BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang35/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   67

Trả lời:

Với trên 70% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn chiếm gần 75% lực lượng lao động cả nước, đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh sẽ tạo việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn, thuận lợi cho tích lũy và đầu tư nhưng nhược điểm như: diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, tình trạng di cư ồ ạt khỏi nông thôn để kiếm việc làm, khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập và điều kiện sống giữa công nghiệp và nông nghiệp,… tạo ra sức ép lớn về việc làm, ổn định xã hội, cân bằng môi trường. Đảng và Nhà nước đã và đang tìm nhiều giải pháp để giải quyết đồng bộ vấn đề trên. Điều đó được thể hiện qua việc thông qua Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 (Khóa IX) về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến 2010”; việc Bộ Chính trị đã chỉ đạo nhanh chóng xây dựng Đề án “Vấn đề nông nghiệp - nông dân - nông thôn” để đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân, đồng thời xây dựng các chỉ tiêu, định hướng phát triển, các chủ trương và giải pháp lớn để giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2020, tới khi nước ta cơ bản là một nước công nghiệp.

Theo tinh thần Nghị quyết trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện một số giải pháp, chính sách nhằm hỗ trợ nông dân chuyển đổi nghề, tự tạo việc làm và thuận lợi trong việc tìm việc làm mới, đặc biệt là đối với nông dân bị thu hồi đất phục vụ phát triển công nghiệp. Cụ thể là:

- Dự án vay vốn tạo việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010 với nội dung cho vay với lãi suất ưu đãi đối với người thất nghiệp, người thiếu việc làm, các hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn có khả năng tạo nhiều việc làm cho bản thân và cho xã hội (tính đến năm 2008 tổng nguồn vốn vay đã cấp cho các tỉnh, thành phố, 8 hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng quản lý khoảng 3000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 350 ngàn lao động);

- Triển khai có hiệu quả Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn để góp phần tích cực vào việc nâng cao số lượng và chất lượng lao động nông thôn (năm 2007 với 156,2 tỷ đồng hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho 320 ngàn lao động nông thôn);

- Hoàn thiện hệ thống Website “Người tìm việc - Việc tìm người”, Website thông tin thị trường lao động và tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ và thường xuyên trên hầu hết các tỉnh, thành phố có thị trường phát triển, nhằm đáp ứng nhanh và có hiệu quả nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ sở sản xuất kinh doanh;

- Thành lập Trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động, giúp Chính phủ đưa ra các chính sách phù hợp, đúng đắn để giải quyết tốt những vấn đề của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời gian tới;

- Nghiên cứu trình Chính phủ, Quốc hội ban hành Luật Việc làm.



27/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Về việc trả lương cho người lao động đối với các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài, hiện nay Nhà nước quy định doanh nghiệp không được trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu mà không quy định hệ số lương nên các doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu một ít dẫn đến quyền lợi của người lao động không được đảm bảo. Đề nghị nên quy định cách trả lương theo hệ số nhân với mức lương tối thiểu để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Trả lời:

Theo Điều 57 của Bộ luật Lao động có quy định “Sau khi tham khảo ý kiến của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động, Chính phủ quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người sử dụng lao động xây dựng và áp dụng phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002, trong đó quy định một số nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương trong các doanh nghiệp. Căn cứ vào Bộ luật Lao động, Nghị định số 114/2002/NĐ-CP nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư hướng dẫn số 28/2007/TT-BLĐTBXH ngày 5/12/2007, trong đó quy định cụ thể về nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương trong các doanh nghiệp như mức lương bậc 1 phải cao hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định, chênh lệch giữa hai bậc lương liền kề thấp nhất bằng 5%, mức lương thấp nhất đối với lao động làm nghề, công việc đòi hỏi qua học nghề phải cao hơn ít nhất 7% so với mức tối thiểu do Chính phủ quy định, mức lương của nghề, công việc độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 5% so với mức lương của nghề, công việc có điều kiện lao động b́nh thường... Các quy định này là mức tối thiểu doanh nghiệp phải thực hiện, đồng thời Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các mức cao hơn để trả lương cho người lao động. Căn cứ vào quy định của Nhà nước, doanh nghiệp được toàn quyền quyết định việc xây dựng thang lương, bảng lương (theo hệ số lương hoặc theo mức tiền lương cụ thể) sau khi trao đổi, thống nhất với Ban Chấp hành công đoàn cơ sở. Việc quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trả lương theo hệ số nhân mức lương tối thiểu như quy định đối với doanh nghiệp nhà nước là không phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên thực tế hiện nay, vẫn còn một số doanh nghiệp lợi dụng tình trạng thiếu việc làm trả lương thấp cho người lao động dẫn đến người lao động bị thiệt thòi, quan hệ lao động căng thẳng, tranh chấp lao động và đình công xảy ra. Để giải quyết vấn đề này, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động đến người lao động và người sử dụng lao động; từng bước hình thành và thực hiện cơ chế thương lượng, thoả thuận về tiền lương ở cấp doanh nghiệp và cấp ngành; củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt trong việc đại diện cho người lao động để thương lượng, thoả thuận tiền lương với chủ sử dụng lao động.

28/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh, Thái Bình, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sớm có văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai áp dụng thực hiện chế độ chính sách trợ cấp xó hội thường xuyên theo tinh thần Nghị định số 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ. Quy định cụ thể phải viết đơn xin trợ cấp không mang tính khả thi, đề nghị chỉ căn cứ vào một trong những giấy tờ chứng minh nhân dân, giấy khai sinh là đủ, không nên quy định như hiện nay.

Trả lời:

Để triển khai thực hiện các chế độ chính sách quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, ngày 13/7/2007 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đó ban hành Thụng tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP. Trong đó có quy định cần có đơn và sơ yếu lý lịch đối tượng thụ hưởng có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Đây là quy định cần thiết nhằm đảm bảo sự chặt chẽ, thống nhất quản lý từ cơ sở và thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung của cả nước, vì thế không thể giảm bớt thủ tục này.



29/ Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc, Tây Ninh kiến nghị: Đề nghị xem xét cho các cụ cao tuổi (từ 85 tuổi trở lên) thuộc đối tượng hưởng chính sách đối với người có công với cách mạng được hưởng cả chế độ ưu đãi đối với người cao tuổi. Vì đây là hai chế độ ưu đói khác nhau và các cụ cao tuổi thuộc những đối tượng này đều xứng đáng được hưởng.

Trả lời:

Khoản 3, Điều 4, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP quy định: Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng do xã, phường, thị trấn quản lý. Như vậy đối với các cụ cao tuổi (từ 85 tuổi trở lên) đang hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng nhưng không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội vẫn thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định trên. 30/ Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Đề nghị người từ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng.



Trả lời:

Khoản 4, Điều 6 Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26/3/2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh người cao tuổi quy định: Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên, nếu không có lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng từ ngân sách địa phương. Thực hiện quy định trên, các địa phương đã tiến hành trợ cấp xã hội hàng tháng cho hầu hết người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên không có lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác.

Thể theo nguyện vọng của cử tri, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngày 13/4/2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, theo đó, người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội được hưởng trợ cấp hàng tháng.

Việc điều chỉnh tuổi và điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người cao tuổi tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP là thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi trong điều kiện kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin ghi nhận ý kiến để nghiên cứu trình Chính phủ khi điều kiện cho phép.



31/ Cử tri tỉnh Bắc Giang, Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay người tàn tật nếu được hưởng trợ cấp thì phải nằm trong diện hộ nghèo. Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét việc hưởng chế độ người tàn tật và hộ nghèo nên tách riêng rẽ, không gắn chế độ người tàn tật với chế độ nghèo như hiện nay.

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 4 và 5 Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP người tàn tật không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, người mắc bệnh tâm thần là hộ nghèo thuộc diện trợ cấp hàng tháng do xã, phường, thị trấn quản lý. Quy định này là phù hợp vì trong điều kiện kinh phí có hạn, chưa đủ đảm bảo thực hiện trợ cấp cho tất cả các đối tượng bảo trợ xã hội (trong đó có người tàn tật). Vì vậy cần lựa chọn nhóm đối tượng khó khăn nhất để trợ cấp trước.

Cùng với các chế độ trợ cấp trực tiếp cho người tàn tật, Nhà nước cũng có chính sách trợ cấp cho hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ, chế độ trợ cấp này thực hiện đối với cả những hộ không thuộc diện hộ nghèo (tức là không gắn với tiêu chí hộ nghèo).

Như vậy về bản chất chế độ trợ cấp đối với người tàn tật và các chính sách đối với hộ nghèo là hai chính sách riêng rẽ. Người tàn tật thuộc diện hộ nghèo được trợ cấp xã hội vẫn được hưởng các chính sách đối với hộ nghèo.



32/ Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Đề nghị tăng mức trợ cấp cho người tàn tật không có khả năng lao động và không nơi nương tựa, vì mức trợ cấp 120.000đồng/tháng như hiện nay là quá thấp. Bên cạnh đó đề nghị có chế độ miễn học phí, hoặc trợ cấp tiền học nghề, tạo điều kiện cho họ tự nuôi bản thân và gia nhập cộng đồng.

Trả lời:

Mức chuẩn trợ cấp xã hội 120.000đ/tháng quy định tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP (áp dụng từ ngày 01/01/2007) đã nâng 1,85 lần so với năm 2006 (quy định tại Nghị định 168/2004/NĐ-CP là 65.000đ/tháng). Năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008 do giá các mặt hàng tiêu dùng tăng cao, tác động làm giảm mức sống của các đối tượng hưởng chính sách (trong đó có người tàn tật). Để từng bước giảm bớt khó khăn cho các đối tượng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang nghiên cứu để báo cáo Chính phủ cho phép nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội trong thời gian tới.

Cùng với trợ cấp xã hội, Nhà nước cũng đã có chính sách miễn giảm học phí, học bổng cho người tàn tật khi học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học thuộc các cơ sở giáo dục, đào tạo của Nhà nước.

33/ Cử tri tỉnh Sóc Trăng khiếu nại: Qua tổng kết Nghị quyết 16/2003/NQ-QH11 ngày 17/6/2003 về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý. Cử tri đề nghị Chính phủ tổ chức triển khai ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước chương trình cai nghiện ma tuý theo hướng cắt cơn nghiện và kết hợp với dạy nghề, phục hồi nhân phẩm, nhân cách nhằm giúp cho người nghiện sau khi ra trường hoà nhập với cộng đồng và hạn chế tình trạng tái nghiện trở lại; vì hiện nay số đối tượng này sau khi ra trường không nghề nghiệp nên tái nghiện trở lại là đa số.

Trả lời:

Qua tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 16/2003/NQ-QH11 ngày 17/6/2003 về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý, Quốc hội, Chính phủ đã đánh giá cao kết quả thí điểm việc thực hiện Đề án này ở TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác. Trên cơ sở hiệu quả đó, vấn đề quản lý sau cai nghiện, dạy nghề, tạo việc làm đã được luật hoá trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống ma tuý (Luật số 16/2008/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 3/6/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009) nhằm nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma tuý hiện nay (Điều 33 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống ma tuý).

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành công tác quản lý sau cai nghiện ma tuý, dự kiến sẽ trình Chính phủ ban hành vào tháng 12 năm 2008.

34/ Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị nên thống nhất thành lập nhiều Trung tâm cai nghiện trên cả nước để giúp người cai nghiện có môi trường làm lại cuộc đời và chống việc tái nghiện.

Trả lời:

Thực hiện Luật phòng chống ma tuý, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, cho đến hết năm 2007, cả nước đã có 105 cơ sở cai nghiện được thành lập. Hiện nay, hệ thống cơ sở cai nghiện trong cả nước có thể tiếp nhận vào cai nghiện, chữa bệnh khoảng 57.000 - 58.000 người. Tuy nhiên vẫn còn một số địa phương chưa có Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội do khó khăn về ngân sách.

Hoạt động cai nghiện ma tuý ở các Trung tâm đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh trật tự tại địa bàn, giảm tội phạm hình sự nói chung và tội phạm liên quan đến ma tuý riêng. Đồng thời góp phần giảm thiểu tình trạng gia tăng người nghiện mới, tốc độ lây lan HIV trong cộng đồng; xây dựng môi trường văn hoá xã hội lành mạnh; giảm khó khăn và đem lại cuộc sống bình yên cho hàng chục vạn gia đình có con em, người thân nghiện ma tuý.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo các Trung tâm cai nghiện nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cai nghiện phục hồi, giáo dục hành vi, nhân cách và tổ chức hướng nghiệp, dạy nghề cho họ để tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiện ma tuý sau khi cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống và chống tái nghiện có hiệu quả.



35/ Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị khi ban hành chủ trương về việc chi trả chế độ, chính sách thì phải cân đối ngân sách để thực hiện cho đồng bộ. Hiện nay, một số chế độ như tiền huân huy chương, huy chương kháng chiến, chất độc màu da cam, tiền phụ cấp cho người cao tuổi (theo Nghị định 67) mặc dù đã kê khai từ 2 năm nay nhưng vẫn chưa có kinh phí chi trả.

Trả lời:

Về kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng như: trợ cấp đối với người hoạt động cách mạng được tặng Huân, Huy chương kháng chiến, chất độc màu da cam thuộc nguồn kinh phí thực hiện Pháp lệnh ưu đãi Người có công; hàng năm Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã bố trí đầy đủ kinh phí để địa phương thực hiện các chính sách này. Cho đến nay, Bộ chưa nhận được bất kỳ một phản ánh nào từ phía địa phương về tình hình thiếu kinh phí.

Về kinh phí thực hiện tiền trợ cấp cho người cao tuổi theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP: nguồn kinh phí thực hiện chế độ này đã được Bộ Tài chính bố trí đầy đủ trong nguồn ngân sách địa phương hàng năm.

Việc đối tượng đã kê khai từ 2 năm nhưng vẫn chưa được hưởng chính sách là do chậm chễ ở quá trình xét duyệt hồ sơ, thủ tục tại các địa phương./.



BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

1/ Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị:

Câu hỏi 1:Đề nghị Nhà nước tăng nguồn vốn để đầu tư các công trình quan trọng như hệ thống đê biển, đê đầm phá: đê Đông Tây Ô Lâu, đê phá Tam Giang - Cầu Hai, kè chống sạt lở bờ biển Hải Dương - Phú Thuận, các công trình chống sạt lở bờ sông Bồ, sông Hương, sông Ô Lâu.

Trả lời (tại công văn số 5953/BKH-TH ngày 15/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư):

- Về đề nghị nâng cấp các tuyến đê biển, đê đầm phá (đê Đông Tây Ô Lâu, đê phá Tam Giang- Cầu Hai): Ngày 14/03/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình đầu tư củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển hiện có tại các tỉnh có đê từ Quảng Ninh đến Quảng Nam, trong đó có hệ thống đê biển, đê cửa sông của tỉnh Thừa Thiên Huế. Chương trình được thực hiện từ năm 2006, phấn đấu đến năm 2010 đầu tư hoàn thành những đoạn đê xung yếu nhằm bảo vệ dân cư tập trung, những khu vực kinh tế quan trọng. Trong 3 năm 2006, 2007 và 2008 Ngân sách Trung ương đã bố trí 45 tỷ đồng cho tỉnh để đầu tư cho mục tiêu này, trong đó: kế hoạch 2006 bố trí 10 tỷ đồng, kế hoạch năm 2007 là 15 tỷ đồng, tạm ứng kế hoạch 2008 là 10 tỷ đồng (Chính phủ đã cho phép hoãn thu hồi) và giao kế hoạch năm 2008 là 10 tỷ đồng.

Hiện nay, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, nguồn vốn tăng thêm để đầu tư rất hạn hẹp. Do vậy, bên cạnh số vốn đã được Trung ương hỗ trợ, đề nghị tỉnh chủ động huy động các nguồn lực sẵn có của địa phương để thực hiện, bảo đảm an toàn phòng, chống lụt, bão. Từ nay đến năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổng hợp trình Chính phủ tiếp tục bố trí vốn cho tỉnh để đầu tư cho Chương trình.

- Về kè chống sạt lở Hải Dương - Phú Thuận: Dự án đã được bố trí 100 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Hiện nay, Chính phủ chưa có chủ trương bổ sung thêm nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Trước mắt, đề nghị tỉnh sử dụng nguồn vốn đã được giao trong kế hoạch hàng năm và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư những đoạn xung yếu, cấp bách nhằm đảm bảo an toàn, kịp thời phòng, chống lụt, bão.

Sau khi có chủ trương phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ, Bộ Kế hoạch sẽ tổng hợp kiến nghị của tỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

- Về các công trình chống sạt lở bờ sông Bồ, sông Hương, sông Ô Lâu: Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, nhiệm vụ đầu tư các công trình chống sạt lở bờ sông suối và các công trình khắc phục hậu quả thiên tai thuộc trách nhiệm chi của ngân sách địa phương, ngân sách Trung ­ương chỉ hỗ trợ thêm khi quy mô đầu tư vượt quá khả năng của địa phương.

Trong các năm qua, Ngân sách Trung ương đã hỗ trợ tỉnh để đầu tư các công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai. Cụ thể: các năm 2006 và 2007 mỗi năm hỗ trợ 10 tỷ đồng để xử lý sạt lở, đê, kè, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai. Ngoài số vốn đã được Trung ương hỗ trợ, đề nghị tỉnh chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp khác của địa phương để thực hiện, bảo đảm an toàn phòng, chống lụt, bão; Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ kinh phí cho tỉnh để đầu tư các công trình chống sạt lở khi có điều kiện về nguồn vốn.

Câu hỏi 2: Đề nghị xúc tiến nhanh Dự án “Giảm nghèo cho cộng đồng dân thủy điện tỉnh Thừa Thiên - Huế” (bao gồm cả dân vạn đò trên sông Hương và vùng đầm phá) vào danh mục vận động tài trợ ODA để thực hiện trong năm 2008. Trước mắt, đề nghị bố trí vốn kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2008 thực hiện một số dự án tái định cư thủy điện cấp bách trên các sông, đầm phá.

Trả lời (tại công văn số 5953/BKH-TH ngày 15/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư):

Về đề nghị xúc tiến nhanh Dự án “Giảm nghèo cho cộng đồng dân thủy điện tỉnh Thừa Thiên - Huế” (bao gồm cả dân vạn đò trên sông Hương và vùng đầm phá) vào danh mục vận động tài trợ ODA để thực hiện trong năm 2008: Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận với kiến nghị của tỉnh và sẽ tích cực vận động các nhà tài trợ quan tâm sớm thực hiện dự án.

Về bố trí vốn kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2008 thực hiện một số dự án tái định cư thuỷ điện cấp bách trên các sông, đầm phá, đề nghị tỉnh hoàn tất các thủ tục chuẩn bị đầu tư theo qui định hiện hành, đưa danh mục dự án cụ thể vào kế hoạch hàng năm của tỉnh, trước mắt trong kế hoạch năm 2009. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Câu hỏi 3: Đề nghị Chính phủ cho chủ trương xây dựng và kêu gọi nguồn vốn ODA để thực hiện dự án “Nâng cấp và mở rộng hệ thống cấp nước toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế” để xây dựng các nhà máy cấp nước cho các vùng chưa có nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn Việt Nam như khu vực ven biển đầm phá, đảm bảo cung cấp trong mùa mưa lũ hạn chế thấp nhất dịch bệnh do sử dụng nước không hợp vệ sinh.

Trả lời (tại công văn số 5953/BKH-TH ngày 15/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủng hộ đề xuất của tỉnh trong việc kêu gọi nguồn vốn ODA để thực hiện dự án “Nâng cấp và mở rộng hệ thống cấp nước toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế”.

Để có cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ và vận động nhà tài trợ xem xét tài trợ cho Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị tỉnh Thừa Thiên - Huế xây dựng đề cương chi tiết theo quy định tại Thông tư số 04/2006/TT-BKH ngày 30/7/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và gửi đề xuất về Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận thấy quy mô của Dự án này sẽ rất lớn và khó có thể huy động một nguồn vốn ODA lớn cho Dự án này. Đề nghị tỉnh cân nhắc quy mô dự án phù hợp và làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để huy động thêm nguồn vốn thông qua Chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn.

Câu hỏi 4:Do ảnh hưởng của thiên tai, quần thể Di tích Cố đô Huế đã bị xuống cấp nghiêm trọng, mặc dù đã có quyết định quy hoạch trùng tu và bảo tồn của Chính phủ nhưng do nguồn vốn phân bổ hàng năm không đáp ứng nhu cầu trùng tu, tôn tạo. Cử tri Thừa Thiên - Huế đề nghị Nhà nước tập trung đầu tư để đẩy nhanh tiến độ trùng tu bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.

Trả lời (tại công văn số 5953/BKH-TH ngày 15/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư):

Hiện nay nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được tập trung để đầu tư cho một số lĩnh vực như đường ô tô đến trung tâm xã, các dự án thuỷ lợi và thuỷ lợi miền núi, các dự án bệnh viện tuyến huyện. Vì vậy, trước mắt đề nghị Tỉnh Thừa Thiên – Huế sử dụng nguồn vốn đã được Nhà nước cân đối theo kế hoạch hàng năm từ chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện dự án./.



2/ Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:

Câu hỏi 1:Đề nghị Chính phủ tăng nguồn vốn đầu tư trái phiếu Chính phủ để Quảng Nam triển khai hoàn thiện hệ thống giao thông nhất là giao thông cho 23 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm (hiện nay chỉ đáp ứng 1/3 tổng dự toán được duyệt).

Trả lời: (tại công văn số 5952/BKH-TH ngày 15/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành kế hoạch đầu tư XDCB và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thông báo mức vốn đầu tư từ nguồn trái phiều Chính phủ cho mục tiêu hoàn thiện hệ thống đường ô tô đến trung tâm xã giai đoạn 2003-2010 đợt 1 và đợt 2 của Quảng Nam là 289,9 tỷ đồng (bao gồm cả các dự án Bộ Giao thông Vận tải chuyển cho địa phương quản lý). Theo báo cáo của UBND tỉnh Quảng Nam (công văn số 1893/UBND-KTTH ngày 3/6/2008) sau khi rà soát đến nay tỉnh mới giải ngân được khoảng 52,5% nguồn vốn được giao; do vậy đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam chủ động huy động các nguồn vốn khác để lồng ghép thực hiện mục tiêu này. Trên cơ sở thực hiện của tỉnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, bổ sung nguồn vốn trái phiếu Chính phủ khi có chủ trương phát hành thêm trái phiếu Chính phủ cho mục tiêu này.



Câu hỏi 2:Để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng biên giới Việt - Lào, nâng cao đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số; trên cơ sở kế hoạch và các đề án thực hiện chương trình mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã miền núi của UBND tỉnh Quảng Nam, đề nghị Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - đầu tư và các bộ, ngành liên quan bổ sung 158.359 triệu đồng để Quảng Nam đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn nằm dọc tuyến biên giới Việt – Lào (Quảng Nam có 57 xã đặc biệt khó khăn, trong đó có 12 xã thuộc tuyến biên giới Việt - Lào).

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương