100
Ưu thế lai của cá thể mẹ lai đóng góp cho tổ hợp lai trong nghiên cứu này,
thấp hơn so với giá trị 9 g/ngày xác định được của Nguyễn Thị Viễn và cs., (2003)
khi nghiên cứu trên tổ hợp lai giữa 3 giống uroc, Landrace và Yorksire và cũng
thấp hơn giá trị xác định được 10 g/ngày trong báo cáo của Nguyễn ăn Đức.
(1997) trên con lai giữa 3 giống lợn Móng Cái, Landrace và Yorkshire. Đồng thời,
giá trị Dm ở nghiên cứu này (0,31%) cũng thấp hơn giá trị 2,26% tìm được của
Nguyễn ăn Đức. (2000) trên tổ hợp lai giữa 3 giống Móng Cái, Landrace và
Yorkshire nuôi ở Đồng bằng sông Hồng.
Nhận xét: Ưu thế lai của mẹ lai đối với tăng khối lượng ở lợn tuy không cao so
với tính trạng sinh sản, song cũng có vai trò đáng kể trong việc tác động làm nâng cao
khối lượng cơ thể lợn trong giai đoạn vỗ béo dẫn đến tăng khối lượng ở đời con có mẹ
là tổ hợp lợn lai lớn hơn so với mẹ là thuần chủng. Từ phân tích kết quả trong ảng
3.17 và 3.18 cho thấy,
các thành phần di truyền (di truyền cộng gộp và di truyền
trội) ảnh hưởng đến tính trạng tăng khối lượng ình quân/ngày của tổ hợp lai P,
DxP và L có giá trị lớn nhất so với các tổ hợp lai còn lại
.
+ Ưu thế lai tổng cộng: Trong nghiên cứu này, ưu thế lai của bố lai không
được tính đến vì các tổ hợp lai tạo thành đều chỉ sử dụng đực của các dòng tổng hợp
đã được nhân thuần. Như vậy, các thành phần ưu thế lai của các ông, bà nội ngoại
lai cũng không được tính đến vì các ông bà nội ngoại sử dụng trong nghiên cứu này
cũng đều là thuần. Do vậy, khi x t đến ưu thế lai tổng cộng trong nghiên cứu này,
chúng tôi chỉ đề cập đến 2 thành phần liên quan đối với tăng khối lượng của các tổ
hợp lai đó là ưu thế lai trực tiếp của cá thể lai và ưu thế lai của mẹ lai. Vì vậy, ưu
thế lai tổng cộng trong nghiên cứu này được xác định như sau:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: