BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang34/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   67

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội thì lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản bằng 4 tháng nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường; bằng 5 tháng nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc theo chế độ ba ca, làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân; bằng 6 tháng đối với lao động nữ là người tàn tật có mức suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên. Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ nêu trên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày.

Theo những quy định này, lao động nữ có thể đi làm sớm hơn thời hạn nghỉ thai sản theo quy định khi đó nghỉ được 60 ngày trở lên tính từ khi sinh con, có chứng nhận của thầy thuốc về việc trở lại làm sớm không có hại cho sức khoẻ, có báo trước với người sử dụng lao động và được người sử dụng lao động đồng ý.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con nêu trên được quy định trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định về thời gian nghỉ chế độ thai sản tại Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ. Theo đó, thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con làm việc trong điều kiện lao động bình thường là 4 tháng đã được thực hiện từ năm 1995 cho đến nay, nhìn chung là phù hợp với điều kiện hiện tại, đáp ứng được nhu cầu của lao động nữ khi sinh con và của đơn vị sử dụng lao động trong điều kiện lao động bình thường.

Việc tăng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường từ 4 tháng lên 6 tháng đang được xem xét nghiên cứu một cách toàn diện, trên cơ sở vừa đáp ứng nguyện vọng của người lao động ở cả khu vực hành chính sự nghiệp và trong các loại hình doanh nghiệp, đồng thời còn phù hợp với nhu cầu bố trí, sắp xếp lao động của các đơn vị sử dụng lao động và đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội không làm tăng mức đóng bảo hiểm xã hội của người lao động.

15/ Cử tri tỉnh An Giang, Đắc Nông kiến nghị: Thời gian nghỉ hộ sản của nữ cán bộ, công nhân viên chức là 4 tháng, đề nghị có chính sách kèm theo như hỗ trợ chi phí gửi con nhằm giải quyết một phần khó khăn cho những đối tượng này và quy định nhà trẻ phải giữ cháu từ 4 tháng tuổi.

Trả lời:

Về kiến nghị này không thuộc thẩm quyền của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đề nghị chuyển đến Bộ Giáo dục và Đào tạo để xem xét trả lời theo thẩm quyền.



16/ Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Việc triển khai thực hiện Luật bảo hiểm xã hội quy định bảo hiểm xã hội tự nguyện gặp nhiều khó khăn, do đến nay chưa có văn bản hướng dẫn của Chính phủ và của Bộ. Đề nghị Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và xã hội tham mưu với Chính phủ sớm có hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.

Trả lời:

Luật bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, trong đó quy định chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008; bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/2009.

Theo lộ trình triển khai Luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện từ năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện; theo đó, ngày 31/01/2008, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 02/2008/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 190/2007/NĐ-CP của Chính phủ.

Trên cơ sở các văn bản trên, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang tổ chức triển khai thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện tại các tỉnh, thành phố. Theo đó, mọi người lao động có nhu cầu thì trực tiếp đến cơ quan bảo hiểm xã hội quận, huyện nơi cư trú để đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với thủ tục đơn giản và thuận tiện.

Về bảo hiểm thất nghiệp, đến nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định hướng dẫn một số Điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp và sẽ được ban hành trong thời gian tới để thực hiện ngay từ ngày 01/01/2009.

17/ Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Về chế độ thôi việc theo quy định của bảo hiểm xã hội (BHXH), sau thời gian một năm mới được hưởng chế độ thôi việc là chưa phù hợp, đề nghị quy định hai phương thức: hưởng chế độ ngay sau khi thôi việc hoặc sau một năm để đối tượng được hưởng tự lựa chọn.

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội, thì người lao động được hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi sau 1 năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và có yêu cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội.

Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong thời gian 1 năm tính từ khi nghỉ việc nếu tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội thì được cộng nối thời gian đóng bảo hiểm xã hội để khi về già có đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng. Đặc biệt từ ngày 01/01/2008 khi bảo hiểm xã hội tự nguyện có hiệu lực thi hành thì người lao động nếu không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, với quy định này tạo điều kiện cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khi có đủ điều kiện được hưởng chế độ hưu trí, đảm bảo quyền thụ hưởng lâu dài và ổn định cho người lao động khi về già, đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội.

18/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị sửa đổi Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội “3% vào quỹ ốm đau, thai sản; trong đó người sử dụng lao động được giữ lại 2%” như sau “...3% vào quỹ ốm đau, thai sản; tuỳ từng điều kiện cụ thể, người sử dụng lao động có thể giữ lại 2%...” vì quy định người sử dụng lao động giữ lại 2% chỉ phù hợp với một số doanh nghiệp lớn, có cán bộ chuyên làm công tác bảo hiểm xã hội, không phù hợp với các đơn vị hành chính sự nghiệp và các đơn vị có số lao động ít.

Trả lời:

Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội quy định: “Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xó hội của người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật này như sau: a) 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ quy định tại Mục 1 và Mục 2 Chương III của Luật này và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội;...”

Quy định để lại 2% quỹ ốm đau, thai sản tại đơn vị sử dụng lao động nhằm chi trả kịp thời chế độ cho người lao động khi đủ điều kiện hưởng ốm đau, thai sản, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người lao động. Trong thực tế với quy định này, đã tạo điều kiện cho phần lớn các đơn vị sử dụng lao động chủ động hơn trong chi trả chế độ cho người lao động. Tuy nhiên, cũng có một số doanh nghiệp nêu lý do cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội ở đơn vị hạn chế, thường xuyên thay đổi, không đáp ứng yêu cầu thẩm định hồ sơ thanh quyết toán kịp thời chi trả cho người lao động khi có nhiều người lao động hưởng chế độ ốm đau, thai sản nên việc quy định này không phù hợp với điều kiện doanh nghiệp này.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin ghi nhận ý kiến phản ánh của cử tri để nghiên cứu, tập hợp các vấn đề vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội để bổ sung, hoàn chỉnh trình Chính phủ trình Quốc hội quyết định.



19/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi Nghị định số 152/2006/NĐ-CP quy định chế độ tiền lương đối với những người hưởng lương hưu từ năm 2007 không được tính phụ cấp khu vực vào lương hưu là không phù hợp và không công bằng với những người cùng công tác sinh sống trên địa bàn nghỉ hưu trước ngày 31/12/2006.

Trả lời:

Trước ngày 01/01/2007, chế độ phụ cấp khu vực được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT ngày 05/01/2005 của liên Bộ: Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính và Uỷ ban Dân tộc, theo đó những người nghỉ hưu, nghỉ việc và mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hưởng trợ cấp hàng thỏng ở nơi có phụ cấp khu vực được hưởng phụ cấp khu vực (không kèm theo điều kiện trước đó đóng BHXH có phụ cấp khu vực hay không có phụ cấp khu vực).

Tại Điểm b, Khoản 4 Thông tư liên tịch quy định nguồn kinh phí chi trả phụ cấp khu vực cho các đối tượng nêu trên nếu lương hưu, trợ cấp hàng tháng do ngân sách Nhà nước chi trả thì phụ cấp khu vực được ngân sách Nhà nước đảm bảo; nếu do quỹ BHXH chi trả thì phụ cấp khu vực được quỹ BHXH đảm bảo.

Từ ngày 01/01/2007 trở đi, pháp luật BHXH được thực hiện theo quy định của Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn. Tại Điều 94 Luật BHXH quy định tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động tham gia BHXH bắt buộc không bao gồm phụ cấp khu vực; tại Điều 90 Luật BHXH về sử dụng quỹ BHXH bắt buộc không có quy định nội dung chi trả phụ cấp khu vực và tại Khoản 2, Điều 139 Luật BHXH về quy định chuyển tiếp quy định người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tiền tuất hàng tháng trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn thực hiện theo các quy định trước đây. Căn cứ các quy định nêu trên, các đối tượng đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng trước ngày 01/01/2007 vẫn thực hiện chi trả chế độ phụ cấp khu vực theo quy định tại Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT và tạm thời dừng thực hiện chi trả chế độ phụ cấp khu vực đối với người nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngày 01/01/2007. Như vậy, hiện có một bộ phận người lao động đã đóng BHXH bao gồm cả phụ cấp khu vực, từ ngày 01/01/2007 nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng ở nơi có phụ cấp khu vực chưa được hưởng chế độ phụ cấp khu vực.

Nhằm giải quyết những vướng mắc trong thực hiện chế độ phụ cấp khu vực nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan dự thảo phương án giải quyết chế độ phụ cấp khu vực đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH mà trước đó đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bao gồm phụ cấp khu vực, đảm bảo nguyên tắc hưởng trên cơ sở mức đóng, có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội và đã gửi lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ trình Chính phủ xem xét, quyết định.

20/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh lại quy định chế độ cho những đối tượng hưởng trợ cấp theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 4/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp cho những người đã hết tuổi lao động tại thời điểm ngừng hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.

Trả lời:

Ngày 04 tháng 8 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg về việc trợ cấp cho những người đã hết tuổi lao động tại thời điểm ngừng hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng. Theo Quyết định này, những người hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng tại thời điểm ngừng trợ cấp theo quy định tại Quyết định số 60/HĐBT nêu trên đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi ), nếu có thời gian công tác đủ 15 năm trở lên (không tính quy đổi theo hệ số) thì được trợ cấp hàng tháng 100.000 nghìn đồng. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đến nay có 5.720 người đang hưởng trợ cấp theo Quyết định này.

Hằng năm, khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, mức trợ cấp này cũng được điều chỉnh. Theo đó, thời gian qua đã thực hiện 5 lần điều chỉnh mức trợ cấp này và hiện nay các đối tượng hưởng trợ cấp theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg đang được hưởng mức trợ cấp là 342.374 đồng/tháng.

21/ Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 nhưng không quy định và chưa có hướng dẫn việc giải quyết chế độ cho cán bộ xã, phường, thị trấn nghỉ chờ giải quyết chế độ, do đó địa phương không có cơ sở để giải quyết chế độ chính sách. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành chức năng sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để giải quyết chế độ cho nhóm đối tượng trên.

Trả lời:

Chế độ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn nghỉ chờ giải quyết chế độ được quy định tại Thông tư liên tịch số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTBXH ngày 19/5/1998 của Liên tịch Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ, Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14/5/2004 của Liên Bộ Nội vụ, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn. Nội dung này thuộc chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và thẩm quyền giải quyết của Bộ Nội vụ.

Để hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn trong tình hình mới, trong năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã giao trách nhiệm cho Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở và soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ. Dự thảo Nghị định về một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn đã được Bộ Nội vụ xây dựng và đã lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, đăng tải trên Website của Chính phủ để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân.

Tuy nhiên, về ý kiến đề nghị nêu trên của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Công văn số 1946/LĐTBXH-BHXH ngày 04/6/2008 chuyển Bộ Nội vụ nghiên cứu, giải quyết theo thẩm quyền.



22/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đối với chế tài xử phạt các doanh nghiệp không thực hiện việc đóng BHXH cho người lao động hiện nay mức phạt cao nhất mới chỉ có 20 triệu đồng không có tác dụng răn đe với các chủ doanh nghiệp đề nghị quy định mức phạt cao hơn và phải truy thu toàn bộ số tiền phải nộp bảo hiểm cho người lao động mà đơn vị chưa nộp.

Trả lời:

Điều 7 Nghị định 135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 đã quy định các hình thức xử phạt, trong đó hình thức xử phạt chính gồm cảnh cáo và phạt tiền. Mức phạt tiền được quy định rất cụ thể đối với từng hành vi vi phạm pháp luật BHXH, trong đó có hành vi của chủ sử dụng lao động không thực hiện việc đóng BHXH, cố tình trốn nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH cho người lao động (tại các Điều 10, 12, 13 và 14 của Nghị định số 135/2007/NĐ-CP), trong đó mức phạt tiền cao nhất là 20 triệu đồng. Quy định này phù hợp với Khoản 2a, Điều 14 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 44/2002/PL-UBTVQH10. Tuy nhiên, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi) số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02/4/2008, có hiệu lực từ 01/8/2008 đã nâng mức phạt tiền trong lĩnh vực BHXH lên tối đa là 30 triệu đồng, do vậy hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang sửa đổi, bổ sung Nghị định 135/2007/NĐ-CP để nâng mức phạt tiền tới mức tối đa là 30 triệu đồng đối với những hành vi vi phạm pháp luật BHXH, trong đó có hành vi vi phạm về việc trốn nộp hoặc chậm nộp BHXH để trình Chính phủ xem xét, quyết định trong thời gian sớm nhất

Về đề nghị buộc truy thu toàn bộ số tiền phải nộp BHXH cho người lao động mà đơn vị chưa nộp. Đây là một trong những biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm đã được quy định trong Nghị định 135/2007/NĐ-CP (Điều 7 và các Điều quy định cụ thể các hành vi vi phạm).

23/ Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị nâng mức xử phạt vi phạm hành chính về BHXH tại Nghị định số 135/2007/NĐ-CP để đảm bảo sức răn đe đối với chủ sử dụng lao động cố tình trốn nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH cho người lao động, đồng thời quy định mức lãi suất cho số tiền BHXH chưa đóng hoặc chậm đóng ít nhất phải tương đương với lãi suất kinh doanh của doanh nghiệp.

Trả lời:

Về đề nghị nâng mức xử phạt vi phạm hành chính về BHXH tại Nghị định số 135/2007/NĐ-CP đã trả lời tại kiến nghị số 36 của cử tri tỉnh Quảng Ninh (nêu trên)

Về quy định lãi suất cho số tiền BHXH chưa đóng hoặc chậm đóng tương đương với lãi suất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo Nghị định này cũng đã được nêu ra, nhưng nhiều ý kiến cho rằng quy định như vậy là không hợp lý mà chỉ quy định như Khoản 3 Điều 138 Luật BHXH về mức lãi suất trong trường hợp này là mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH trong năm và đây là một trong những biện pháp khắc phục hậu quả (Khoản 3b Điều 7 và các Điều 10, 12, 13 và 14 Nghị định số 135/2007/NĐ-CP đều có quy định áp dụng biện pháp này).

24/ Cử tri tỉnh Cần Thơ, Hải Dương, Khánh Hòa kiến nghị: Việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn vừa qua có triển khai nhưng chưa đủ sức thu hút số đông lao động nhàn rỗi vì nhiều lý do: ngành nghề đào tạo không phù hợp nhu cầu tại địa phương; trình độ và kinh nghiệm của giáo viên dạy nghề còn hạn chế; chương trình, thiết bị phục vụ giảng dạy đã lạc hậu; công tác quản lý lớp học thiếu chặt chẽ; nhận thức, tâm lý của không ít học viên chưa tốt... đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sớm chấn chỉnh những yếu kém này.

Trả lời:

Việc hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn đối với lao động nông thôn được thực hiện theo Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 19/01/2006 của Liên Bộ: Tài chính và Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện (gọi tắt là Quyết định số 81 và Thông tư số 06).

- Theo Quyết định số 81 và Thông tư số 06 thì “Ngành nghề đào tạo được xác định căn cứ theo nhu cầu chuyển dịch lao động việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định”. Theo đó các nghề đào tạo được Uỷ ban nhân các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương quyết định trên cơ sở nhu cầu học nghề của người dân ở địa phương và năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn.

- Về vấn đề trình độ và kinh nghiệm của giáo viên dạy nghề còn hạn chế do các chính sách ưu đãi và thu hút giáo viên dạy nghề hiện nay chưa thực sự hiệu quả dẫn đến các cơ sở dạy nghề gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút đội ngũ giáo viên giỏi, có kinh nghiệm đến giảng dạy ở cơ sở dạy nghề ở vùng sâu, vùng xa nhất là ở các Trung tâm dạy nghề cấp huyện. Một số địa phương hiện nay đã có những chính sách riêng ưu đãi và hỗ trợ giáo viên nói chung và giáo viên dạy nghề nói riêng nhưng việc thực hiện chưa triệt để, nhiều giáo viên không yên tâm trong giảng dạy. Để nâng cao hơn nữa năng lực đội ngũ giáo viên dạy nghề trong thời gian tới Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo và hướng dẫn các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có uy tín, thương hiệu mở các khoa sư phạm nghề nhằm đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên dạy nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề ngày càng tăng của các địa phương.

- Về chương trình giảng dạy đã và đang được bổ sung. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành 48 bộ chương trình khung đào tạo nghề và dự kiến đến hết quý I năm 2009 sẽ ban hành thêm 60 bộ chương trình khung nâng tổng số lên 108 bộ chương trình khung. Ngoài ra, một số dự án dạy nghề đã xây dựng và cung cấp 41 chương trình dạy nghề sơ cấp nghề và thường xuyên cho các trung tâm dạy nghề trong cả nước. Trên cơ sở các chương trình khung, các cơ sở dạy nghề sẽ lựa chọn và biên soạn chương trình dạy nghề phù hợp với năng lực của cơ sở mình.

Về thiết bị dạy nghề, do nguồn kinh phí tự có của nhiều cơ sở dạy nghề và kinh phí của các địa phương còn hạn chế dẫn đến máy thiết bị phục vụ dạy nghề chậm được đầu tư, đổi mới. Thông qua Dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề” Nhà nước đã đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy nghề nhằm tăng cường năng lực đào tạo nghề cho 49 trường trọng điểm, 49 trường khó khăn và 213 trung tâm dạy nghề cấp huyện.

- Hiện nay nhiều người còn có nhận thức chưa đúng về học nghề, tâm lý đại bộ phận người dân vẫn mong muốn con cái của mình học ở các trường đại học và cao đẳng hơn là ở các trường dạy nghề. Để thay đổi vấn đề này bên cạnh việc hoàn thiện mạng lưới cơ sở dạy nghề và các trường dạy nghề thì công tác tuyên truyền sâu rộng đến các thôn, bản để giúp người dân thay đổi quan niệm về học nghề và dạy nghề.

Nhìn chung, các địa phương đã và đang triển khai thực hiện tốt chính sách này. Bên cạnh đó cũng còn một số địa phương còn lúng túng nên còn có những hạn chế như kiến nghị của đại biểu quốc hội. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra, giám sát công tác dạy nghề nói chung và dạy nghề cho nông dân ở các địa phương. Đồng thời sẽ chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội khắc phục và điều chỉnh việc lựa chọn nghề đào tạo cho nông dân phù hợp với thực tế và nhu cầu của địa phương trong kế hoạch năm 2009 và các năm tiếp theo.

Để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn trong thời gian tới sẽ tập trung phát triển các trung tâm dạy nghề cấp huyện và cụm huyện theo hướng tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề và đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên dạy nghề, đồng thời chỉ đạo các trường Trung cấp nghề trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với các Trung tâm dạy nghề cấp huyện trong việc nâng cao năng lực dạy nghề của các Trung tâm này. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo Tổng cục Dạy nghề phối hợp và hướng dẫn các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện nghiêm túc và hiệu quả công tác dạy nghề cho lao động nông thôn. Ngoài ra, trong giai đoạn 2009 - 2010 sẽ tiếp tục phân bổ kinh phí hỗ trợ các địa phương thực hiện công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện tại các địa phương cũng như sẽ tiến hành tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá việc thực hiện hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 81 và Thông tư số 06.

25/ Cử tri tỉnh Đăk Lắk, Lâm Đồng, Cao Bằng kiến nghị: Do yếu tố trượt giá, mặt khác cần tăng thêm thời gian đào tạo mới đáp ứng yêu cầu học nghề, vì vậy chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn hiện nay theo quy định mức tối đa là 300.000 đồng/người/tháng và không quá 1,5 triệu đồng/người/khóa học là rất khó khăn. Đề nghị xem xét nâng mức hỗ trợ lên 450.000 đồng/người/tháng và không quá 2,7 triệu đồng/người/khóa học.

Trả lời:

Ngày 19/01/2006 Liên Bộ: Tài chính và Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ trong đó quy định “Mức hỗ trợ dạy nghề tính theo số lượng học viên thực tế tốt nghiệp khóa học, nhưng tối đa không quá 300.000 đồng/người/tháng và không quá 1.500.000 đồng/người/khóa học nghề. Mức hỗ trợ cụ thể cho từng khóa học do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định phù hợp với điều kiện của địa phương”.

Đến nay do yếu tố giá cả của nhiều hàng hóa, dịch vụ tăng đã ảnh hưởng đến chi phí cho việc mua sắm nguyên vật liệu, thuê thiết bị, ... phục vụ dạy nghề cho lao động nông thôn trở nên cao hơn, khó đảm bảo hiệu quả khi thực hiện theo quy định của Thông tư số 06. Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi và bổ sung một số nội dung (hỗ trợ tiền ăn cho người học, công tác quyết toán đối với việc tổ chức các lớp dạy nghề,...) của Thông tư số 06 theo hướng phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn kinh phí thực hiện. Dự kiến sẽ hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06 trong quý III năm 2008.

26/ Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Hiện nay, sản xuất nông nghiệp có tính rủi ro cao, do thiên tai, dịch bệnh… giá vật tư nông nghiệp tăng cao, đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, trong khi họ vốn là nông dân từ nhiều thế hệ, ít tham gia buôn bán, nên việc tổ chức sản xuất, xây dựng cuộc sống gặp không ít khó khăn. Mặt khác, do thiếu việc làm nên sự phân công lao động xã hội một cách tự phát ngày càng diễn ra gay gắt, nông dân di cư ra thành phố kiếm việc làm ngày càng đông, giá nhân công rẻ mạt, lao động không có bảo hộ, không được bảo vệ quyền lợi… đây là vấn đề nổi cộm, bức xúc trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ có giải pháp toàn diện hơn về vấn đề này.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương