Chú Giải Kinh Kim Cang Và Chánh Pháp Chưa Từng Có ht. Huyền VI


PHẦN VÔ ĐẮC, VÔ THUYẾT THỨ 7



tải về 1.4 Mb.
trang10/30
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.4 Mb.
#5475
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   30

PHẦN VÔ ĐẮC, VÔ THUYẾT THỨ 7


PHÂN GIẢI:

Phần trước đã nói Phật không thể thấy, Pháp không thể chứng, Phật đã không thể thấy, thì các Kinh điển do ai nói ra? Pháp đã không thể chứng, thì ai được đắc pháp ư? Các điểm trên chắc chắn kẻ phàm phu sẽ nghi vấn, cho là vật có thể được thì gọi là đắc, pháp có thể chứng thì gọi là ngộ. Thù bất tri, pháp làm sao mà đối diện, làm sao mà có thể thấy được (pháp đây là chỉ cho chân lý), không thể nào so sánh với vật chất hữu tình được. Phật pháp đã không thể đối diện, không thể thấy thì làm sao mà có thể "được" ư? Lại có hạng người thông minh gọi đó phải dùng tâm mới nhận được. Nhưng tâm ấy cũng là một cái ngã chấp vô hình. Gọi đó là năng tri chướng, lại cũng gọi đó là lý chướng. Sự chướng thì chướng ngại cho phàm phu; lý chướng thì chướng ngại cho Bồ Tát. Nay nói "Vô đắc", chính là sự lý hai chướng đều phá vậy. Khi chưa giác ngộ phải nhờ ngôn thuyết, khi đã giác ngộ thì ngôn thuyết đều "phi". Những pháp Như Lai đã nói, có lúc nói có, có thời nói không đều là nhơn bịnh cho thuốc, đều không có pháp nhất định. Nếu là tùy lời nói sanh kiến giải, chấp trước có không, đều là chứng bịnh pháp chấp, chỉ có ngôn thuyết, đều không thật nghĩa. Nay nói "vô thuyết", chính là để phá chướng ngôn ngữ văn tự. Thế nên trong Kinh có bài tụng:

"Có tâm đều là vọng,

Không chấp mới là chân,

Nếu ngộ phi phi pháp,

Tiêu diêu ra sáu trần".

Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có chứng đặng bật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai đã chó thuyết pháp không? – Tu Bồ Đề thưa: "Như con hiểu nghĩa của Phật đã nói không có pháp nhứt định, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; cũng không có pháp quyết định mà Như Lai đã nói, vì sao? Pháp Như Lai đã nói đêù không thể chấp, không thể nói, phi pháp và không phi pháp. Lý do vì sao? Tất cả hiền thánh, hiền thánh. Hiền là ai? Như các vị chứng Tu Đà Hoàn cho đến A La Hớn. Còn Thánh tức là Phật. Tất cả Hiền Thánh là nói đến Hiền Thánh trong tam thừa"

1) Thinh Văn Thừa: Y theo pháp môn tứ đế: Khổ, tập, diệt, đạo; quán sát nghe tiếng của Phật nói pháp, tu hành được giải thoát.

2) Duyên Giác Thừa: Nương theo pháp môn 12 nhân duyên, không thầy chỉ dạy, tự ngộ đạo lý nhiệm mầu.

3) Bồ Tát Thừa: Y theo pháp môn lục độ mà được giải thoát yên vui, đều dùng pháp vô vi, pháp vô vi là giác tính tự nhiên, không thể nương nhờ mà được. Thế nên, pháp vô vi chính là đạo Vô Thượng Bồ Đề, là Niết Bàn, là Như Lai, là Vô Tướng, là Vô Trụ cho đến Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật v.v…mặc dù có các danh xưng, đều là ý tứ của pháp vô vi. Trái lại là pháp hữu vi, tức pháp thế gian, còn pháp vô vì là pháp xuất thế gian. Xưa nay có một ít ngưòi tu hành, chấp láy hai chữ vô vi, nhận làm không tịch, rồi mới huyền nói diệu, tự cho là học Phật. Sự thật đó chỉ là những hạng người bắt gió theo bóng, hoang mê không thể nào luận nói hết được mà có sai khác. Sai khác, là nói ý tứ cao thấp không đồng, cũng như voi, ngựa, thỏ lội qua sông. Voi thì ung dung tự tại lội qua, ngựa thì lội qua bị nước ngập ngang đầu; thỏ thì phải bơi trên mặt nước là lội qua. Lai cũng như ba loại chim bay lươn trên không, có con bay trước, có loài bay sau. Nói đến nước sông thì không có cạn, sâu; luận đến không gian đều không có trước, sau, nhưng vì chân của loài thú thì có ngắn có dài, cánh của các loài chim có mạnh có yếu. Thí dụ trên để cho chúng ta biết pháp vô vi cũng như hư không, cũng như nước dưới dòng sông. Chỉ vì người tu hành, căn tánh lợi, độn khác nhau, thế nên có ra sự phân biệt của tam thừa hiền thánh.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản chính để nối phần trước, nói lên vấn đề ly tướng, muốn cho hàng đệ tử lãnh ngộ Kinh văn, đối với các pháp không nên trụ trước để thực hành đạo lý bố thí. Xưa nay trong giác tánh, vốn không có bốn tướng, không pháp tướng và phi pháp tướng, do đó Phật Như Lai trong phần thứ 6 đem chiếc bè ra để làm thí dụ, thuyết minh pháp cùng phi pháp đều không nên chấp. Nhưng Đức Phật Như Lai lại lo sợ hành đệ tử nghi ngờ, cho rằng pháp cùng phi pháp đã không thể chấp thủ, tại sao Đức Như Lai tự Ngài phải dày công tu tập mới chứng được quả Chánh Giác Bồ Đề? Hiện tại trong nhân gian cùng trên trời đã có 16 pháp hội, giảng rộng nghĩa lý Bát Nhã. Theo đây mà nhận xét thì Phật Pháp có thủ có thuyết, vì sao mà dạy chúng sanh không chấp thủ, không có nói pháp, do đó nên dễ sinh nghi lầm. Vì vậy Đức Phật Như Lai dùng câu hỏiNhư Lai có chứng đặng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay không? (Như Lai đã có thuyết pháp không? . Hai câu trên để thí nghiệm Ngài Tu Bồ Đề thật đã có lãnh hội được ý của Như Lai chưa? Vì đã lãnh hội, nên Ngài bạch rằng, đức Từ Phụ nói thí dụ chiếc bè, con đẵ hiểu rõ, chưa qua sông thì chấp có bè, nhưng khi đã qua rồi thì xả tất cả. Do đây mà suy luận, thủ cùng xả đâu có pháp nhứt định, vì biết không có pháp nhứt định, nên gọi là Bồ Đề. Cũng không có pháp gì nhứt định đáng nói; pháp vô thượng bồ đề đều do giác tánh tự nhiên của ta, không thể do ai khác làm ra. Chẳng những Đức Như Lai như thế, mà cả tam thừa Thánh Hiền cũng do có sự sai khác về căn tánh lợi hay độn, ngộ có cạn và sâu, thành công từ ấy mà chia ra có chậm và mau. Vì thế nên Ngài Văn Thù khen ngợi cư sĩ Duy Ma Cật: "Cho đến không có ngôn ngữ văn tự. ấy mới thật là pháp môn bất nhi". Nên biết rằng Như lai không trụ pháp mầu, vốn ly khai ngôn ngữ văn tự, dù là một cũng không sở đắc. Chỉ vì lợi ích chúng sinh, nên không ngại hiện khởi các thứ hình tướng ngôn ngữ, khiến mọi người quán sát hình tướng, khởi tâm cung kính, nghe pháp liễu ngộ lý mầu. Nếu người có trí tuệ, tức ngôn ngữ, tức danh tướng, ly danh tướng, biết đặng tức không đặng, biết nói tức không nói, như vậy mới ngộ đước "Trung đạo đệ nhất nghĩa đế".

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật gọi Ngài Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Như Lai thiệt có được Bồ Đề (chánh giác) không? Như Lai quả thật có nói pháp gì nhất định không? Tu Bồ Đề bạch rằng: Như con hiểu ý Phật đã nói, không có pháp nhất định gọi là Bồ Đề; cũng không có pháp nhất định để nói. Như vậy là thế nào? Chính vì Từ Phụ Như Lai, những pháp Ngài đã nói là pháp Vô Thượng Bồ Đề, phải dùng tâm mà liễu ngộ, không thể dùng sắc tướng mà thủ chứng, để chó thể hội ý, cũng không thể dùng lời mà nói được. Những lời phi pháp mà đức Từ Phụ ta nói (tuy có mà không), hay là phi phi pháp (tuy không mà có). Các duyên cớ ấy, chẳng những Từ Phụ Như Lai ta, mà tất cả các bậc Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi ấy tự tu, chẳng qua đắc đạo cạn thì gọi là Hiền, hoặc nhờ ngôn thuyết chương cú, rồi sau đó tự ngộ. Những bậc đắc đạo sâu gọi là Thánh, đốn tu đốn ngộ. Thực tế, sự thành công tuy một, nhưng vì căn tánh có lợi và độn, chỗ ngộ phải có cạn, có sâu sai khác; thế nên sự thành công có chậm và mau không đồng vậy.

Thơ 7

Tu Bồ Đề! Ông chớ quên,



Như Lai có chứng bậc trên thượng thừa?

Như Lai đã nói pháp chưa?

Chân thật hồi đáp cho vừa đại căn!

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

Quả không có chứng, có năng bao giờ?

Như Lai thuyết pháp tùy cơ,

Không vướng, không bận, thân sơ giải trừ!

Vì sao ta phải suy tư,

Từ Hiền đến Thánh vô sư đều dùng,

Con đường giải thoát vô cùng,

Sai khác là tại đóng khung mỗi loài.
---o0o---


Каталог: downloads -> giang-kinh -> kinh-kim-cang
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
giang-kinh -> Sự Thành Lập Kinh Điển Phật Giáo Daisaku Ikeda (The First Mileage of Buddhism) Nguyên Hảo dịch Nguồn

tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương