An Mai Đỗ O. Cist



tải về 0.63 Mb.
trang10/21
Chuyển đổi dữ liệu26.12.2017
Kích0.63 Mb.
#35092
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21

5.2.Những giai đoạn đời tu


Để thấy được tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn như là môi trường, nơi các ứng sinh sẽ sống, sinh hoạt…đến khi trở thành một thành viên thực thụ của một dòng tu nào đó, chúng ta cần xét qua từng giai đoạn với những yêu sách của nó.

5.2.1.Bước đầu đời tu


Thông thường, các dòng đều nhận ứng sinh vào khoảng độ tuổi từ 18 đến 25. Xét về thể lý, đây là giai đoạn trưởng thành của các cơ cấu chức năng trong toàn bộ cơ thể. Tuy nhiên, xét về mặt tâm lý, nghĩa là cảm xúc, ý thức…luôn chịu sự biến động. Khi mới được nhận vào một cộng đoàn tu, ứng sinh như “một trẻ sơ sinh” vừa ra khỏi “bào thai” của gia đình, và được đặt trong một môi trường mới. Như thế, nếu nhân cách được hình thành từ những năm đầu đời thì giai đoạn đầu của đời tu sẽ mang một tầm quan trọng không thể thiếu trong việc hình thành nhân cách một tu sĩ. Những dấu ấn trong giai đoạn này sẽ ăn sâu trong ký ức của họ.

Họ trở nên lạ lẫm với mọi sinh hoạt dòng tu và những tương giao với những người chưa hề quen biết. Với những ứng sinh linh hoạt, đây có thể là môi trường thuận lợi giúp họ thiết lập những tương quan mới. Còn những người thụ động, đó là một cản trở lớn khiến họ sống kép kín hơn. Nhưng đây chỉ là cảm giác ban đầu. Vì nếu ứng sinh thiết tha với ơn gọi, Người sẽ ban cho họ đủ ơn hầu sống triển nở trong mức độ hợp tác với những tác động của Chúa.

Trong giai đoạn này, các nhà đào tạo cần lưu ý hai việc phải giải quyết cách triệt để nếu không, đời tu của ứng sinh khó triển nở và tích cực. Đó là xét lại động lực ơn gọi làm hòa với quá khứ. Thật vậy, mỗi ứng sinh đều được Chúa gọi trong một khoảnh khắc khác nhau và những điều kiện thực tế của mỗi người, thế nên, cũng bao hàm một động lực khác nhau trong việc đáp trả. Theo tác giả Philomena Agudo trong cuốn Ta đã chọn con, chúng ta có thể chia làm 3 động cơ khác nhau (26):

Động cơ vô thức

Động cơ ý thức

Động cơ siêu nhiên.

Việc xét đến những động cơ này không có nghĩa là các vị đào tạo sẽ dùng đấy để đánh giá tình trạng tâm hồn mỗi ứng sinh. Nhưng là giúp chuyển hướng cho ứng sinh trong hành trình đời tu sau này.

+Động cơ vô thức:

Như chúng ta đã biết, ơn gọi đời sống thánh hiến là ơn gọi siêu nhiên, nghĩa là khởi từ tác động của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Người có thể dùng các biến cố nhân loại, ước muốn vô thức, hoàn cảnh gia đình, môi trường sống cũng như các kinh nghiệm cảm xúc, trí thức và thiêng liêng như phương tiện tác động đến ứng sinh.

Khi coi đây là động cơ vô thức, nghĩa là giả thiết chủ thể không ý thức đủ về việc chọn lựa của mình. Chẳng hạn, do sợ trách nhiệm của đời sống hôn nhân khi mục kích từ những gia đình rối mà đương sự quyết định đi tu. Điều này phải được ứng sinh đối diện trong giai đoạn đầu của việc đào tạo; từ đó, tự thanh luyện và chuyển hướng hầu giúp đương sự sống đời tu ý nghĩa hơn.

Cũng cần xét đến kinh nghiệm ấu thơ của đương sự và phẩm chất mối tương quan liên vị trong gia đình họ. Có thể do hoàn cảnh gia đình bất hạnh, họ đã từng bị đánh đập…và muốn tìm đến tu viện như chốn an toàn để náu thân. Nếu cảm xúc này không được họ đón nhận và hóa giải thì khi không còn cảm nhận sự an toàn trong đời sống cộng đoàn, họ sẽ dễ dàng bỏ ơn gọi hoặc bám vào thế giá những người có quyền hành trong cộng đoàn.(27) Đây là một nét lệch lạc của nhân cách. Ngoài ra, những kinh nghiệm bất hạnh thời thơ ấu thường làm cho ứng sinh có thái độ tự vệ và tiêu cực.

Thiết tưởng, chúng ta cần bàn thêm về tiến trình hình thành của vô thức để giúp mỗi người nhận ra những tinh tế trong lòng người mà do thói quen nào đó khiến chủ thể đánh mất sự nhạy bén khi đánh giá thực tại này.

Theo Amadeo Cencini (28) có 4 giai đoạn:

-Sự tìm kiếm một thỏa mãn nhỏ

-Sự mập mờ

-Thói quen

-Tự động

(1) Một điều dễ nhận ra nơi những ứng sinh mới vào nhà dòng, họ rất “sốt sắng” như những vị thánh sống vậy ! Đó là dấu hiệu của giai đoạn uống sữa, nghĩa là mọi sự xem ra rất dễ dàng và đơn giản. Trong khi đó, họ vẫn mang nhiều “chất đời”, thực tế này có thể bị họ lãng quên. Trong mức độ nào đó, họ dồn nén và không dám đối diện với những khó khăn.

Theo nhà tâm lý học Maslow, mỗi người luôn có nhu cầu được nhìn nhận và quan tâm, yêu và được yêu. Điều này xem ra khó cảm nhận, do họ mới thay đổi một môi trường mới. Mặc dù, được sự nâng đỡ của mọi người trong cộng đoàn họ đang sống, nhưng không phải lúc nào cũng cảm thấy thoải mái như ở nhà. Từ đó, khiến họ đi tìm những không gian riêng với một ai đó mà mình cảm nhận dễ gần gũi hơn. Đây là bước đầu được A. Cencini gọi là sự tìm kiếm một thỏa mãn nhỏ. Thoạt tiên, tương giao ấy hoàn toàn siêu nhiên vì chúng nhân danh tình huynh đệ. Nhưng dần dà, nó trở nên một sự “gắn kết” không thể tách rời, họ bên nhau như bóng với hình. Đó là dấu chỉ của tình yêu chiếm hữu. Cũng từ đây, họ tìm những không gian riêng vượt khỏi sinh hoạt cộng đoàn. Sự mập mờ cũng phát sinh từ đây.

(2) Chúng ta dễ nhận ra sự mập mờ trong nếp sinh hoạt và cách cư xử của họ. Với thói quen không trực diện vấn đề của mình, họ có thể dùng nhiều cách lý luận để biện hộ cho cách hành xử của mình. Chẳng hạn, họ cho rằng việc nâng đỡ trong bước đầu của đời tu là một việc hệ trọng, hoặc nhu cầu bộc bạch những quan tâm, yêu thương là nhu cầu chính đáng… Những suy nghĩ đại loại như thế càng làm cho họ mất cảnh giác và sẽ dễ dàng dung túng cho chính mình. Chính những lúc ngụy biện như thế và một khi sự kiện ấy được người khác nhắc nhở và cảnh báo, họ sẽ cố gắng tìm sự thỏa mãn này trong sự mập mờ của lương tâm; rằng việc này chẳng có gì xấu xa và một khi không được chấp nhận công khai, họ sẽ sống trong tính trạng núp né và nơm nớp, sợ người khác phát hiện. Bởi đó, tình hình càng thêm nặng nề do bị họ dồn nén từ bên trong.

(3) Theo Đức Đà Lai Lạt Ma, suy tư thường xuyên dẫn đến hành động, hành động liên lỉ dẫn đến thói quen. Chính khi nó trở thành thói quen, thì chủ thể mất dần ý thức. Cụ thể trong trường hợp trên, họ mất dần sự tự do chọn lựa để gặp gỡ nhau mà nó biến thành một sự ràng buộc không có không được. Quả thật, nơi đâu có thói quen thì mất dần tự do hành động. Điều này kéo theo sự mất kiểm soát những gì đang xảy ra, ngay cả những gì xảy ra sâu kín trong tâm hồn.

(4) Dần dà, mọi sự diễn ra như tự động, nghĩa là theo quán tính tự nhiên. Nếu tập quán tốt tự động sẽ giúp hình thành nhân đức thì sự dồn nén thường xuyên tự động sẽ tạo nên một nếp hằn sâu trong ký ức đến một lúc nào đó, nó không còn được chủ thể tự chủ được nữa. Và một khi tự do và ý thức nhường chỗ cho tính tự động, sẽ dẫn đến sự sa đà như một chiếc xe trượt dốc không người lái.

Nhìn chung, bốn giai đoạn trên bao gồm một chuỗi tâm lý mà chỉ những ai dám thực sự đối diện mới tránh được thái độ dồn nén. Chính khi vạch mặt chỉ tên thực tại này, mỗi người sẽ được chữa lành, nghĩa là theo Freud, vô thức được trồi lên khỏi ý thức.

+Động cơ ý thức:

Điều này giả thiết ứng sinh có một đời sống trưởng thành nhất định về trí thức và cảm xúc. Họ tỏ ra là người chín chắn trong khi quyết định với ý thức ơn gọi là một việc hệ trọng liên quan đến định mệnh đời đời. Dù vậy, họ chỉ mới dừng lại yếu tố bề mặt, nghĩa là nhận thấy những thành quả của cá nhân tu sĩ nào đó đã phục vụ. Họ có thể chịu tác động của những nghĩa cử và cung cách phục vụ quên mình của vài dì phước. Có giai thoại kể rằng: một bé gái đến xin vào dòng của chân phước Têrêsa Calcutta.

Mẹ hỏi: “Con đến đây làm gì ?”

-Con muốn phục vụ người nghèo như mẹ

Dòng này không phục vụ người nghèo mà chỉ dấn thân phục vụ Chúa trong người nghèo.

Như thế, mẹ đã chuyển ý hướng của thỉnh sinh từ động cơ ý thức đến động cơ siêu nhiên. Thật vậy, mục đích của đời tu là tìm kiếm Thiên Chúa; còn phục vụ người nghèo…chỉ là đối tượng phục vụ giúp mình đạt đến mục đích trên.

Xét cho cùng, động cơ này vẫn còn qui về bản thân.

+Động cơ siêu nhiên:

Chúng ta dễ nhận ra động lực siêu nhiên nơi ứng sinh qua cung cách khiêm tốn khát khao tìm ý Chúa trong mọi sự. Qua đó, chúng ta có thể phân định phần nào về đời sống nội tâm của đương sự ngang qua việc cầu nguyện và tìm ra ý Chúa. Thật vậy, chỉ những ai có một tương giao thực sự với Chúa mới có thể khao khát tìm thi hành ý Người.

Với những ứng sinh được thúc đẩy bằng động lực siêu nhiên, họ tiến mau trên đường hoàn thiện và cộng đoàn là môi trường rất thuận lợi giúp họ dễ dàng vượt qua mọi khó khăn hầu tìm được vị thế của mình trong cung cách phục vụ.

Tóm lại, cả ba động cơ này đều chỉ là cách Chúa dùng hầu giúp đương sự nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Và một khi đã vào dòng, họ bắt đầu một cuộc sống mới trong một môi trường mới với những con người mới. Cần tránh thái độ mặc cảm vì mình đã sống thiếu chân thành trên đường tìm Chúa; trái lại, cần sống tâm tình thống hối vì những bất xứng trong quá khứ và quyết tâm sống dấn thân trọn vẹn trong phút hiện tại và phó thác hoàn toàn tương lai trong tay Chúa, Đấng hướng dẫn đời ta.

Nếu những động cơ thúc đẩy các ứng sinh tìm đến một dòng tu nào đó là bước đầu trong cuộc hành trình tìm Chúa thì việc làm hòa với quá khứ lại là một tiêu chuẩn đánh giá phẩm tính và thiện chí của các ứng sinh. Thật vậy, lúc trước, sống trong một gia đình luôn còn đó những khó khăn, điều này giả thiết họ mang trong mình những tổn thương của tuổi thơ không sao tránh khỏi. Vì thế, trong giai đoạn này, họ cần thanh luyện và làm hòa với chúng. Chúng ta có thể nhận ra những tổn thương đó qua thái độ hoặc phản ứng tiêu cực của mình. Một nữ tu thường có thái độ chống đối bề trên vì có thể chưa giải tỏa những oán hận, giận dữ… đối với mẹ mình. Hoặc một nam tu thường hay càm ràm, oán trách vì có thể khi xưa họ sống với người cha người mẹ cầu toàn, không bao giờ biết tán thưởng con cái…Những cảm xúc tiêu cực còn tồn đọng nếu không được họ nhìn nhận và làm hòa, sẽ quay trở lại trong giai đoạn sau và như thế, nó có thể mặc một hình thức mới tinh vi hơn; càng dồn nén và tránh né, người ta càng tạo thêm sức ảnh hưởng của nó. Không những nó ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống tâm lý mà còn chi phối mạnh mẽ trên đời sống tâm linh; họ khó thiết lập tương giao liên vị với Thiên Chúa tình yêu, vì trong lòng vẫn còn mang thù hận.

Ngoài ra, một trong những yếu tố mà các thỉnh sinh thường gặp khó khăn trong đời sống cộng đoàn: kỷ luật. Kỷ luật thường tạo cho mọi người cảm giác gò bó và nặng nề. Nhưng thật ra, nó là những hướng dẫn cụ thể giúp các tu sĩ tìm ra ý Chúa. Nếu không có một thái độ đúng đắn khi tiếp xúc với kỷ luật, chữ viết sẽ giết chết; chỉ có tinh thần mới làm cho sống. Thật vậy, khi chấp vào chữ viết, con người có thể nhân danh lề luật mà đè ép một người anh em. Còn nếu sống tinh thần của lề luật, họ dễ dàng thông cảm với những giới hạn của người khác vì chính họ nhận ra những giới hạn của bản thân. Thông thường, luật giúp con người tiến đúng và tiến nhanh trên đường hoàn thiện; tuy nhiên, chỉ có luật của con tim mới có thể giúp chữa lành những tâm hồn đau yếu và lầm lạc. Bởi đó, kỷ luật được hiểu đúng nghĩa nhất là phương tiện phục vụ phần rỗi mọi người.(29)

Kỷ luật thường được đề cao trong đời sống tập thể. Điều này không tránh những lạm dụng, vì có người nhân danh lề luật để đồng nhất hóa tập thể. Nói cách khác, họ gián tiếp phủ nhận những khác biệt độc đáo của mỗi cá nhân. Mà chính yếu tố này mới giúp nhân cách được định hình để phân biệt với các nhân vị khác.

Tưởng cũng cần nhắc đến kỷ luật trong đời sống cá nhân, nó giúp cá nhân rèn luyện ý chí và ý thức trong đời sống tập thể. Một người sống kỷ luật giúp kiến tạo một cộng đoàn kỷ luật. Trong đó, mỗi thành viên chuyên chăm chu toàn phần vụ của mình sẽ giúp cộng đoàn tiến mạnh trong sự an hòa. Tất nhiên, tránh thái độ nệ luật thái quá mà bỏ qua tình huynh đệ; lề luật có thể là rào chắn giúp người ta tránh những dịp tội nhưng cũng có thể là rào cản họ đến với anh em. Người ta có thể nhân danh luật ô uế để tránh cứu sống một người anh em gặp đau thương.

Những gì vừa trình bày chỉ mới nêu vài nét khái quát liên quan đến giai đoạn đầu của đời tu. Thiết tưởng, chúng ta cần ghi nhận những gợi ý của Cha A. Cencini, chuyên gia tâm lý học và đạo tạo người Ý. Ngài chia làm 3 giai đoạn: thỉnh sinh, tập sinh khấn tạm.(30)

(1) Thỉnh sinh

Thông thường, một thỉnh sinh vừa gia nhập cộng đoàn, họ ấp ủ một ước mơ hoàn thiện nào đó, cả những tham vọng thiêng liêng; rồi khi được ơn Chúa nâng đỡ, họ ảo tưởng mình đã thánh thiện và tốt lành đáng được Chúa yêu thương…Trong giai đoạn này, họ cần phải tiễu trừ những suy nghĩ ấy. Nói như Cha A. Cencini, họ phải đối mặt với cái chết. Đó là cách biết mình một cách sâu xa từ những động lực bên trong; đó là cái chết của con người cũ. Chỉ khi chấp nhận khám phá ra những quái gở và tổn thương của mình, đương sự mới thực sự sẵn sàng tiếp nhận những mặc khải mới trong một môi trường mới là cộng đoàn dòng tu. Một điều duy nhất thúc đẩy khiến họ dễ dàng chấp nhận tiến trình lột xác này là niềm khát khao tìm Chúa và phụng sự Người trong một cộng đoàn; nếu không, đó chỉ là một sự thay đổi ngoại diện mang tính tức thời. Như thế, họ có nguy cơ vẫn còn mang những thói đời ấy bên mình và ảnh hưởng đến toàn bộ hành trình tiếp theo.

Sau khi phân tích sơ bộ về động lực vô thức, chúng ta nhận ra những giới hạn của một ứng sinh hoàn toàn tự do để thực sự đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là một điều bất khả. Bởi đó, chỉ khi ứng sinh khiêm tốn nhìn nhận những ấu trĩ, yếu đuối, lầm lỡ…của mình mà sẽ được Chúa ban ơn giúp sức để có thể tiến bước trong hy vọng.

(2) Tập sinh

Khi mặc áo tập sinh, đồng nghĩa với việc đương sự chết đi với con người cũ và mặc lấy con người mới. Từ đây, tập sinh tập sống theo khuôn mẫu của Chúa Kitô, nói theo thánh Phaolô, họ mặc lấy tâm tình của chính Đức Kitô hay nên đồng hình đồng dạng với Người (tất nhiên, chúng ta không loại trừ những yếu đuối của thân phận con người). Nếu như trong giai đoạn thỉnh sinh, đời sống thiêng liêng được xây trên nền của cái tôi vị kỷ thì bước sang giai đoạn này, cái tôi ấy đã mặc lấy chính Đức Kitô – là căn tính đích thực của hiện hữu mình. Như thế, việc chuyển hướng vị trí trung tâm có thể là một cuộc khủng hoảng tinh thần, nhưng đây lại là dịp thuận lợi giúp đương sự bám vào Chúa hơn. Sự tùy thuộc vào Chúa như thế, lại là cách tập sinh sống thật sự tự do. Thật vậy, tự do đích thực là tự do trong Chúa, Đấng đã ban cho con người hồng ân cao cả này để có thể tự do yêu mến và đáp trả tiếng mời gọi đến từ Người.

Với bản tính yếu đuối và mỏng giòn, mỗi tu sĩ cần thường xuyên sống lại “tình yêu thưở ban đầu”. Đó là lý do mà các nhà đạo đức thường khuyên một tu sĩ: luôn luôn ý thức mình là một tập sinh trong trường phụng sự Chúa.

(3) Khấn tạm

Căn nhà đã được tái cấu trúc nhưng còn trống trải, nó cần phải được trang trí bằng những việc lành với những nhân đức trổi vượt dựa trên ba lời khấn. Họ chấp nhận sống nghèo như Đức Kitô nghèo; họ khiết tịnh như Đức Kitô hằng qui hướng về Chúa Cha; họ vâng phục như chính Đức Kitô lấy ý Cha làm lương thực cho đời sống mình. Đó là cách biểu hiện đẹp nhất về sự tự do trong Chúa.

Nhìn chung, đây chỉ là giai đoạn đầu trong tiến trình đào tạo để chuẩn bị tư thế sẵn sàng cho giai đoạn khấn trọn trong việc tự đào tạo thường huấn.


5.2.2.Khấn sinh


Sau khi trải qua giai đoạn đầu thử luyện và đào tạo, các ứng sinh đã hiểu biết về những đòi hỏi trong linh đạo và thói tục của đời sống cộng đoàn họ đang sống. Họ đi thêm bước nữa là quyết định dấn thân trọn vẹn với tư cách là một tu sĩ thực thụ của một cộng đoàn. Từ đây, họ có thể tiếp tục giai đoạn đào tạo nhưng phần lớn đòi buộc ý thức bản thân. Nói cách khác, họ tự đào tạo trong đời sống kỷ luật bản thân.

Giai đoạn này thường kéo dài đến hết tuổi trung niên. Có thể nói, đây là thời điểm các tu sĩ thể hiện bản thân mạnh nhất. Họ là những người nắm vai trò điều khiển trong cộng đoàn vì thời gian đã đem lại cho họ sự hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm được mua bằng máu. Theo khuynh hướng tự nhiên của lứa tuổi, các tu sĩ trong tuổi trung niên thường bị cám dỗ về quyền lực. Điều này nếu không được đương sự ý thức quyền lực để phục vụ cộng đoàn, sẽ dẫn đến thái độ trực thượng, mất quân bình trong các tương giao; khi đó, người ta dùng “quyền” mà “hành” nhau. Hệ lụy kéo theo là thái độ bất mãn, bất hợp tác, như thế, làm ảnh hưởng bước tiến của cộng đoàn.

Vào giai đoạn này, thể lý xuống cấp, họ phải đối diện với những bệnh tật, điều này nếu được tu sĩ chuẩn bị tâm lý kỹ lưỡng, nghĩa là kiên nhẫn chịu đựng và tận dụng nó làm giàu khó tàng thiêng liêng. Có thế, đời sống cầu nguyện của họ cũng được tiến triển về số lượng và chất lượng. Có thể nói, cầu nguyện trong đau khổ là lời cầu nguyện tinh ròng nhất. Hoa quả của đời sống chiêm niệm này là sống bao dung với mọi tương quan. Họ dễ dàng cởi mở và chia sẻ những kinh nghiệm tâm linh hầu giúp thêm nhiều người cảm nghiệm tình yêu Chúa.

5.2.3.Tuổi già


Thật bất hạnh cho tu sĩ nào, trước đây, không thiết lập một tương quan liên vị mật thiết với Thiên Chúa, họ sẽ cảm thấy mình vô ích đối với mọi người trong tuổi già thay vì ý thức mình là kho tàng tâm linh của cộng đoàn. Tuổi già đi đôi với sự khôn ngoan và kinh nghiệm, họ sống nhiều hơn nói, chiêm nghiệm nhiều hơn là lý sự. Sống đến tuổi này, họ là hồng ân Chúa ban cho cộng đoàn. Vì một cộng đoàn không còn vị cao niên và những gương lành khích lệ tu sĩ trẻ sẽ là một thiệt hại rất lớn về mọi phương diện cho cộng đoàn.

Niềm hạnh phúc của các tu sĩ cao niên được thể hiện qua thái độ chấp nhận mọi sự khốn khó và cả cái chết gần kề. Chính thái độ ấy nói lên một đời sống yên hàn và phó thác trong tay Chúa.

Trong Tông huấn Vita Consecrata số 44, các nghị phụ cũng dành một sự trân trọng với những tu sĩ già, rằng: “Họ đáng được trân trọng và ân cần săn sóc không phải chỉ vì do một bổn phận công bằng bác ái và do lòng tri ân, nhưng những cử chỉ đó muốn diễn tả niềm xác tín là chứng tá của những vị cao niên rất có ích cho Giáo Hội và tu hội, và sứ mạng của họ vẫn còn đáng giá và đầy công đức, cho dù vì tuổi tác và bệnh tật, họ đã phải rời bỏ việc làm. Chắc chắn các vị đó có nhiều kho tàng khôn ngoan và kinh nghiệm để cống hiến cho cộng đoàn, nếu cộng đoàn biết gần gũi, ân cần săn sóc họ và lắng nghe họ”.

Ba giai đoạn đời tu vừa trình bày sẽ được bổ túc bằng các tiêu chuẩn của ba lời khấn. Những thách đố được nêu trên lại càng giúp mỗi người ý thức về vai trò của ơn Chúa trong đời sống thánh hiến. Những tiêu chuẩn đề ra phải giúp mỗi tu sĩ sống và tạo lập thế quân bình trong đời sống. Đó là điều kiện giúp hình thành nhân cách đời tu.




tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương