Bảng 3.21. Giá trị ưu thế lai thành phần về dày m lưng của
các tổ hợp lai giữa các giống D, P và L
TT
Giống và tổ hợp lai
Số con theo dõi
Ưu thế lai
Dd
Dm
Tổng cộng
Giá trị tính (g/ngày)
-1,27
-0,2
-1,47
Giá trị (H%)
3,04
0,7
3,74
1
DD
282
0
0
0
2
PP
140
0
0
0
3
LL
945
0
0
0
4
DP và PD
DxPD
PxDP
442
90
90
1
2/3
2/3
0
1
1
1
1
1
5
DL và LD
DxLD
LxDL
356
90
90
1
2/3
2/3
0
1
1
1
1
1
6
LP và PL
LxPL
PxLP
380
90
90
1
2/3
2/3
0
1
1
1
1
1
Ghi chú:
Dd là ưu thế lai trực tiếp của các tổ hợp lai giữa các giống DD, PP và LL; Dm là
ưu thế lai của mẹ lai. Các giá trị 2/3; 1 là tỷ lệ nguồn gen của mỗi giống và tổ hợp lai tương ứng
+ Ưu thế lai trực tiếp (Dd): Là giá trị ưu thế lai được tạo thành trực tiếp bởi
chính các cá thể lai đó do nguồn gen cấu thành là một tổ hợp dị hợp tử. Dd về DML
của các tổ hợp lai ở nghiên cứu này là -1,27 mm. Như vậy, Dd của các tổ hợp lai
biểu hiện 100% ưu thế lai của 3 giống tương ứng là -3,04% so với trung bình của bố
mẹ. Kết quả này cho thấy, với ML thì d đã đóng góp làm giảm 3,04% so với
trung bình bố mẹ thuần chủng tạo nên chúng. Kết quả này, cao hơn kết quả nghiên
cứu của Phạm Thị Kim Dung. (2005) với giá trị là 1,99% ở con lai 3 giống Duroc,
Landrace và Yorkshire.
+ Ưu thế lai của mẹ lai (Dm): Là giá trị ưu thế lai tạo thành từ cá thể mẹ lai
đóng góp cho tổ hợp lai do chính nó tạo ra. Trong nghiên cứu này, giá trị Dm về
DML là -0,2 mm. Kết quả này cho thấy, đối với ML, m đã đóng góp làm giảm
104
0,7% so với sử dụng nguồn gen là mẹ thuần chủng. Tuy nhiên, so với tính trạng
sinh sản (ví dụ số con sơ sinh sống/lứa), ưu thế lai của mẹ lai đóng một vai trò quan
trọng quyết định nâng cao số con sơ sinh sống (Nguyễn ăn Đức và cs., 1999a, b),
thì thành phần m đối với DML chỉ đóng vai trò thứ yếu so với thành phần Dd.
+ Ưu thế lai tổng cộng: Như đã đề cập ở phần trên, ưu thế lai tổng cộng trong
nghiên cứu này được xác định dựa trên tổng các ưu thế lai thành phần. Ưu thế lai
tổng cộng về DML của tổ hợp đực lai trong nghiên cứu của chúng tôi, đã làm giảm
so với giá trị trung bình của bố mẹ chúng là -1,47 mm. Giá trị này nói lên rằng, các
cá thể của tổ hợp lai đã giảm 1,47 mm về DML so với trung bình của 3 giống thuần
tham gia tạo nên chúng. Rõ ràng, tổ hợp lai có mẹ lai sẽ có ưu thế lai cao nhất (-
3,74%) vì được thừa hưởng cả hai thành phần ưu thế lai trực tiếp (3,04%) và ưu thế
lai của mẹ lai (0,7%).
So với một số nghiên cứu trong nước cùng loại trên tính trạng dày mỡ lưng,
các kết quả nghiên cứu hiện tại tương đối phù hợp với báo cáo của một số tác giả đã
công bố. Ảnh hưởng di truyền trội trực tiếp đến tính trạng dày mỡ lưng của một số
cặp lai giữa Landrace, Large White và Móng Cái đã được báo cáo là 0,2mm (Duc.
1997). Sự chênh lệch về kết quả giữa các nghiên cứu nếu có là do sự khác biệt về
giống, loài, khác biệt về quần thể cha mẹ và mức độ đồng huyết của mỗi quần thể
khảo sát (East. 1936 ; Falconer và Mackay. 1996). o đó, các kết phân tích ở phần
trên chỉ có giá trị ứng dụng cho chính các quần thể đã được sử dụng trong nghiên
cứu này.
Tóm lại, từ các kết quả phân tích các thành phần di truyền ảnh hưởng đến các
tính trạng kiểm tra năng suất TKL và DML trong nghiên cứu hiện tại, có thể thấy
rằng ảnh hưởng di truyền trội trực tiếp được xem là cơ sở di truyền tạo nên ưu thế
lai (Falconer và Mackay. 1996; Li và cs., 2008 ; Charlesworth và Willis. 2009) đều
có ảnh hưởng tích cực đến các tính trạng nghiên cứu ở các tổ hợp lai giữa ba cặp
giống thuần Duroc - Pietrain, Duroc - Landrace và Pietrain - Landrace. Tuy vậy, các
giá trị ưu thế lai ở nghiên cứu này đều biểu hiện ở mức trung bình, bởi vì theo
Falconer và Mackay (1996), mức độ cận huyết của các dòng, giống vật nuôi thường
được khống chế ở mức nhất định để tránh suy giảm do cận huyết trong quá trình
nhân giống. Mặt khác, trong nghiên cứu hiện tại, ảnh hưởng tương tác át chế giữa
105
các gen không được đề cập vì nhiều tác giả cho rằng tương tác át chế giữa các gen
có vai trò rất nh đối với ưu thế lai (Li và cs., 2001; Luo và cs., 2001; Li và cs.,
2008; Estelle và cs., 2008). Trong một số trường hợp với một số tính trạng nhất
định, ảnh hưởng này có thể trở nên quan trọng hơn (Mefert và cs., 2002; Abasht và
Lamont. 2007). Do vậy, các nghiên cứu tiếp theo cần chú ý phân tích ảnh hưởng di
truyền này để có thể cung cấp đầy đủ cơ sở di truyền nhằm không ngừng nâng cao
hiệu quả của các chương trình lai giống vật nuôi nói chung và giống lợn nói riêng.
Như vậy, từ các kết quả đã thảo luận ở trên, trong mỗi cặp giống thuần, các tổ
hợp lai có tiềm năng năng suất cao nhất và có lợi về mặt sản xuất đã được nhận
diện. Đó là các tổ hợp lai DP và DxPD trong các tổ hợp lai giữa Duroc và Pietrain,
DL trong các tổ hợp lai giữa Duroc và Landrac. Câu h i đặt ra rằng, liệu các tổ hợp
lai tiềm năng như đã thảo luận ở phần trên (DP, DxPD và DL) có thể tiếp tục cho tự
nhân giống {(DP x DP), [(DxPD) x (DxPD) hay (DL x DL)} và chọn lọc để phát
triển thành các dòng đực mới hay không? Chúng ta biết rằng, nếu tiếp tục sử dụng
các tổ hợp lai này để tự nhân giống, tính dị hợp tử trong kiểu gen của đời con sẽ
giảm xuống, đồng nghĩa với ưu thế lai sẽ giảm thấp ở các thế hệ tiếp theo (Falconer
và Mackey. 1996). Do vậy, để tiếp tục nhân giống, chọn lọc ổn định năng suất và
các đặc tính mong đợi của các dòng lai mới tạo ra, cần có quần thể chọn lọc đủ lớn
sao cho áp lực chọn lọc và ly sai chọn lọc, đủ ù đắp được những giảm sút ưu thế
lai qua mỗi thế hệ tự nhân giống. Đồng thời, việc chọn lọc ổn định các đặc tính di
truyền của các dòng lai cần trải qua nhiều thế hệ, có thể chi phí lớn do phải loại thải
nhiều. Ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các cơ sở giống lợn có quy mô đàn giống nh ,
đặc biệt là các dòng bố ( uroc, Pietrain và đực lai cuối cùng) rất hạn chế. Do vậy,
đẩy nhanh hiệu quả chọn lọc ổn định các đặc tính di truyền của các nhóm đực lai
như đã thảo luận ở nghiên cứu này, cần thiết phải tăng quy mô đàn giống chọn lọc.
Điều này có nghĩa rằng, cần thiết nhiều cơ sở giống phải liên kết với nhau, đặc biệt
là với các doanh nghiệp lớn đang hoạt động trong lĩnh vực di truyền giống lợn.
Muốn có năng suất và hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn thịt, nên sử
dụng các lợn đực lai. Vì vậy, các tổ hợp lai DP, DL và DxPD trong nghiên cứu của
chúng tôi, cần được khai thác tối đa vì chúng có ưu thế lai cao về TKL và DML. Sử
dụng các tổ hợp đực lai này, để sản xuất lợn con thương phẩm nuôi thịt chắc chắn
sẽ đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
106
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |