BỘ luật tố TỤng hình sự CỘng hoà pháP



tải về 3.81 Mb.
trang33/49
Chuyển đổi dữ liệu14.07.2016
Kích3.81 Mb.
#1709
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   49


Điều 706-53-1

Cơ quan đăng ký tự động quốc gia những người phạm tội bạo lực và tình dục là một cơ sở dữ liệu tự động các dữ liệu cá nhân của phòng hồ sơ hình sự thuộc Bộ Tư pháp và chịu sự giám sát của thẩm phán hoặc công tố viên, nhằm ngăn chặn việc lặp lại các tội phạm quy định tại điều 706-47 và hỗ trợ việc xác định thủ phạm, cơ sở dữ liệu này thu thập, lưu trữ và trao đổi với những người có thẩm quyền thông tin quy định tại điều 706-53-2 theo các điều khoản quy định tại chương này.


Điều 706-53-2

Nếu, theo quy định của đoạn cuối điều này, một hoặc nhiều tội phạm đề cập tại điều 706-47 có liên quan với nhau, thì ghi vào cơ sở dữ liệu thông tin cá nhân, địa chỉ hoặc các địa chỉ nhà ở liên tiếp và, nếu có thể, nơi cư trú của những người là đối tượng của:

1º việc kết án, cho dù là chưa có hiệu lực, bao gồm việc kết án vắng mặt hoặc tuyên bố có tội kèm theo việc miễn trừ hình phạt hoặc tạm hoãn hình phạt;

2º một phán quyết, cho dù là chưa có hiệu lực, được tuyên phù hợp với các điều 8, 15, 15-1, 16, 16 bis và 28 của Nghị định số 45-174 ngày 02/02/1945 liên quan đến tội phạm vị thành niên;

3º đình chỉ có điều kiện việc truy tố theo điều 41-2 Bộ luật này, việc thi hành đã được công tố viên lưu ý;

4º phán quyết tuyên vô tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc từ chối căn cứ vào các quy định của đoạn một điều 122-1 Bộ luật Hình sự;

5º đưa vào diện thẩm tra tư pháp cùng với giám sát tư pháp, nếu thẩm phán điều tra đã ra lệnh ghi lại phán quyết này vào cơ sở dữ liệu;

6º một phán quyết cùng loại với những phán quyết nêu trên, được các cơ quan tư pháp hoặc toà án nước ngoài tuyên, phù hợp với một hiệp định hoặc hiệp ước quốc tế, là đối tượng của một thông báo được gửi cho các cơ quan có thẩm quyền của Pháp hoặc đã được thi hành tại Pháp sau khi người bị kết án tự thú.

Dữ liệu cũng bao gồm thông tin liên quan đến quyết định tư pháp để ra lệnh đưa vấn đề vào cơ sở dữ liệu và bản chất của tội phạm. Phán quyết đề cập tại các điểm 1º và 2º được ghi lại ngay khi tuyên.

Phán quyết liên quan đến các tội ít nghiêm trọng quy định tại điều 706-47 và bị xử phạt tù năm năm hoặc ít hơn không được ghi vào cơ sở dữ liệu này, trừ khi toà án, hoặc, trong các trường hợp quy định tại điểm 3º và 4º ra lệnh ghi lại bằng một phán quyết nhanh.


Điều 706-53-3

Công tố viên cấp quận hoặc thẩm phán điều tra có thẩm quyền đăng ký thông tin cần đăng ký ngay trong cơ sở dữ liệu, sử dụng hệ thống viễn thông bảo đảm. Thông tin trong cơ sở dữ liệu này chỉ được lấy ra phục vụ mục đích tư vấn sau khi đã kiểm tra thông tin cá nhân của người liên quan, nếu có thể, bởi người quản lý cơ sở dữ liệu sử dụng cơ quan đăng ký thông tin cá nhân quốc gia.

Nếu họ biết địa chỉ mới của người có tên được đăng ký trên cơ sở dữ liệu và khi họ nhận được bằng chứng về địa chỉ của người này, sỹ quan cảnh sát tư pháp ngay lập tức ghi lại thông tin này vào cơ sở dữ liệu sử dụng hệ thống viễn thông bảo đảm.
Điều 706-53-4

Không ảnh hưởng đến quy định tại các điều 706-53-9 và 706-53-10, thông tin đề cập tại điều 706-53-2 liên quan đến người này bị xoá khỏi cơ sở dữ liệu khi người này chết, hoặc hết thời hạn, kể từ ngày toàn bộ các quyết định được ghi lại hết hiệu lực, trong thời hạn:

1º ba mươi năm liên quan đến tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng bị phạt tù mười năm;

2º hai mươi năm trong những trường hợp khác.

Việc đặc xá, xoá án tích, hoặc bất kì quy định nào liên quan đến việc xoá việc kết án được ghi trong hồ sơ hình sự không dẫn đến việc xoá thông tin này.

Thông tin này không thể tự mình trở thành chứng cứ của việc tái phạm.

Các vấn đề nêu tại điểm 1º, 2º và 5º điều 706-53-2 bị xoá khỏi cơ sở dữ liệu trong trường hợp tuyên vô tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc từ chối cuối cùng. Những gì quy định tại điểm 5º cũng bị xoá bỏ trong trường hợp kết thúc hoặc rỡ bỏ biện pháp giám sát tư pháp.
Điều 706-53-5

Với tư cách một biện pháp an toàn, người nào có tên được ghi trong cơ sở dữ liệu phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại điều này:

Người này có nghĩa vụ phải:

1º xác nhận địa chỉ một năm một lần;

2º tuyên bố việc thay đổi địa chỉ không muộn hơn mười lăm ngày sau khi xảy ra;

hoặc cho người quản lý cơ sở dữ liệu, bằng thư bảo đảm với yêu cầu thông báo khi nhận được, hoặc cho trụ sở cảnh sát hoặc hiến binh gần nhà nhất, bằng thư bảo đảm với yêu cầu thông báo khi nhận được, hoặc bởi người có mặt ở cơ quan.

Nếu người này cuối cùng bị kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng bị xử phạt mười năm tù, thì phải xác nhận địa chỉ sáu tháng một lần bằng việc có mặt cho đến khi kết thúc tại trụ sở cảnh sát hoặc đơn vị hiến binh gần nhà nhất hoặc phòng hiến binh hoặc phòng an ninh gần nhà nhất hoặc cho bất kì cơ quan nào khác do tỉnh trưởng đề cử.

Người nào không thực hiện đúng các nghĩa vụ quy định tại điều này bị xử phạt tù hai năm và phạt tiền 30.000 Euro.


Điều 706-53-6

Người nào có tên đăng ký trong cơ sở dữ liệu được thông báo điều này bởi các cơ quan tư pháp, gửi trực tiếp hoặc bằng thư bảo đảm với yêu cầu thông báo khi nhận được.

Người này theo đó được thông báo về các biện pháp và nghĩa vụ phải chịu phù hợp với các quy định của điều 706-53-5 và các hình phạt phải chịu nếu không tuân thủ những nghĩa vụ này.

Nếu người này ở trong trại giam, thông tin quy định tại điều này được gửi cho họ vào thời điểm người này được trả tự do hoặc trước khi có biện pháp đầu tiên sửa đổi hình phạt này.


Điều 706-53-7

Thông tin có trong cơ sở dữ liệu được truy cập trực tiếp, bằng một hệ thống viễn thông bảo đảm:

1º cho các cơ quan tư pháp;

2º cho các sỹ quan cảnh sát tư pháp, trong trường hợp các thủ tục liên quan đến tội nghiêm trọng cố tình xâm phạm tính mạng, bắt cóc hoặc phạt tù sai, hoặc một tội phạm quy định tại điều 706-47 và các bước quy định tại các điều 706-53-5 và 706-53-8;

3º cho tỉnh trưởng và cơ quan nhà nước liệt kê trong nghị định ban hành theo điều 706-53-12, thẩm tra các yêu cầu cần phê chuẩn liên quan đến các hoạt động hoặc nghề nghiệp liên quan đến người vị thành niên cũng như kiểm soát việc thực hiện những hoạt động hoặc nghề nghiệp này.

Các cơ quan và cá nhân đề cập tại điểm 1º và 2º của điều này có thể tham khảo cơ sở dữ liệu liên quan đến các tiêu chí khác nhau được liệt kê quy định trong nghị định ban hành theo điều 706-53-12, và cụ thể là liên quan đến một hoặc nhiều các tiêu chí sau: thông tin cá nhân của người này, các địa chỉ, và bản chất của tội phạm.

Những người quy định tại điểm 3º điều này chỉ có thể tham khảo cơ sở dữ liệu liên quan đến thông tin cá nhân của người liên quan đến yêu cầu cần phê chuẩn.

Sỹ quan cảnh sát tư pháp, theo chỉ thị của công tố viên cấp quận hoặc thẩm phán điều tra hoặc với sự uỷ quyền của người này, có thể tham khảo việc đăng ký thông tin cá nhân của người bị tạm giam trước khi xét xử trong bối cảnh của việc thẩm tra công khai hoặc thẩm tra sơ bộ hoặc để thi hành lệnh yêu cầu tương trợ, cho dù những thủ tục tố tụng này không liên quan đến bất kì tội phạm nào đề cập tại điểm 2º điều này.


Điều 706-53-8

Theo các thuật ngữ quy định tại nghị định ban hành theo điều 706-53-12, người quản lý cơ sở dữ liệu trực tiếp thông báo cho Bộ Nội vụ, để gửi thông tin cho phòng hiến binh hoặc cảnh sát có thẩm quyền, bất kì việc đăng kí mới hoặc thay đổi địa chỉ liên quan đến việc đăng kí, hoặc nếu người này không đưa ra bằng chứng về địa chỉ của mình trong thời hạn được yêu cầu.

Phòng cảnh sát hoặc hiến binh có thể tiến hành việc khám xét và kiểm tra liên quan tại cơ quan công quyền để xác nhận hoặc tìm ra địa chỉ của cá nhân.

Nếu thấy là cá nhân không còn ở địa chỉ đã thông báo, công tố viên cấp quận ra lệnh đưa người này vào danh sách truy nã.


Điều 706-53-9

Bất kì ai có thể chứng minh được thông tin cá nhân của mình có một bản sao toàn bộ thông tin liên quan đến mình và được lưu trong cơ sở dữ liệu, sau khi gửi yêu cầu cho công tố viên cấp quận bên cạnh toà án quận thuộc khu vực quyền tài phán22 nơi người này cư trú.

Quy định tại các đoạn ba và bốn điều 777-2 được áp dụng.
Điều 706-53-10

Bất kì ai có thông tin cá nhân được đăng ký trong cơ sở dữ liệu có thể yêu cầu công tố viên cấp quận sửa lỗi hoặc ra lệnh xoá thông tin liên quan đến mình nếu thông tin này không đúng hoặc việc giữ lại tỏ ra không còn cần thiết với mục đích của cơ sở dữ liệu, dưới ánh sáng của bản chất tội phạm, tuổi của người này tại thời điểm thực hiện, khoảng thời gian đã qua kể từ đó, và đặc điểm hiện tại của người liên quan.

Yêu cầu xoá bỏ là không được chấp nhận trong khi các bản ghi liên quan hiện vẫn ở trong giấy chứng nhận số 1 của hồ sơ hình sự của người liên quan, hoặc liên quan đến tố tụng tư phán vẫn đang trong quá trình tiến hành.

Nếu công tố viên cấp quận không ra lệnh sửa lỗi hoặc xoá bỏ, người này liên hệ với thẩm phán giám sát và tự do vì mục đích này, với quyết định có thể bị khiếu nại trước chủ tịch phòng điều tra.

Trước khi giải quyết yêu cầu sửa lỗi hoặc xoá, công tố viên cấp quận, thẩm phán giám sát và tự do, hoặc chủ tịch phòng điều tra có thể tiến hành việc kiểm tra cho là cần thiết, và cụ thể là có thể ra lệnh kiểm tra y tế người liên quan. Nếu hồ sơ liên quan đến một tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng bị xử phạt tù mười năm và được thực hiện đối với người vị thành niên, phán quyết loại bỏ điều này khỏi cơ sở dữ liệu không thể diễn ra mà không có việc kiểm tra này.

Trong trường hợp quy định tại đoạn áp chót điều 706-53-5, công tố viên cấp quận, thẩm phán giám sát và tự do, và chủ tịch phòng điều tra, thụ lý phù hợp với các quy định của điều này, cũng có thể ra lệnh, theo yêu cầu của người liên quan, là người này chỉ cần có mặt tại phòng hiến binh hoặc cảnh sát một năm một lần để xác nhận địa chỉ.


Điều 706-53-11

Việc so sánh hoặc kết nối theo cách hiểu của điều 30 Luật số 78-17 ngày 06/01/1978 liên quan đến máy tính, cơ sở dữ liệu và thư viện có thể được tiến hành giữa cơ sở dữ liệu quy định tại chương này và bất kì cơ sở dữ liệu hoặc kho lưu trữ dữ liệu cá nhân nào khác do cá nhân hoặc cơ quan nhà nước quản lý không thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Tư pháp.

Không cơ sở dữ liệu hoặc kho lưu trữ dữ liệu cá nhân nào khác do cá nhân hoặc cơ quan nhà nước quản lý không thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Tư pháp nào có thể đề cập đến thông tin phải được tìm ra trong cơ sở dữ liệu, ngoại trừ các trường hợp và theo các điều kiện do luật quy định.

Bất kì vi phạm nào đối với các quy định tại đoạn trên bị xử phạt bằng các hình phạt áp dụng cho tội ít nghiêm trọng quy định tại điều 226-21 Bộ luật Hình sự.


Điều 706-53-12

Các thuật ngữ và điều kiện thực hiện các quy định của chương này được quy định bằng một Nghị định của Chính phủ tiến hành theo lời khuyên của Uỷ ban Quốc gia Bảo vệ Dữ liệu và Thư viện.

Nghị định này quy định cụ thể các điều kiện theo đó cơ sở dữ liệu lưu trữ việc thẩm vấn và tư vấn để sử dụng.
THIÊN XX

CƠ SỞ DỮ LIỆU GIEN TRÊN MÁY TÍNH QUỐC GIA


Các điều từ 706-54 đến 706-56



tải về 3.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương