ở Tây Ban Nha. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 650 hang động karst đã được sử dụng cho du lịch, thu hút hàng năm khoảng 15 triệu du khách đến thăm (Nguyễn Minh Tuệ và nnk, 1999).

Nước ta có khoảng 60.000 km2 đá vôi lộ ra trên bề mặt, tập trung chủ yếu từ 16o vĩ Bắc trở lên và lại nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên rất thuận lợi cho quá trình karstơ phát triển. Karstơ hầu hết được phát triển trên các loại đá vôi có tuổi và thành phần hóa học khác nhau. Cũng như­ các vùng karstơ khác trên thế giới, ở nước ta có đủ các dạng karstơ trên mặt lẫn các dạng karstơ ngầm (hang, động) có khả năng thu hút du khách.

Hiện nay, qua khảo sát đã phát hiện ra hàng trăm hang động với tổng chiều dài 135km, trong đó tới gần 90% là các hang ngắn và trung bình (có độ dài dưới 100m), còn hơn 10% số hang có độ dài trên 100m. Các hang động lớn tập trung chủ yếu trong khối đá vôi Kẻ Bàng (Quảng Bình) có tổng chiều dài là 73 km, Cao Bằng gần 26 km, Lạng Sơn hơn 13 km, Sơn La trên 12 km. Hang động ở khối đá vôi Kẻ Bàng tạo thành một hệ thống liên hoàn, tập trung ở th­ượng nguồn sông Son. Chúng phân bố giống như­ một dòng sông với các nhánh khi thì lộ ra, khi thì đi ngầm trong núi, trong đó hang động dài nhất và đẹp nhất là động Phong Nha (7.729m).

Bảng 3.1. Một số hang động dài nhất ở nước ta

(Theo tài liệu khảo sát đến năm 1997)



Tên hang

Tỉnh

Chiều dài (m)

Độ sâu (m)

Tên hang

Tỉnh

Chiều dài (m)

Độ sâu (m)

Phong Nha

Quảng Bình

7.729

83

Ngườm Sập

Cao Bằng

2.184

31

Tối

Quảng Bình

5.258

80

Rắn

Sơn La

1.718

87

Vòm

Quảng Bình

5.050

145

Én

Quảng Bình

1.645

49

Maze Cave

Quảng Bình

3.927

45

Hổ

Quảng Bình

1.616

46

Thung

Quảng Bình

3.351

133

Rú Moóc

Lạng Sơn

1.560

42

Cả

Lạng Sơn

3.342

123

Khe Ry

Cao Bằng

1.387

120

Ngườm Pắc Bó

Cao Bằng

3.248

77

Pitch Cave

Quảng Bình

1.075

60

Over

Quảng Bình

3.244

103

Pắc Nàng

Lạng Sơn

1.071

0

Rục Mòn

Quảng Bình

2.836

49

Pygmy

Quảng Bình

845

94

Rục Caroon

Quảng Bình

2.800

45

Ngườm khu

Cao Bằng

804

36

(Nguồn: Tuyển tập các công trình khoa học, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ngành Địa lí, 1998)

Có thể chia các hang động ở Việt Nam thành 3 khu vực chính.

- Ở Đông Bắc, các hang chỉ phát triển theo chiều ngang và ngắn. Riêng hang Cả có chiều dài hơn 3.300m (tính cả ba tầng).

- Ngư­ợc lại, ở Tây Bắc, các hang phần lớn phát triển theo chiều thẳng đứng và phân bậc rõ rệt.

- Ở Bắc Trường Sơn, các hang hầu như chỉ phát triển theo chiều ngang và hầu hết là theo tuyến chảy của sông hiện nay.

Nhìn chung, hang động nước ta có cấu tạo phức tạp. Ở các hang lớn thường có nhiều phòng, nhiều nhánh và được thông ra ngoài bằng nhiều cửa. Tuy nhiên, cũng có hang chỉ có một phòng rộng (như­ hang Dơi ở Hữu Lũng, Lạng Sơn chỉ có một phòng cao 120m, dài 328m và rộng gần 200m). Về các tầng hang động, có ít nhất 5 mức cửa hang ở độ cao khác nhau (Nguyễn Quang Mỹ, Vũ Văn Phái, Đặng Văn Bào, 1998).

Các hang động ở nước ta thường nằm ở chân núi và cả ở lưng chừng núi với vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và rất kỳ ảo, có sức hấp dẫn đặc biệt với khách du lịch. Bên cạnh những vẻ đẹp tự nhiên do tạo hóa sinh ra, các hang động còn chứa đựng những di tích khảo cổ học, những di tích lịch sử - văn hóa rất đặc sắc của dân tộc nên càng có giá trị để phát triển du lịch.

Ở Việt Nam có 2 công trình thiên nhiên được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đều là các dạng địa hình karst là vịnh Hạ Long (1994) và Phong Nha - Kẻ Bàng (2003). Hai di sản này đang được khai thác và hàng năm đều đón được một số lượng khách du lịch rất lớn.

Ngoài những kiểu địa hình kể trên, các kiểu địa hình ven bờ như đại dương, biển, sông, hồ ... cũng là những tài nguyên môi trường tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng đối với du lịch. Các kiểu địa hình ven bờ càng có giá trị đối với du lịch nếu có các bãi cát và có thể xây dựng thành những bãi tắm, hoặc có vị trí và địa hình đáy ven bờ thuận lợi và an toàn. Địa hình ven bờ có thể được tận dụng phục vụ cho du lịch với nhiều mục đích khác nhau, từ tham quan du lịch theo chuyên đề khoa học, nghỉ ngơi, an dưỡng cho đến tắm biển, thể thao dưới nước ... Điều này giải thích vì sao hiện nay trên phạm vi toàn thế giới, tỷ lệ khách du lịch hàng năm đổ về các bãi biển không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại bờ biển đều được du khách ưa thích. Loại bờ biển có nguồn gốc từ sự ăn mòn của đá núi lửa thường tạo ra bãi cát nóng và mặt nước u tối không được ưa thích bằng những bãi biển có nguồn gốc từ đá vôi hay san hô, là nhưng nơi có cát trắng mịn và mặt nước trong xanh, thoáng đãng (Weaver and Lawton, 2001).

Nước ta có đ­ường bờ biển dài hơn 3.260 km với khoảng 125 bãi biển, là hạt nhân tiền đề hình thành các khu du lịch biển phân bố tương đối đồng đều từ Bắc đến Nam, trong đó có nhiều bãi tắm tốt (nhiều bãi ở dạng sơ khai, chư­a bị ô nhiễm) và hệ thống đảo ven bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang như một chuỗi ngọc viền quanh bờ biển, trong đó có một số đảo có giá trị du lịch.

Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Hải Thịnh, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Đá Nhảy, Nhật Lệ, Cửa Tùng, Thuận An, Cảnh D­ương, Lăng Cô, Non Nước, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Đại Lãnh, Dốc Lết, Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Long Hải, Phư­ớc Hải ...

Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc WTO, dải bờ biển có những bãi tắm đẹp nhất nước ta kéo dài liên tục từ bãi Đại Lãnh (Khánh Hoà) dưới chân đèo Cả qua vịnh Văn Phong cho đến Nha Trang, Ninh Chữ. Đây là tiềm năng to lớn, đặc biệt là vịnh Văn Phong, để tạo nên khu du lịch biển có thể cạnh tranh được với các khu du lịch biển của các nước trong khu vực (như Pattaya ở Thái Lan...).

Nhìn chung, các bãi biển ở nước ta dài, rộng, nền chắc, được cấu tạo bằng cát, độ dốc trung bình 2 - 3o. Độ mặn nước biển ở các bãi tắm đại bộ phận không v­ượt quá 30 ooo. Độ trong của nước biển dao động trong khoảng 0,3 - 0,5 m. Ở Đại Lãnh đạt 3-4m, còn ở Văn Phong 4-5 m. Với nguồn tài nguyên này, nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng.

Nước ta có hệ thống đảo và quần đảo phong phú. Trải dài từ vùng biển Quảng Ninh cho đến Kiên Giang gồm 9 huyện đảo, nhiều xã đảo với khoảng 18 vạn dân, hệ thống đảo ven bờ có giá trị lớn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, trong đó có du lịch.

Theo thống kê của đề tài KT 03-12 thuộc Ch­ương trình nghiên cứu biển (1995), nước ta có 2.773 đảo ven bờ (cách xa bờ trong khoảng 100 km) với tổng diện tích 1.720 km2. Trong số này, có 84 đảo có diện tích từ 1 km2 trở lên, chiếm 1.596 km2 (92,7% tổng diện tích đảo ven bờ). Các đảo t­ương đối lớn có diện tích trên 10 km2 là 24 và trên 100 km2 là 3. Điều đó được thể hiện qua bảng 3.2 dưới đây.

Bảng 3.2. Số lượng các đảo ven bờ phân theo diện tích

Nhóm đảo phân theo diện tích (km2)

Số đảo trong nhóm

% so với tổng số đảo

Tổng diện tích của nhóm

% so với tổng diện tích các đảo

Dưới 0,001

0,001 - 0,004



284

685


10,24

24,70


0,1129

1,6161


0,01

0,10


0,057 - 0,09

418

15,07

2,7909

0,16

0,01 - 0,04

779

28,10

17,6136

1,02

0,05 - 0,09

209

7,54

14,5312

0,84

0,1 - 0,4

266

9,59

52,8745

3,07

0,5 - 0,9

48

1,73

34,7793

2,02

1,0 - 4,9

51

1,84

121,6281

7,07

5,0 - 9,9

9

0,32

61,5910

3,58

10 - 49

19

0,69

375,6273

21,83

50 - 100

Trên 100


2

3


0,07

0,11


133,7727

903,9378


7,77

52,53


Tổng cộng

2.773

100,00

1.720,8754

100,00

(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của đề tài Kinh tế 03-12, 1995)

Một số đảo lớn nhất phân theo diện tích gồm có:

Trên 100 km2: Phú Quốc (557 km2), Cái Bầu (194 km2), Cát Bà (153 km2).

Từ 50 - 100 km2: Trà Bản (76,4 km2), Côn Lôn (57,4 km2).

Từ 10 - 49 km2: Hòn Lớn (45,1 km2), Hòn Tre (38,4 km2), Vĩnh Thực (32,6 km2), Phú Dự (32,5 km2), Đồng Rui (32,3 km2), Ba Mùn (23,4 km2), Phú Quý (18 km2), Thanh Lam (16,8 km2), Cái Lim (16,1 km2), Vạn Cảnh (16,1 km2), Định Vũ (15,8 km2), Quan Lạn (15,7 km2), Cô tô (15,6 km2), Cù Lao Chàm (14,3 km2) ...

Về phân bố, các đảo ven bờ tập trung ở vùng biển Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Bốn tỉnh có nhiều đảo nhất là Quảng Ninh (2078 đảo, chiếm 74,94%), Hải Phòng (243 đảo và 8,76%), Kiên Giang (159 đảo và 5,73%), Khánh Hòa (106 đảo và 8,82%). Có giá trị nhất đối với hoạt động du lịch là đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Cát Bà (Hải Phòng) và sau đó đến một số đảo khác.



Bảng 3.3. Phân bố các đảo ven bờ theo vùng

Các vùng

Hệ thống đảo

Trong đó, các đảo có diện tích  1 km2

Số đảo

%

Số đảo

%

Diện tích

(km2)

%

Ven bờ Bắc Bộ

Ven bờ Bắc Trung Bộ

Ven bờ Nam Trung Bộ

Ven bờ Đong Nam Bộ

Vinh Thái Lan


2.321

57

200



30

165


83,70

2,06


7,21

1,05


6,96

50

3

18



5

8


59,52

3,57


21,43

5,95


9,52

761,1914

9,424


153,5418

76,9120


595,4877

47,68

0,59


9,61

4,82


37,30

Tổng cộng

2.773

100,0

84

100,0

1596,5569

100,00


tải về 0.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương