Báo cáo tổng kết đề tài Hậu Giang



tải về 6.89 Mb.
trang2/13
Chuyển đổi dữ liệu12.12.2017
Kích6.89 Mb.
#35048
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

b) Ký chủ

Ngoài khóm, loài này còn tấn công trên cây ca cao, cọ dầu, chuối, đậu phộng, chà là, xoài, đậu nành, mía, cà phê, mè.



c) Đặc điểm hình thái và sinh học

Thành trùng, cái hình bầu dục, màu hồng, dài khoảng 3 mm và rộng 2 mm, toàn thân phủ 1 lớp sáp trắng. Loài này thường sinh sản theo lối trinh sản, có khả năng sinh sản rất cao và nhanh nên trong một năm có thể có từ 6-7 thế hệ.



d) Tập quán sinh sống và cách gây hại

Cả ấu trùng và thành trùng thường sống tập trung dưới gốc cây khóm, nhưng đôi khi cũng di chuyển cả lên lá, trái. Rệp tập trung chích hút dưới rễ làm cả hệ thống rễ bị hư, cây héo rất giống triệu chứng do bệnh gây ra. Ngoài ra, nước bọt do rệp tiết ra trong khi chích hút làm nghẽn mạch dẫn nhựa, cây bị héo. Hơn nữa, việc di chuyển nước lên trên khó khăn cũng làm cho bộ rễ bị hư và toàn cây bị héo khô, trái nhỏ, mất phẩm chất. Sự thiệt hại thay đổi với tuổi cây, hom giống, điều kiện đất đai, điều kiện tưới tiêu nước và kỹ thuật canh tác.

Những ruộng khóm bị bệnh nhẹ thì xuất hiện rải rác nhưng cây mọc còi cọc, lá màu vàng úa; trên những ruộng bị bệnh nặng có những đám lớn cây còi cọc, lá màu úa đỏ, trước tiên các lá già nhất bị đỏ, rồi đến các lá trên. Các giai đoạn phát triển của bệnh như sau:

- Giai đoạn 1: trước tiên từ các lá già biểu hiện đỏ dần sau đó rìa lá cuốn cong lại về phía dưới mặt lá và đầu lá cong xuống đất.

- Giai đoạn 2: lá không phát triển được và chuyển sang màu hồng và các đầu lá cũng bắt đầu chuyển dần sang màu hồng vàng, dần dần thành nâu và khô lại.

- Giai đoạn 3: các lá trung gian lần lượt bị cong xuống, mép lá thành vàng, phần còn lại chuyển sang màu hồng tía, đầu lá bị cuốn lại.

- Giai đoạn 4: lá non vẫn đứng thẳng, nhưng kém phát triển và cuối cùng các đầu lá cũng bị cuốn lại và héo khô.

Vào mùa mưa, màu đỏ của lá bệnh đặc trưng, thường biểu hiện màu vàng nâu, trên lá thường có các vết hoại thư lớn. Trước khi lá thay đổi màu sắc đã có sự ngừng tăng trưởng của bộ rễ và dần dần bộ rễ bị hư. Cây bị rệp gây hại phát triển kém, nếu cho trái được thì những trái này thường nhỏ, bị chín háp, chua và cuối cùng bị khô.



e) Biện pháp phòng trị

- Làm kỹ các khâu như kỹ thuật canh tác, bón phân, giải quyết tốt điều kiện tưới tiêu nước…

- Thường xuyên thăm ruộng khóm để phát hiện cây héo và nhổ bỏ hay xử lý thuốc kịp thời.

- Cây con trước khi trồng nên nhúng vào dung dịch thuốc trừ sâu lưu dẫn. Sau đó khoảng 8 tháng tưới cây khóm lại bằng dung dịch như trên.

- Cần diệt trừ kiến vì kiến hay tha các con rệp đem dấu ở gốc cây khóm.

1.2. Đặc điểm sinh học và khả năng ứng dụng của nấm trắng, Beauveria bassiana (Bals.) Vuill và nấm xanh, Metarhizium anisopliae (Metsch.) Sorok

1.2.1 Đặc điểm sinh học của nấm trắng và nấm xanh

a) Đặc điểm sinh học của nấm trắng

Nấm trắng, Beauveria bassiana (Bals.) Vuill. (còn gọi là nấm bạch cương) được sử dụng trong phòng trừ dịch hại nông nghiệp gần như khắp thế giới (Ferron, 1978). Nấm trắng có bào tử dạng hình cầu hoặc hình trứng có kích thước 2,5-3,5 m mọc trên cuống sinh bào tử hướng gốc và tụ lại thành những đám dày đặc trên các sợi nấm vươn khỏi lớp khuẩn ty, cuống sinh bào tử có phần gốc hình cầu hoặc hình lọ tam giác (2-32-4m) gắn trên cành bào tử hình díc dắc dài tới 20 m (Rombach và ctv., 1994).



b) Đặc điểm sinh học của nấm xanh

Nấm xanh, Metarhizium anisopliae (Metsch.) Sorok (còn gọi là nấm lục cương) được tìm thấy trên hơn 200 loài côn trùng khác nhau (Ferron, 1978).

Nấm xanh thường xâm nhiễm trên rầy lá, rầy thân, bọ xít đen và nhiều loài sâu hại khác. Nấm hình thành trên bề mặt côn trùng một lớp phấn màu xanh vàng đến xanh đậm trên mạng sợi nấm chằng chịt màu trắng. Cuống sinh bào tử có hình trụ 6-13  2-4 m mọc trên các cành bào tử. Bào tử trần hình trụ hoặc hình elip có kích thước 4,5-8,5  2,5-4 m và xếp thành chuỗi dài (Rombach và ctv., 1994).

1.2.2. Khả năng ký sinh côn trùng của nấm trắng và nấm xanh

Nấm là một nhóm có phổ ký chủ rộng nhất trong số những mầm bệnh của động vật ngành chân đốt, trong đó hai loài nấm trắng và nấm xanh có phổ ký chủ rộng hơn các loài khác vì chúng có thể ký sinh trên nhiều họ của ngành chân đốt (Butt and Copping, 2000). Trong những năm qua, M. anisopliaeB. bassiana đã được chú trọng nghiên cứu và sử dụng trong việc phòng trừ nhiều loài sâu hại, bao gồm các loài sâu hại bông, khoai tây, lúa mì, đậu và ngô ở Mỹ. Một số nước ở Bắc Âu như Hà Lan, Phần Lan và Thụy Điển cũng đã nghiên cứu và sử dụng vi nấm để phòng trừ sâu hại cây trồng.



a) Khả năng ký sinh côn trùng của nấm trắng

Nấm trắng đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên hơn 70 loại cây trồng ở Xô Viết cũ và những quốc gia vệ tinh để phòng trừ nhiều dịch hại khác nhau (Ferron, 1978). Ignoffo và ctv. (1979) đã thử nghiệm thuốc trừ sâu Boverin (sản xuất từ nấm trắng) trên sâu tơ và cho thấy LC50 đối với ấu trùng sâu tơ ba ngày tuổi là 2,7 x 108 bào tử/ml tương đương với 1,5 x 106 bào tử/cm2 bề mặt lá. Vanderberg đã tiến hành thí nghiệm trong phòng và cho thấy rằng tất cả các giai đoạn ấu trùng sâu tơ đều bị mẫn cảm đối với nấm trắng nhưng ấu trùng bị chết nhanh hơn khi ở nhiệt độ trung bình và bào tử nấm trắng cao. Vanderberg và ctv. cũng đã thử nghiệm ngoài đồng bằng cách sử dụng sản phẩm Mycotrol (sản xuất từ B.bassiana) phun định kỳ một tuần/lần hoặc hai tuần/lần đã làm giảm mật số và sự gây hại của sâu tơ một cách có ý nghĩa so với dùng thuốc hóa học trên cây giống (Frank, 2000). Aguda và ctv. (1984) đã dùng nấm B. bassiana để phòng trừ rầy nâu, Nilaparvata lugens, rầy lưng trắng, Sogatella furcifera và rầy xanh đuôi đen, Nephotettix spp. hại lúa. Nấm trắng đã được ứng dụng để phòng trừ rầy nâu, bọ xít đen, Scotinophora coarctata ở ngoài đồng tại Hàn Quốc, Philippines (Rombach và ctv., 1986a, 1986b; Aguda and Rombach, 1987; Aguda và ctv., 1988). Nấm trắng phổ biến trong quần thể bọ xít hôi, Leptocorisa oratorius ở Philippines (Rombach và ctv., 1988). Nấm trắng còn được sử dụng để phòng trừ sâu róm thông, Dendrolimus spp. ở Trung Quốc với hiệu lực đạt 43 – 93% (Pan and Zheng, 1988). Nấm trắng có khả năng phòng trừ sâu đục thân bắp ở Châu Âu khi được phun trên tán lá cây bắp (Hsil và ctv., 1973; Lewis and Bing, 1991; Lewis và ctv., 1996). Dòng nấm trắng trích từ rầy nâu hại lúa ở Pantagar (Ấn Độ) có khả năng gây chết cao đối với rầy nâu (88,35 đến 91,25%), rầy lưng trắng (86,59 đến 92,44%), rầy xanh đuôi đen (96,12%) và sâu cuốn lá (74,45%) (Nguyễn Thị Lộc, 1995). Gần đây, chế phẩm nấm trắng được sản xuất từ một nòi B. bassiana (GHA) phân lập tại Mỹ, đã được đăng ký để phòng trừ bọ trĩ, rầy mềm và một số bọ cánh cứng khác (Copping, 1998; Copping, 2001).

Ở Việt Nam, nấm trắng cũng đã được thí nghiệm trong nhà lưới để trừ các loài rầy hại lúa và kết quả cho thấy rằng nấm trắng có hiệu lực trừ rầy nâu, rầy lưng trắng và rầy xanh cao. Ấu trùng của rầy nâu và rầy lưng trắng dễ nhiễm bệnh đối với B. bassiana hơn thành trùng của hai lọai rầy trên (Nguyễn Thị Lộc, 1997). Các nhà khoa học của Viện Bảo Vệ Thực Vật cũng đã thử nghiệm và sử dụng nấm trắng trừ sâu róm thông, Dendrolimus punctatus ở Thanh Hóa và Sơn La (Phạm Thị Thùy, 1996; 1999). Phạm Thị Thùy và ctv. (2001 b) đã sử dụng nấm trắng với nồng độ 108 bào tử/ml để trừ sâu tơ đạt hiệu quả rất cao (81,25%) ở 8 ngày sau khi phun.



b) Khả năng ký sinh côn trùng của nấm xanh

Nhà khoa học Nga Ilia Mesnhicov là người đầu tiên phát hiện ra bệnh nấm xanh (gọi là Entomopthora anisopliae), nay đổi là Metarhizium anisopliae. Đến năm 1908, Mesnhicov và học trò của ông là Crasintxik đã sử dụng nấm này để chống bọ đầu dài hại củ cải đường. Đến những năm 80, 90 của thế kỷ này nấm Metarhizium và những chế phẩm sản xuất từ loài nấm này lại được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên thế giới để phòng trừ sâu đục thân ở Tasmania, chống loài mối, Nasutitermes exitiousus (Hill) ở Đức, các loài mối thuộc Coptotermes ở Úc (Tạ Kim Chỉnh và ctv., 1995). Từ những năm 80 của thế kỷ 20, trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm sinh học từ vi nấm M. anisopliae mang tên thương mại Metaquino để phòng trừ muỗi sốt rét Lubilosa, phòng trừ châu chấu, Schistocerra gregaria.

Ấu trùng bọ cánh cứng hại dừa, Oryctes rhinoceros bị nhiễm tự nhiên bởi nấm xanh và nấm này được xem là một nhân tố gây chết tự nhiên quan trọng của bọ dừa (Carruthers and Soper, 1987). Nhiều nghiên cứu đã áp dụng bào tử nấm xanh phòng trừ bọ cánh cứng và sử dụng nấm này trong chương trình IPM cùng với baculovirus (Young, 1986). Nấm xanh có tên thương mại là Bio – Path được sử dụng để phòng trừ mối tại Mỹ (Kaakeh và ctv., 1996). Ở Brazil, tỉ lệ mối chết cao (gần 100%) khi quan sát 19 của 20 tổ mối được xử lý với nấm xanh và tổ còn lại có tỉ lệ chết là 70% (Alves và ctv., 1995). Ở Úc, bào tử nấm xanh được phun trên các gò và tổ mối đã cho tỉ lệ chết đáng kể nhưng khi xử lý gián tiếp bằng cách đặt bã mồi thì không thành công (Milner and Staples, 1996; Milner và ctv., 1998). Sản phẩm thương mại của nấm xanh là BioGreen gần đây được khuyến cáo sử dụng trừ bọ hung đầu đỏ, Adoryphorus couloni ở Úc (Shah and Goettel, 1999).

Viện Bảo Vệ Thực Vật đã nghiên cứu và sử dụng nấm M. anisopliae để phòng trừ một số loài sâu hại nông nghiệp (Phạm Thị Thùy, 1992; 1996). Nấm xanh, M. anisopliae đã được nghiên cứu và ứng dụng để phòng trừ các loài mối hại cây công nghiệp, cây ăn trái và cây cảnh (Tạ Kim Chỉnh và ctv., 1996). Nấm xanh, M. anisopliae được ứng dụng trong việc quản lý các loài sâu hại lúa (Nguyễn Thị Lộc, 1997). Khi sử dụng nấm trắng, B. basiana hoặc nấm xanh, M. anisopliae trên đồng ruộng để quản lý sâu rầy hại lúa thì không gây ảnh hưởng xấu tới những thiên địch của sâu hại lúa như nhện lớn bắt mồi, nhện lưới, nhện lùn, nhện chân dài, bọ xít mù xanh và bọ xít gai ăn thịt tại ĐBSCL (Nguyễn Thị Lộc và ctv., 2002).



Nấm xanh còn có hiệu quả cao khi dùng để trừ bọ cánh cứng hại dừa, Brontispa sp. (Coleoptera: Chrysomelidae). Kết quả khảo nghiệm trên bọ cánh cứng hại dừa ở Ô Môn cho thấy rằng dòng nấm xanh trích từ rầy nâu, bọ xít và bọ dừa bị nhiễm tự nhiên có hiệu lực diệt trừ bọ dừa rất tốt và đạt 71,6-79,1% ở 14 ngày sau khi phun và đặc biệt dòng nấm M.a (OM3-BD) phân lập từ con bọ cánh cứng hại dừa bị nhiễm nấm xanh tự nhiên ngoài đồng tại Ô Môn có hiệu lực trừ bọ dừa cao không khác biệt về mặt thống kê so với Rotenone (Nguyễn Thị Lộc và ctv., 2004).

1.2.3 Độc tố của nấm trắng và nấm xanh

a) Độc tố của nấm trắng

Nấm trắng tạo ra hỗn hợp độc tố bao gồm beauvericin, bassianolide và cosporein. Trong đó độc tố chính gây hại cho côn trùng đã được chú ý nghiên cứu nhiều nhất là beauvericin. Cấu trúc của beauvericin là một hexadepsipeptide đã được phân lập từ các loài nấm ký sinh côn trùng như Beauveria spp., Paecilomyces spp. và nấm gây bệnh cây trồng như Fusarium spp. và Polyporus fumosoroseus (Grove and Pople, 1980; Munkvold và ctv., 1998). Beauvericin có cấu trúc và chức năng tương tự những chất kháng sinh gây hại màng tế bào enniatin A, B và C và có sự khác biệt của những hợp chất này so với N-methylamino acids (Steinrauf, 1985). Beauvericin bao gồm một chuỗi lặp lại của ba phân tử N-methylphenylalanine liên kết với ba phân tử 2-Hydroxyisovaleric acid (Hamill và ctv, 1969). Beauvericin tạo phức hợp với ion Na+ và K+ dẫn đến làm tăng tính thấm của màng tế bào tự nhiên và nhân tạo (Ovchinnikov và ctv., 1971). Beauvericin còn là kháng sinh chống lại một số vi khuẩn như Bacillus subtilis, Escherichia coli, Mycobacterium phlei,… (Ovchinnikov và ctv., 1971). Hơn nữa, beauvericin còn có tính chất trừ sâu trung bình (Suzuki và ctv., 1977; Gupta và ctv., 1995). LD50 của nấm trắng đối với ấu trùng sâu cuốn lá tuổi ba là 7,4 x 103 bào tử/ml ở một tuần sau khi chủng (Aguda, 1987). Theo Phạm Văn Biên và ctv (2000) thì nấm trắng thuộc nhóm độc IV, rất ít độc với người, gia súc và môi trường. LD50 qua miệng >18 x 108 bào tử/kg, LD50 qua da >2000 mg/kg. Nấm trắng không gây bệnh cho người, thời gian cách ly là 5 ngày.

b) Độc tố của nấm xanh.

Nấm xanh tạo ra độc tố Destruxin A và B (Kodaira, 1961; Suzuki và ctv., 1971). Destruxin là một phức hợp có nhiều chất đồng phân. Cấu trúc cơ bản của nó gồm 5 aminoacid và một -hytroxy acid. Destruxin gây chán ăn và gây độc cho côn trùng sau khi được hấp thu vào da (Amiri và ctv., 1999). Một số Destruxin làm tê liệt côn trùng (Dumas và ctv., 1996) và một số destruxin khác có thể ức chế miễn dịch (Cerenius và ctv., 1990).

Tính mẫn cảm của côn trùng đối với destruxin khác nhau và một số loài sâu thuộc bộ cánh vảy có thể mẫn cảm cao nhất (Roberts, 1981; Charnley, 1984; Samuels và ctv., 1988; Brousseau và ctv., 1996; Thomsen và ctv., 1996; Kershaw và ctv., 1999). LD50 của Destruxin A và B tiêm vào ấu trùng tằm là 0,015 – 0,03 mg/g ở 24 giờ sau khi tiêm (Kodaira, 1961; Suzuki và ctv., 1971; Tamura and Takahashi, 1971). LC50 của nấm xanh đối với ấu trùng rầy nâu, N. Lugens là 1,86 x 106 bào tử/ml ở 4 ngày chủng trong điều kiện nhiệt độ 250C (Gillespie, 1986). Bào tử nấm xanh có LT50 và LD50 đối với một số loài sâu bộ cánh vảy như ấu trùng tằm, sâu xanh da láng, Spodoptera exigua, sâu xanh, Heliothis armigera là 48 giờ và 105 bào tử/ ml (Tạ Kim Chỉnh và Lý Kim Bảng, 1995).

Destruxin cũng gây độc cho động vật nhỏ có vú. LD50 của Destruxin A và B sau khi tiêm vào bụng chuột là 1-1,35 mg/kg tương ứng với 13,2 – 16,9 mg/kg trong 1 giờ (Kodaira, 1961). Trái lại Destruxin ít độc đối với cá và động vật lưỡng cư, không làm chết, gây quái thai hay trì hoãn sự xuất hiện phôi cá Brachydaniorerio H. B (Debeaupuis and Lafont, 1985).

1.2.4 Cơ chế tác động của nấm trắng và nấm xanh đối với côn trùng gây hại.

a) Phương thức xâm nhập của nấm vào cơ thể côn trùng.

Nấm là một trong những tác nhân gây bệnh côn trùng bằng cách nhiễm vào ký chủ chủ yếu xuyên qua biểu bì bên ngoài. Bào tử của nấm dính chặt vào da côn trùng và tấn công vào da theo cơ chế bám dính không chuyên biệt thông qua tính kỵ nước của vách tế bào của bào tử (Boucias và ctv., 1988; 1991). Khi tiếp xúc với da côn trùng và với điều kiện thích hợp bào tử sẽ mọc mầm có thể tạo ra các cấu trúc xâm nhiễm (như tạo ra ống mầm, túi ngoại bào hoặc túi áp suất) từ đó xâm nhiễm vào bên trong cơ thể côn trùng qua lớp chitin.

Sự xâm nhập của nấm vào trong biểu bì thường là do sự phối hợp của enzyme và cơ chế cơ học. Nấm xanh và nấm trắng tiết ra các loại men làm mềm lớp vỏ chitin và tạo thành một lỗ thủng tại nơi bào tử mọc mầm, qua lỗ thủng đó mầm của bào tử nấm xâm nhập vào bên trong cơ thể côn trùng. Các enzyme đó là exoproteases, endoproteases, esterases, lipases, chitinases và chitobiases (St Leger, 1993; Boucias and Pendland, 1998; Butt và ctv., 1998).

b) Sự phát triển của nấm trong cơ thể côn trùng

Giai đoạn phát triển của nấm từ khi xâm nhiễm vào trong cơ thể côn trùng cho đến khi côn trùng chết là giai đoạn sống ký sinh của nấm. Trong giai đoạn này nấm thường tạo ra rất nhiều sợi nấm ngắn, chúng được phân tán khắp cơ thể theo dịch máu. Trước khi nấm có thể sinh sôi nảy nở trong máu nó thường phải vượt qua phản ứng phòng vệ của côn trùng, và sự tạo độc tố của nấm có thể làm suy yếu phản ứng tự vệ của côn trùng. Côn trùng có thể phản ứng với sự xâm nhiễm của nấm bằng cách sử dụng thể dịch (như phenoloxidase, lectins, peptid và protein hoặc sử dụng cơ chế của vách tế bào như sự thực bào hoặc kết nang (Bidochka và ctv., 1997; Boucias and Pendland, 1998). Côn trùng chết có thể là kết quả của sự phối hợp các hoạt động như sự làm giảm dinh dưỡng, làm tắt nghẽn cơ thể hoặc sự xâm lấn của các cơ quan và tác động của độc tố đối với côn trùng. Ví dụ nấm trắng tạo ra phức hợp các độc tố bao gồm beauvericin, bassianolide và oosporein, nấm xanh tạo ra độc tố Destruxin làm tê liệt côn trùng (Dumas và ctv., 1996), hoặc gây ức chế miễn dịch (Cerenius và ctv., 1990).

Sau khi con côn trùng chết, nấm thường phát triển hoại sinh trong ký chủ. Dưới điều kiện thích hợp nấm tạo ra các bào tử hoặc nấm mọc thành sợi ra bên ngoài bề mặt cơ thể vật chủ. Sau đó các bào tử được tạo thành trên lớp sợi nấm ở bề mặt cơ thể vật chủ và bị phóng thích đi. Bào tử phát tán thụ động nhờ gió và những yếu tố khác như mưa đóng vai trò quan trọng trong phát tán bào tử.



c) Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xâm nhiễm của nấm ký sinh côn trùng

Ánh sáng: là nhân tố quan trọng trong sinh vật học của hầu hết các nấm ký sinh, đặc biệt có liên quan đến sợi nấm, sự phóng thích và sự sống sót của bào tử (Callaghan, 1969; Sakamoto và ctv., 1988). Ánh sáng tự nhiên có phổ 290-400 nm sẽ ảnh hưởng lên sự bền của nấm trên tán cây và ít ảnh hưởng hơn trên những cơ chất khác (Fuxa, 1987). Fargues và ctv. (1996) thấy rằng nấm trắng và nấm xanh bị mẫn cảm cao đối với ánh sáng đặc biệt là thành phần tia cực tím của quang phổ (285-315nm).

Walstad và ctv. (1970) đã có những nghiên cứu về ảnh hưởng của điều kiện môi trường lên hai loài nấm trắng, Beauveria bassiana và nấm xanh, Metarhizium anisopliae. Các loài nấm này đòi hỏi 92,5% ẩm độ tương đối và 15-350C nhiệt độ cho sự nảy mầm của bào tử, sự phát triển của sợi nấm và sự hình thành bào tử. Điều kiện tối hảo cho sự nảy mầm của bào tử, sự phát triển sợi nấm và hình thành bào tử ở 100% ẩm độ và 25-300C. Theo Vestergaard và ctv. (1995), nhiệt độ tối hảo cho nấm bất toàn là 20-250C, nhưng sự xâm nhiễm và gây bệnh từ 15-300C, lớn hơn 300C sự phát triển của nấm bị giới hạn và ngừng phát triển ở 370C. Sợi nấm trắng và nấm xanh có thời gian chết ít hơn 15 phút ở 400C, bào tử nghỉ của nấm có thể chịu được 800C trong một giờ hoặc lâu hơn, dưới 40C đa số các tế bào nấm còn sống nhưng không phát triển.

Bào tử nấm xanh phát triển tốt ở nhiệt độ ôn hòa và ẩm độ cao. Bào tử nấm xanh và nấm trắng nảy mầm ở 94% ẩm độ, tỉ lệ nảy mầm và phát triển sợi nấm tối đa ở ẩm độ 97% - 99% và bị giảm ở 94 – 96%. Nấm xanh phát triển hình thái không bình thường ở 96% ẩm độ. Nước không chỉ cần thiết cho sự nảy mầm mà còn điều chỉnh sự hình thành bào tử trên xác côn trùng (Gillespie and Crawsford, 1986).

Ảnh hưởng của loại đất, nhiệt độ và ẩm độ: nhiệt độ đất tối hảo cho sự lưu tồn của nấm phụ thuộc vào dòng nấm, loại đất, ẩm độ đất và sự đối kháng tự nhiên. Bào tử nấm trắng có tỉ lệ chết 50% là 276 ngày ở 100C (Lingg and Doualdson, 1981). Studdert and Kaya (1990) cho thấy sự tồn tại của sợi nấm trắng khi giảm nhiệt độ và giảm ẩm độ trong đất gần đến bão hòa. Bào tử nấm xanh có thể tồn tại ít nhất 21 tháng ở 190C. Cammon and Rath (1994) cho thấy dòng nấm xanh, Metarhizium anisopliae được lây nhiễm ở 50C và tồn tại hai năm. Sự lưu tồn của nấm trong đất bị suy thoái nhanh chóng khi nhiệt độ trên 300C và chết ở 500C.

Ảnh hưởng của sinh vật đối kháng trong đất lên sự lưu tồn của nấm trắng: ước tính có khoảng 464 loài nấm và sợi men được tìm thấy trong đất (Kendrick and Parkinson, 1990). Shields và ctv. (1981) đã xác định dung dịch có chứa Penicillium uriticae ức chế sự nảy mầm của bào tử và sự phát triển của sợi nấm trắng.

1.3. Nghiên cứu, ứng dụng nấm trắng và nấm xanh trong quản lý sâu hại cây trồng

a) Ngoài nước

Trong nhiều năm qua M. anisopliae B. bassiana đã được chú trọng nghiên cứu và sử dụng trong việc phòng trừ các loài sâu hại, bao gồm cả sâu hại khoai tây và ngô ở Mỹ (Cambpell và ctv, 1985; Lewis và Bing, 1991). Ở châu Á, các công trình nghiên cứu và sử dụng nấm ký sinh để phòng trừ sâu, rầy hại lúa (Rombach và ctv, 1986a; 1986b; 1988; Aguda và ctv; 1981; 1987; 1988). Một số nước ở Bắc âu như Hà Lan, Phần Lan và Thụy Điển cũng đã nghiên cứu và sử dụng vi nấm để phòng trừ sâu hại cây trồng (Wandersch và ctv, 1990; Vainio và ctv, 1990; Keller và ctv, 1993; 2004). Khai thác tiềm năng phòng trừ sinh học của nấm trắng B. bassiana đối với các loài rầy hại lúa đã được nghiên cứu tại Ấn độ (Lộc, 1995). Hiện nay, nhiều nước thế giới như Úc, Brazil, Mỹ, Pháp, Colombia, Venezuela,... đã sản xuất thành công các sản phẩm sinh học từ nấm xanh, Metarhizium anisopliae như Biogreen, Metaquino, Bio-Path, Bio-Blast, Cobican và nấm trắng, Beauveria bassiana như Conidia, Ostrinil, CornGuard, Mycotrol GH, Mycotrol WP, BotaniGard, Naturalis-L, Proecol, Boverin, Boverol, Boverosil để trừ dịch hại cây trồng (Burges, 1998; Butt và Copping 2000).

Xu thế của thế giới hiện nay là tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, nhất là các loài rau trái, vì vậy các nhà khoa học luôn nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp phòng trừ sinh học để thay thế cho thuốc hóa học, nhằm giảm thiểu tối đa lượng thuốc hóa học dùng trong nông nghiệp.

b) Việt Nam

Việt Nam cũng đã có các sản phẩm như Boverit của Viện Bảo Vệ Thực Vật – Hà nội, Boverit chế từ nấm trắng, Beauveria bassiana trừ rầy nâu hại lúa, sâu đo xanh hại đay, sâu róm hại thông (Thùy và ctv, 1999, 2000) và Mat chế từ nấm xanh, Metarhizium anisopliae trừ bọ cánh cứng hại dừa (Thùy và ctv, 2001). Sản phẩm Beauverin của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại-Dịch vụ Thanh Sơn Hóa Nông trừ sâu tơ hại bắp cải, sâu đục quả xoài.

Các tác giả thuộc viện công nghệ sinh học, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia đã có các công trình nghiên cứu và ứng dụng nấm xanh Metarhizium anisopliae để phòng trừ các loài mối hại cây công nghiệp, mối hại cây ăn trái và cây cảnh (Chỉnh và ctv, 1998, , 2001, 2004).

Từ năm 1995 tới nay, Bộ môn Sinh Thái Côn Trùng và Phòng Trừ Sinh Học, Viện Lúa ĐBSCL chúng tôi đã có những công trình nghiên cứu và ứng dụng nấm trắng, B. bassiana và nấm xanh, M. anisopliae trong việc quản lý các loài sâu hại lúa và bọ cánh cứng hại dừa. Nghiên cứu về ảnh hưởng của Beauveria bassiana và hỗn hợp của nó với thuốc hóa học, thảo mộc đối với tỷ lệ ăn của rầy nâu, tìm hiểu ảnh hưởng của nấm kí sinh côn trùng tới một số thiên địch của sâu hại lúa (Lộc, 1997 ; Lộc và ctv, 1999 ; Lộc và ctv, 2001 ; Lộc và ctv, 2002 ; Lộc và ctv, 2004).

Trong các vụ Hè Thu 2001, Đông Xuân 2001-2002 chế phẩm nấm xanh, M. anisopliae và nấm trắng, B. bassiana của Viện Lúa đã được sử dụng để trừ rầy nâu trên 50 ha lúa hữu cơ tại An Giang, 12 ha lúa chất lượng cao tại Trà Vinh và 7 ha lúa chất lượng cao tại Ô Môn. Kết quả cho thấy là nông dân chỉ cần phun chế phẩm vi nấm có một lần vào lúc mật độ rầy cao thì đã phòng trừ được rầy suốt trong vụ lúa. Năng suất ở những ruộng có sử dụng chế phẩm thì cao hơn rất nhiều so với những ruộng sử dụng thuốc hóa học (cùng một giống lúa), mà chi phí ở những ruộng sử dụng thuốc hóa học lại rất cao vì phải phun nhiều lần.

Chế phẩm nấm xanh của bộ môn cũng đã được sử dụng trong chương trình nho sạch tại Ninh Thuận để trừ mối hại nho và kết quả cho thấy là nấm xanh có hiệu lực rất tốt đối với mối hại nho.

Chế phẩm nấm trắng và nấm xanh đã được sử dụng để trừ rầy xanh và các loài rầy khác trên 9 ha trà sạch tại Bảo Lộc, Lâm Đồng và kết quả rất tốt.

Kết quả khảo nghiệm trên bọ cánh cứng hại dừa cho thấy rằng nấm xanh phân lập từ con bọ dừa bị nhiễm bệnh ngoài tự nhiên tại Ô Môn thì có hiệu lực diệt bọ dừa rất tốt tiềm năng phòng trừ sinh học của nấm xanh, M. anisopliae đối với bọ cánh cứng hại dừa (Lộc và ctv, 2004).

Chế phẩm trừ sâu sinh học nấm trắng, B.b (OM1 – R) của Viện Lúa ĐBSCL đã được đưa vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật, với tên thương mại là Biovip, Chế phẩm trừ sâu sinh học nấm xanh, M.a (OM2 – B) đã được đưa vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật, với tên thương mại là Ometar, được phép sử dụng ở Việt Nam theo quyết định số 63/2003/QĐ-BNN ngày 27 tháng 05 năm 2003 của Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT .

Từ năm 2003 tới nay, hai chế phẩm trừ sâu sinh học Ometar và Biovip của chúng tôi đã được ứng dụng rộng rãi để trừ rầy nâu, bọ xít hôi và bọ cánh cứng hại dừa với diện tích hàng ngàn ha tại các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long.



Từ năm 2002 tới 2005, bộ môn chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu sản xuất và ứng dụng chế phẩm trừ sâu sinh học trên các mô hình cây ăn trái tại tỉnh Tiền Giang”. Kết quả từ các thí nghiệm diện rộng và các mô hình trình diễn tại Tiền Giang cho thấy là chế phẩm nấm xanh, M. anisopliae và chế phẩm nấm trắng, B. bassiana có hiệu lực cao khi dùng để trừ rầy mềm, rầy chổng cánh, bọ xít và sâu ăn lá hại cây có múi và cây nhãn. Cả hai chế phẩm vi nấm này không gây ảnh hưởng xấu tới các loài thiên địch của sâu hại, vì vậy sau khi sử dụng 2 loài nấm ký sinh này để trừ sâu hại trên các mô hình cây ăn trái từ 3 tháng trở đi thì mật số thiên địch của sâu hại tăng lên đáng kể; đặc biệt là mật số nhện và kiến vàng trong vườn mô hình tăng rất cao, vì thế đã khống chế được quần thể sâu hại, kể cả sâu vẽ bùa. Vì 2 loài nấm này có tác dụng diệt sâu hại khá bền lâu, nên số lần phun giảm rất nhiều so với dùng thuốc hóa học. Một số hộ nông dân tham gia mô hình cho nhận xét rằng: khi chưa tham gia mô hình họ đã phải phun thuốc hóa học định kỳ 15 ngày/lần (vào các đợt cây có múi ra lộc non), còn ở vườn mô hình sử dụng chế phẩm trừ sâu sinh học thì cứ 1,5 tháng mới phun 1 lần vì chế phẩm vi nấm có hiệu lực bền lâu (do sự lây bệnh từ con này sang con khác). Chính vì lý do trên mà việc sử dụng chế phẩm sinh học M.a trừ sâu rầy hại cam quýt ở các mô hình thâm canh cây ăn trái tại Tiền Giang đã giảm số lần phun từ 20-24 lần /năm xuống chỉ còn có 8-9 lần/năm, do vậy đã tiết kiệm được tiền thuốc và tiền công phun thuốc trừ sâu của bà con nông dân và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.


tải về 6.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương