BỘ luật tố TỤng hình sự CỘng hoà pháP


TRUY TỐ, ĐIỀU TRA VÀ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ Y TẾ



tải về 3.81 Mb.
trang28/49
Chuyển đổi dữ liệu14.07.2016
Kích3.81 Mb.
#1709
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   49

TRUY TỐ, ĐIỀU TRA VÀ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ Y TẾ


Các điều từ 706-2 đến 706-2-1


Điều 706-2

Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ của toà án quận có thể được mở rộng đến thẩm quyền xét xử của một hoặc nhiều toà án phúc thẩm để thẩm tra, truy tố, điều tra và, trong các vụ án ít nghiêm trọng, xét xử các tội phạm quy định dưới đây trong các trường hợp liên quan đến các sản phẩm y tế quy định tại điều L.5311-1 Bộ luật Y tế Công cộng, hoặc các sản phẩm thực phẩm cho người hoặc động vật hoặc các sản phẩm hoặc hoá chất mà con người thường bị phơi nhiễm trong một thời gian dài và được điều chỉnh do tác động hoặc sự nguy hiểm của chúng, nếu những vụ án này là hoặc tỏ ra là rất phức tạp:

- xâm phạm tính mạng con người, hiểu theo Thiên II Quyển II Bộ luật Hình sự;

- các tội phạm theo Bộ luật Y tế Công cộng;

- các tội phạm theo Bộ luật Nông thôn và Bộ luật Người tiêu dùng;

- các tội phạm theo Bộ luật Môi trường và Bộ luật Lao động.

Một nghị định quy định danh sách và thẩm quyền của những toà án này, bao gồm một mục của văn phòng công tố viên và điều tra đặc biệt và bộ phận xét xử để nhận thức đúng về những tội phạm này.

Theo các điều kiện và điều khoản quy định tại điều 705, công tố viên cấp quận, thẩm phán điều tra và phòng điều tra chuyên biệt của những toà án này cùng đồng thời có thẩm quyền đối với vấn đề phát sinh từ đơn theo các điều 43, 52, 382 và 706-42.

Theo các điều kiện và điều khoản quy định tại các điều 705-1 và 705-2, công tố viên cấp quận bên cạnh toà án quận ngoài các cơ quan quy định tại điều này có thể, đối với các tội phạm nêu trên, ra lệnh cho thẩm phán điều tra từ bỏ vụ án cho phòng điều tra bên cạnh toà án quận có thẩm quyền xét xử được mở rộng do việc áp dụng điều này.

Theo các điều kiện và điều khoản quy định tại đoạn hai đến đoạn mười điều 706, công chức thuộc mục A hoặc B làm việc cho các bộ trưởng phụ trách y tế, nghiên cứu và nông nghiệp cũng như các sinh viên tốt nghiệp khoá học bốn năm chương trình giáo dục cấp cao chuyên ngành quy định trong nghị định, có đủ các điều kiện là công chức và có thể chứng minh là có ít nhất bốn năm kinh nghiệm, có thể thực hiện trách nhiệm của trợ lý đặc biệt trong các vấn đề y tế.


Điều 706-2-1

Công tố viên trưởng bên cạnh toà phúc thẩm, tại khu vực quyền tài phán nơi có trụ sở của toà án có thẩm quyền theo điều 706-2, chỉ huy và phối hợp, cùng với các công tố viên trưởng khác của khu vực này, việc thực hiện các chính sách truy tố để điều này có hiệu lực.


THIÊN XIII bis

THỦ TỤC BỒI THƯỜNG CHO CÁC NẠN NHÂN NHẤT ĐỊNH ĐỐI VỚI CÁC THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA


Các điều từ 706-3 đến 706-15


Điều 706-3

Người nào bị thiệt hại do một hành vi cố ý hoặc vô ý gây ra có các đặc điểm vật chất của một tội phạm có thể được bồi thường toàn bộ thiệt hại phát sinh từ các tội phạm đối với người này nếu các điều kiện sau cùng tồn tại:

1º những tội phạm này không thuộc phạm vi điều 53 luật tài trợ an sinh xã hội cho năm 2001 (số 2000-1257 ngày 23/12/2000), L.126-1 Bộ luật Bảo hiểm, hoặc chương I luật số 85-677 ngày 05/7/1985 cải thiện tình hình nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông và đẩy nhanh thủ tục bồi thường. Chúng không bao gồm các hành vi xảy ra trong quá trình săn đuổi và tiêu diệt động vật gây hại;

2º những hành vi này:

- hoặc là dẫn đến chết người, mất năng lực vĩnh viễn hoặc hoàn toàn mất năng lực làm việc nhiều hơn một tháng;

- hoặc được quy định và xử phạt bởi các điều 222-22 đến 222-30, 225-4-1 đến 225-4-5 và 227-25 đến 227-27 Bộ luật Hình sự;

3º người bị thương tích có quốc tịch Pháp; hoặc nếu không phải như vậy, thì các hành vi được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia và người bị thương tích là:

- hoặc là công dân của một trong các Quốc gia Thành viên Cộng đồng Kinh tế Châu Âu;

- hoặc, theo quy định của các hiệp định và hiệp ước quốc tế, thường trú vào ngày xảy ra tội phạm hoặc ngày nộp đơn.

Có thể từ chối việc đền bù hoặc giảm số lượng nếu nạn nhân có lỗi.


Điều 706-4

Tiền bồi thường do một ủy ban được lập ra trong quản hạt của mỗi Tòa sơ thẩm. Ủy ban này có tính chất như là một Tòa dân sự sơ thẩm.

Ủy ban nói trên gồm 2 thẩm phán của Tòa sơ thẩm và một người thành niên có quốc tịch Pháp, có các quyền công dân và quan tâm đến quyền lợi của người bị hại. Ủy ban do một thẩm phán làm chủ tịch.

Các thành viên chính thức và dự khuyết của ủy ban được hội đồng thẩm phán tòa án cử ra trong thời hạn ba năm.

Chức năng công tố do Viện trưởng Viện công tố hoặc một Phó Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm đảm nhận.

Chính phủ ban hành Nghị định quy định thể thức áp dụng điều này.


Điều 706-5

Đơn xin bồi thường bị từ chối ngay trừ khi được nộp trong vòng ba năm kể từ ngày xảy ra tội phạm. Thời hạn này được gia hạn nếu đã khởi tố và chỉ hết hạn một năm sau khi có quyết định của toà án đã ra phán quyết cuối cùng đối với việc truy tố hoặc đối với vụ kiện dân sự được đưa đến trước toà án hình sự. Nếu thủ phạm của tội phạm đề cập tại các điều 706-3 và 706-14 bị xử phạt bồi thường thiệt hại, thời hạn một năm tính từ thời điểm thông báo của toà án áp dụng điều 706-15. Tuy nhiên, uỷ ban miễn cho nguyên đơn khỏi việc từ chối ngay khi người này không ở trong vị thế thực hiện các quyền của mình trong thời hạn đã nêu, hoặc khi thiệt hại phải chịu đã trở nên tồi tệ, hoặc vì bất kì căn cứ hợp pháp nào khác.


Điều 706-5-1

Việc kiện đòi bồi thường thiệt hại, kèm theo các tài liệu hỗ trợ, được văn phòng của uỷ ban xem xét việc bồi thường gửi ngay cho quỹ bảo đảm việc bồi thường cho các nạn nhân của hành vi khủng bố và các tội phạm khác.

Uỷ ban này có nghĩa vụ đưa cho nạn nhân một đề xuất bồi thường trong vòng hai tháng kể từ khi nhận được đơn. Việc từ chối đề xuất bồi thường của quỹ bảo đảm phải có lý do. Các quy định này cũng áp dụng nếu thiệt hại phải chịu trở nên tồi tệ.

Nếu nạn nhân chấp nhận đề xuất bồi thường, quỹ bảo đảm gửi tuyên bố đồng ý cho chủ tịch uỷ ban bồi thường để phê chuẩn.

Nếu quỹ bảo đảm ra quyết định từ chối có lý do đối với việc kiện đòi, hoặc nếu nạn nhân không đồng ý với đề xuất, thì chủ tịch uỷ ban hoặc một trợ lý thẩm phán tiến hành điều tra vụ việc.

Các điều kiện thi hành điều này được quy định trong một Nghị định của Chính phủ.


Điều 706-6

Ủy ban hoặc chủ tịch ủy ban có thể tiến hành hoặc cho tiến hành việc lấy lời khai và điều tra. Không ai có thể lấy lý do bí mật nghề nghiệp để từ chối cho lấy lời khai và điều tra. Ủy ban hoặc Chủ tịch Ủy ban có thể yêu cầu được xem bản sao biên bản xác nhận tội phạm hoặc tất cả các tài liệu tố tụng hình sự,ngay cả các tài liệu đang trong quá trình hoàn tất. Ủy ban hoặc Chủ tịch Ủy ban có thể yêu cầu:



  1. Mọi người hoặc mọi cơ quan quản lý hành chính cho biết tình hình nghề nghiệp, tài chính, thuế khoa, hoàn cảnh xã hội của người yêu cầu bồi thường hoặc người gây thiệt hại do hành vi phạm tội của mình

  2. Mọi cơ quan, chính quyền Nhà nước, cơ quan an ninh xã hội, cơ quan trợ cấp xã hội, công ty bảo hiểm có khả năng bồi thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại, cho biết tình hình thực thi trách nhiệm của họ sau này

Các thông tin thu thập được chỉ dùng để xem xét đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại và không thể bị tiết lộ.

Chủ tịch Ủy ban có thể quyết định ứng trước tiền bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong mọi giai đoạn tố tụng; Chủ tịch ủy ban phải ra quyết định trong thời hạn một tháng kể từ ngày có đơn xin ứng trước tiền bồi thường.


Điều 706-7

Nếu việc truy tố hình sự đã được tiến hành, Ủy ban có thể ra quyết định trước khi Tòa xét xử phần hình sự.

Theo quy định tại khoản cuối, Điều 706-3, Ủy ban có thể hoãn giải quyết đơn yêu cầu cho đến khi Tòa hình sự ra quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong mọi trường hợp, Ủy ban phải hoãn theo yêu cầu của người bị hại.

Việc thẩm vấn và ra quyết định phải được tiến hành tại phòng Nghị án.


Điều 706-8

Nếu Tòa xủa về quyền lợi dân sự ấn định mức bồi thường thiệt hại cao hơn mức do Ủy ban ấn định thì người bị hại có thể xin bổ xung tiền bồi thường. Người bị hại phải nộp đơn xin bổ xung tiền bồi thường trong thời hạn một năm kể từ ngày quyết định về quyền lợi dân sự có hiệu lực pháp luật.


Điều 706-9

Trong số tiền bồi thường cho người bị hại, Ủy ban phải xét đến:



  • Các khoản trợ cáp do các cơ quan, cơ sở quản lý chế độ bảo hiểm bắt buộc và các cơ quan quy định tại các Điều 1106-9, 1234-8, 1324-20, Bộ luật nông nghiệp phải trả.

  • Các khoản tiền trợ cấp quy định tại khoản II, Điều 1, Pháp lệnh số 59-76 ngày 07/01/1959 về việc bồi thường thiệt hại dân sự của Nhà nước và một số cơ quan công quyền khác.

  • Các khoản tiền chi trả cho việc khám chữa bệnh và giáo dục cải tạo

  • Các khoản tiền công và phụ cấp mà người sử dụng lao động giữ lại trong thời gian không làm việc, sau khi xảy ra sự việc gây thiệt hại

  • Các khoản tiền trợ cấp hàng ngày về bệnh tật và thương tật do các hội tương tế trong Bộ luật về tương tế cấp

Ủy ban cũng tính đến mọi khoản bồi thường do những đối tượng khác đã trả hoặc sẽ phải trả để bồi thường thiệt hại.

Tiền bồi thường do Quỹ bảo đảm cho nạn nhân của các hành vi khủng bố và các hành vị phạm tội khác trả


Điều 706-10

Nếu sau khi nhận được tiền bồi thường, người bị hại lại nhận được một trong số các khoản tiền trợ cấp quy định tại Điều 706-9, thì Quỹ nói trên có thể yêu cầu Ủy ban đã quyết định cấp lại tiền bồi thường thiệt hại ra lệnh trả lại toàn bộ hay một phần số tiền bồi thường thiệt hại hoặc số tiền tạm ứng.


Điều 706-11

Quỹ có quyền thay thế người bị hại để yêu cầu những người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc những người có nghĩa vụ bảo đảm việc bồi thường toàn bộ hay một phần thiệt hại, hoàn trả tiền bồi thường hoặc tạm ứng mà Quỹ đã chi, trong giới hạn số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm của những người đó.


Quỹ có thể thực thi các quyền của mình bằng mọi cách cần thiết, kể cả bằng việc xin đứng tến nguyên đơn dân sự trước Tòa án hình sự, ngay cả lần đầu tiên xin đứng nguyên đơn dân sự trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp xin nguyên đơn dân sự bằng thư bảo đảm, Quỹ có thể yêu cầu hoàn trả các khỏa\n tiền mà Quỹ phải gánh vác không có giới hạn tối đa và không tính các quy định tại Điều 420-1.

Theo quy định tại Điều 706-9 này, Quỹ có thể đề nghị Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm yêu cầu mọi người hay mọi cơ quan quản lý Nhà nước cho biết tình hình nghề nghiệp, tài chính, thuế khoa hoặc xã hội của những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Những người này không được lấy lý do bí mật nghề nghiệp để phản đối yêu cầu của Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm. Không thể sử dụng các thông tin thu thập được vào những mục đích khác mục đích quy định tại điều này; không được tiết lộ các thông tin.


Điều 706-12

Trong mọi giai đoạn tố tụng, nếu người bị hại hoặc người có quyền và lợi ích liên quan xin đứng nguyên đơn dân sự trước Tòa hình sự hoặc kiện những người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại thì phải nói rõ là đã nộp đơn lên Ủy ban quy định tại điều 706-4 và Ủy ban này có quyết định cấp tiền bồi thường hay không.

Nếu không nói rõ những thông tin này thì mọi người liên quan có quyền yêu cầu vô hiệu phần dân sự của bản án trong thời hạn hai năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Điều 706-14

Người nào là nạn nhân của tội trộm cắp, lừa đảo, bội ước, cưỡng đoạt tiền, hoặc phá huỷ hoặc gây thiệt hại cho tài sản của người này, và không thể có được sự sửa chữa hoặc đền bù đầy đủ và hiệu quả các thiệt hại của người này dựa trên bất kì cơ sở nào, và kết quả là thấy mình ở trong tình trạng nghiêm trọng về tâm lý hoặc tài chính, có thể được hưởng bồi thường theo điều kiện của các điều từ 706-3 (3º và đoạn cuối) đến 706-12, nếu thu nhập của người này là thấp hơn mức tối đa được hưởng trợ giúp pháp lý một phần quy định tại điều 4 luật số 91-647 ngày 10/7/1991 điều chỉnh việc trợ giúp pháp lý, có tính đến, nếu phù hợp, các chi phí của gia đình người này.

Mức bồi thường tối đa bằng ba lần số tiền thu nhập giới hạn hàng tháng.

Những quy định này cũng áp dụng đối với bất kì ai quy định tại điều 706-3, là nạn nhân của các tội phạm xâm pham tính mạng và sức khoẻ con người, quy định tại điều này, không được phép đòi bồi thường toàn bộ các thiệt hại của họ trên cơ sở này, vì các tình tiết có được đã dẫn đến sự hoàn toàn mất năng lực làm việc ít hơn một tháng.


Điều 706-15

Khi toà án xử phạt người phạm tội đề cập tại các điều 706-3 và 706-14 để trả tiền đền bù thiệt hại cho bên dân sự, toà án thông báo cho người này quyền lựa chọn chuyển vụ án cho uỷ ban bồi thường cho nạn nhân của tội phạm.


THIÊN XV


tải về 3.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương