1. Nguồn gốc của Marketing quốc tế : Cơ hội và thách thức Minh hoạ về Marketing : Sự phát sinh việc đa quốc tịch hoá các tập đoàn



tải về 4.84 Mb.
trang33/34
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích4.84 Mb.
#38478
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   34

Chức năng tài chính

Mục đích tài chính căn bản của IMF đã được nói ở mục 1, phần v và vi, như việc tạo niềm tin thông qua cung cấp các nguồn lực chung có sẵn tạm thời của IMF cho các thành viên khi có giấy thông hành tương ứng, từ đó tạo cơ hội cho họ khác phục những lỗi lầm trong cán cân thanh toán mà không cần các biện pháp ảnh hưởng đến nguồn lực của quốc gia và quốc tế, đồng thời rút ngắn thời gian và giảm bớt chênh lệch trong cán cân thanh toán quốc tế giữa các thành viên.

Mặc dù sự đóng góp tạo ra nguồn chính của IMF, nhưng những nguồn này cần phải bổ sung thêm thông qua việc vay mượn từ các nguồn chính thức khác. Về cơ bản, 75% thành viên đóng góp bằng chính đồng tiền của họ căn cứ vào cán cân thanh toán thông qua vàng. Theo Văn bản sửa đổi thứ hai, vàng lại không được sủ dụng trong thanh toán có tính bắt buộc hoặc do IMF và được thay thế bằng những đồng SDR hoặc các đồng tiền của các nước thành viên.

Các nguồn lực tài chính của IMF được tạo dựng chính bởi hàng loạt các chính sách và điều kiện thuận lợi trong đó thể hiện sự khác nhau giữa kiểu nhu cầu về cán cân thanh toán và mức độ của điều kiện có thể. Cơ hội tiếp cận với các nguồn lực mở rộng đối với các thành viên, số lượng cơ hội này tương ứng với hạn ngạch của họ, và các quy tắc chi phối sự tiếp cận áp dung công bằng cho tất cả các thành viên. Dựa trên những hướng dẫn tương ứng với yếu tố quyết định vị thế đối ngoại của một quốc gia, Quỹ sẽ định ra nhu cầu cán cân thanh toán (tầm quan trọng của việc chi tiêu) và sự tương xứng của các biện pháp nhằm khắc phục sự chênh lệch về cán cân thanh toán cơ bản (chương trình chỉnh lí). “ Nhu cầu” là một chức năng của vị thế về cán cân thanh toán của moi thành viên. Cho dù cả ba yếu tố trên đã được xem xét riêng rẽ và tự mỗi yếu tố đều có thể thể hiện nhu cầu của nứơc đó, sự xem xét mang tính phán quyết của IMF về sự kết hợp cả 3 yếu tố sẽ chứng minh nhu cầu đó.

Cơ chế tài chính của IMF, vốn được tạo lập nhằm hỗ trợ các thành viên tuân theo quy tắc về quản li, chỉ là một khoản nhằm bù đắp cho các thâm hụt tài chính tạm thời chứ không phải cho các khoản nợ dài hạn. Từ khi ngừôn tài chính không được dùng vào việc bù đắp các khoản thâm hụt dai dẳng, các khoản thâm hụt này phải tự bù đắp hoặc khắc phục bằng cách ban hành các chính sách. Ví dụ, Brazil đã cam kết giảm tỉ lệ lạm phát hàng năm từ trên 200% xuống 170%. Cũng tương tự, IMF đã đòi Mehico phải nới lỏng những rào cản về đầu tư nước ngoài đồng thời tuân thủ cam kết về các chính sách kinh tế vĩ mô, bao gồm các mục tiêu lam phát và khoản thâm hụt thương mại trước khi được cho vay thêm tiền. Với việc tăng các khoản cho vay, IMF sẽ hạn chế được các buôn bán nội địa và tiền tệ của con nợ. Trong năm 1976, giá trị của đồng bảng Anh đã thụt xuống tới mức kỉ lục. Thiếu dự trữ để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng đồng bảng Anh, chính phủ Anh buộc phải vay mươn đến tận đồng xu. Đổi lại, IMF đòi hỏi sự thắt chặt trong sự lan toả đồng tiền của Anh. Khoản tiền duy nhất mà chính phủ Anh có đựơc là do cuộc náo loạn do không có hỗ trợ của IMF, và điều đó đã gây ra tình trạng bất ổn định của Châu Âu.
Các trung tâm tài chính.

Các công ty đa quốc gia...... Có 4 loại trung tâm tài chính chủ yếu: Primary, Booking, Funding và C Collection. Trung tâm Primary (ví dụ: London, NewYork) là 1 trung tâm tài chính quốc tế đặt tại 1 nước công nghiệp phát triển cao. Với những hệ thống tài chính phát triển cao, những trung tâm này phục vụ tất cả khách hàng trên thế giới bằng cách đưa ra tất cả các loại dịch vụ tài chính.

Trung tâm Primary.....

Các ngân hàng quốc tế có thể lợi dụng hệ thống điều chỉnh thuế của 1 quốc gia có lợi cho họ bằng cách mở một “Shell Branch” mà nơi đó chẳng có gì ngoài 1 phòng nhỏ hoặc 1 trạm bưu điện. Mục đích là để phục vụ các nhu cầu tài chính nước ngoài thông qua các khoản gửi bằng tiền Châu Âu hoặc các khoản vay quốc tế.

Trung tâm Funding (ví dụ như Singapore) tập hợp các quỹ ngoài nước để trong nước sử dụng. Vì vậy trung tâm Funding có thể mang đặc điểm bên trong là sự môi giới các quỹ nước ngoài. Ngược lại, sự môi giới tài chính lại là đặc điểm bên ngoài của trung tâm Collection (ví dụ như Bahrain). Kiểu trung tâm này có khả năng thu hút

Dẫn đến kết quả tích luỹ quá nhiều trong Trung tâm Collection để các ngân hàng thế giới đầu tư.

Thị trường Châu Âu

Một nơi mà các chính phủ và giới doanh nghiệp có thể đến vay tiền với 1 tỷ lệ lãi suất cạnh tranh, đó là thị trường Châu Âu. Thị trường các khoản gửi bằng đồng ngoại tệ quốc tế này tại Châu Âu không xác định đường ranh giới tự nhiên mặc dù London là trung tâm, là trụ sở chính. Trên thực tế, thị trường Châu Âu chỉ đơn giản là 1 máy điện thoại và 1 mạng Telex hoạt động bởi vài chục ngân hàng quốc tế khổng lồ. Ví dụ Citicorp hoạt động thông qua các chi nhánh nước ngoài của nó tại hàng chục quốc gia nhằm cung cấp các dịch vụ ngân hàng trên toàn thế giới cho các công ty đa quốc gia với bất kỳ loại tiền tệ nào.

Không giống như các ngân hàng Mỹ chỉ chấp nhận các khoản gửi bằng đồng USD, các ngân hàng Châu Âu tương đối tự do và thường chấp nhận tất cả các loại tiện tệ mà không cần phải chuyển đổi sang bất kỳ 1 loại tiền địa phương nào khác. Khi khách hàng cần tiền và phải rút tiền thì không cần thiết phải chuyển đổi và khách hàng sẽ được rút ra loại tiền giống như họ đã gửi trước đó.

Được trao đổi trên thị trường Châu Âu là đồng Euro, đồng tiền mà các ngân hàng lớn trên thế giới …

Những đồng tiền Châu Âu là những đông tiền được trao đổi bên ngoài các nước phát hành ra chúng. Đồng Frang Bỉ trở thành đồng tiền Châu Âu khi nó được trao đổi ở bất kỳ đâu ngoài nước Bỉ. Mặc dù có tiền tố Euro nhưng đồng tiền Châu Âu không nhất thiết giới hạn trong các loại tiền Châu Âu và Mỹ. Tuyên bố …

Đồng dola Châu Âu, 1 trong nhiều đồng tiền Châu Âu, chỉ đơn giản là đồng Đôla Mỹ được gửi trong các ngân hàng ở ngoài nước Mỹ (ví dụ như ở Châu Âu, Canada hoặc Nhật Bản). Khi các ngân hàng HongKong hoặc Singapore chấp nhận các khoản gửi hoăc khoản vay bằng đồng USD thì lập tức đồng USD trở thành đồng Đôla Châu á. Đồng Đôla Châu Âu một lần đã làm chủ hơn 90% thị trường Châu Âu, nhưng hiện nay nó bị trượt giá xuông dưới 80% với đồng Mark Đức đứng thứ 2, chiếm khoảng 10% thị trường Châu Âu.

Với tư cách là 1 thị trường độc lập, thị trường Châu Âu có cơ cấu tỷ lệ lãi suất riêng và bất kỳ ai cũng có thể đầu tư và buôn bán. Từ khi không còn yêu cầu về dự trữ, thị trường Châu Âu có thể đưa ra tỷ lệ lãi suất gửi tiền cao hơn và cũng cho vay với tỷ lệ lãi suất thấp hơn. Thông cáo 17-8 chỉ ra rằng làm thể nào để các công ty tăng lượng vôn trên thị trường Châu Âu bằng cách phát hành trái phiếu.

Sự tăng trưởng của thị trường Châu Âu có thể được miêu tả như 1 quả bom. Giữa những năm 1964 và 1975, thị trường Châu Âu phát triển gấp 20 lần. Các khoản gửi tăng từ 17 tỷ năm 1965 đến 600 tỷ năm 1979. Theo ngân hàng của tổ chức thanh toán quốc tế, tổng số nợ bằng tiền Châu Âu( kể cả các khoản tiền gửi tại ngân hàng quốc tế) khoảng 981 tỷ vào cuối những năm 1980. Morgan Warranty ước tính thị trường phải có 1.470 tỷ vào cuối những năm 1980 với 735 tỷ khoản tiền gửi thực tế tại Ngân hàng thế giới. Vào những năm 1970, thị trường tăng trưởng hàng năm là 25%.

Có 1 số nguyên nhân tai sao thị trường Châu Âu tồn tại và tại sao nó tại tăng trưởng 1 cách kỳ lạ đến như vậy. Trước tiên là các nước Cộng Sản thích gửi USD ở Tây Âu hơn là gửi tại Mỹ vì lo ngại răng chính phủ Mỹ sẽ tịch thu sung quỹ số tiền của họ. Cũng vì thế mà sau khi cuộc chiến TG thứ I kết thúc, rất nhiều nước Châu Âu đã lấy USD như là 1 mũi nhọn để chống lại lạm phát khi tỷ lệ lạm phát đạt đến mức quá cao.

Nhiều nước Châu Âu thích giữ đồng USD ở các ngân hàng Châu Âu mặc dù tỷ lệ lãi suất của các đồng tiền Châu Âu có thể cao hơn cả tỷ lệ lãi suất của đồng USD. Hơn thế nữa, thời gian giao dịch trong 1 ngày của các ngân hàng Châu Âu và Mỹ được kéo dài thêm bởi có sự tham gia hoạt động của thị trường London mà múi giờ của nó sẽ giúp cho các ngân hàng, các nhà đầu tư, những người đi vay và cho vay thuận tiện hơn trong việc liên lạc với nhau. Thậm chí các ngân hàng trung ương còn tìm ra 1 điểm thích hợp cho thị trường Châu Âu để tăng hoặc giảm mức dự trữ cũng như khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

Sự tăng trưởng ngoạn mục của thị trường Châu Âu phần lớn là nhờ vào sự giúp đỡ bởi các quy định của chính phủ. Sự hạn chế trong các hoạt động cho vay và cho mượn trong tỷ lệ dự trữ trần., quy định về dự trữ, thuế , v v làm cho người cho vay phải tìm kiếm những cơ hội ở nước ngoài, nơi mà có lợi tức cao hơn. Trong trường hợp nước Mỹ, nhân tố quan trọng nhất khiến cho các nhà đầu tư như các nước xuất khẩu dầu mỏ Arab và các công ty đa quốc gia phải tìm bất cứ nơi đâu có lãi suất cao hơn cho đồng Dola nhàn rỗi của họ đó là việc các quy định của hệ thống dự trữ liên bang đã ấn định tỷ lệ lãi suất thấp cho các khoản tiền gửi được trả đúng hạn vào năm 1957. Kết quả là các ngân hàng London đã giành được các khoản tiền gửi đó và sau đó lại cho các ngân hàng Newyork vay. Thêm vào đó, các khoản tiền gửi với thời gian truyền thống và chứng chỉ ký thác do các ngân hàng Châu Âu phát hành giờ đây đã thu hút được các khoản cho vay bằng đồng Dola với các cơ hội đầu tư khác, ví dụ như chứng từ ký thác lãi suất thả nổi và trái phiếu có lãi suất thả nổi, với việc trả lãi suất cố định theo giá trị của đồng tiền – Ngân hàng quốc tế London đưa ra tỷ lệ lãi suất LIBOR hoặc ngân hàng quốc tế Singapore đưa ra tỷ lệ lãi suất SIBOR. Cũng như vậy, các nhà quản lý tiền tệ quốc tế có thể đầu tư bằng các công cụ như trái phiếu Châu Âu bởi vì sự ổn định và an toàn cũng như tỷ lệ lãi suất của đồng Dolar cao hơn đông Mark hay France.(???)Ngoài ra, thị trường sẽ có nhiều hỗ trợ hơn từ bộ luật số 8 trong Các tiêu chuẩn về thanh toán tài chính, trong đó yêu cầu các công ty Mỹ phải chuyển đổi lợi nhuận hoặc nới lỏng các đồng tiền ngoại tệ trên các báo cáo thu nhập trong từng quý. FASB-8 khuyến khích các công ty đa quốc gia giao dịch liên tục từ đồng tiền này sang đồng tiền khác.

Cũng giống như người cho vay, những người đi vay …. Và với tiềm lực và nhu cầu lớn có lý do chính đáng để tiếp cận thị trường Châu Âu. Khi các công ty đa quốc gia muốn tiếp cận những đồng tiền mạnh một cách tự do, như đông Dolar, thì lại chưa sẵn có , … , hoặc quá trình đó cồng kềnh và tốn thời gian. ( ví dụ …. ) . Do những sự cồng kềnh kể trên mà thị trường Châu Âu có thể phải cứu nguy. Khi bộ máy cồng kềnh của chính phủ đang ra sức kiềm chế lạm phát bằng cách hạn chế tín dụng và tăng tỷ lệ lãi suất thì các công ty đa quốc gia tại Mỹ lại có thể vượt qua được rào cản đó bằng cách đi vay ở thị trường Châu Âu. Trong trường hợp điều khoản cho vay tại Mỹ không có sức hấp dẫn thì thị trường Châu Âu được sử dụng như 1 đòn bẩy, các công ty Mỹ có thể vay tiền ở Châu Âu nếu tỷ lệ lãi suất ở đó thấp hơn hoặc họ có thể sử dụng những thông tin đó để ép buộc các ngân hàng Mỹ điều chỉnh lại tỷ lệ lãi suất cho phù hợp. Một quan chức tài chính muốn ngăn chặn lại sự thay đổi tỷ lệ lãi suất ở Châu Âu có thể sử dụng hợp đồng về hàng hoá bán giao sau bằng đồng Dolar Châu Âu hoặc hợp đồng giao dịch có lựa chọn tại Trung tâm giao dịch tiền tệ Chicago. (Xem bảng 17-3)

Mặc dù nền kinh tế tăng trưởng và đem lại nhiều lợi ích như vậy nhưng thị trường Châu Âu lại là noưi thu hút sự phê bình. Sự thiếu thốn về quy định đã làm nảy sinh ra 1 số vấn đề về tính an toàn và ổn định của thị trường. Tỷ lệ lãi suất cao ….., mặc dù 1 số quỹ đã được cho các ngân hàng Mỹ và giới doanh ngiệp vay lại. Sự thiếu sót trong các quy định có thể tạo nên sự mất ổn định về tài chính bởi vì các công ty đa quốc gia đang ra sức bảo vệ lợi nhuận của họ, có thể làm cho 1 lượng vồn lớn bị rút đi rất nhanh và đồng tiền rơi vào khủng hoảng. Các ngân hàng Châu Âu và Nhật Bản đã không thể nào kiềm chế được sự trượt giá của đồng Dolar vào năm 1977, thậm chí ngay cả khi họ đã ném 1 lượng tiền 35 tỷ USD trong nỗ lực củng cố giá trị của đồng USD. Do đó, tỷ giá hối đoái có thể tăng lên hay giảm đi một cách trầm trọng mà không hề có 1 nguyên nhân rõ ràng nào cả. Cũng như đã đề cập trước đó, thị trường Châu Âu có thể làm tăng lạm phát kể từ khi họ cho phép các công ty phớt lờ các biện pháp chồng lạm phát ở nước sở tại, ví dụ như việc các công ty lừa đảo tại Mỹ cuối những năm 60s và cuối những năm 70s. Vấn đề có thể trở nên càng nghiêm trọng hơn bởi vì cùng 1 đồng USD có thể được trao đổi qua nhiều lần, theo lý thuyết thi không có giới hạn. Vì lý do đó nên chíh phủ có thể giữ “con tin” đối với các hoạt động ngoài tầm kiểm soát của họ.
Thị trường Dolar Châu á

Từ sự khởi đầu vào năm 1968, thị trường Dolar Châu á đã tăng trưởng với 1 tốc độ chóng mặt. Nhu cầu về vốn cho thị trường tài chính ở Châu á là do sự chênh lệch các múi giờ giữa Đông á, Châu Âu và Mỹ, đã làm cho các ngân hàng Châu á khó khăn trong việc hoàn tất các giao dịch trong 1 ngày. Sự tăng trưởng của thị trường chính là nhờ sự tự do thông thoáng trong các luật định tại Singapore.

Thị trường Dolar Châu á là 1 hiệp hội các ngân hàng tại Singapore và HongKong nhận các khoản tiền gửi và các khoản vay bằng đồng USD. Các khoản tiền gửi của họ thường là để lấy lãi hơn là để thanh toán. Với 2 trung tâm chính, mặc dù khác biệt nhưng lại bổ sung cho nhau. Trung tâm lớn như HongKong thì phục vụ các khoản vay mang tính tổ chức ở vùng Viễn Đông, trong khi đó Singapore lại chi phối các quỹ trên thị trường. Nói 1 cách nôm na rằng, Singapore đi gom các khoản tiền gửi từ nhiều nguồn khác nhau trong khi đó HongKong phát tán các khoản vay.
Kết Luận

Bất kỳ 1 doanh nhân nào cũng có thể hiểu được hết giá trị về sự dồi dào tài chính và dòng tiền. Cũng không phải là hiếm nhà nhập khẩu thay đổi nguồn cung cấp tài chính cho họ. Còn các nhà XK thì cứ khăng khăng đòi tiền mặt hoặc 1 cái gì đó tương đương (ví dụ như thư tín dụng chẳng hạn), và như vậy thì việc buôn bán có thể sẽ xôi hỏng bỏng không.


Đối với hoạt động tài chính của 1 công ty, thêm vào đó việc bán chứng khoán sẽ có thể làm cho công ty đó trở thành nhà môi giới và rất nhiều các tổ chức cho vay tài chính. Ngân hàng XNK Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nơi mà có rất nhiều các chương trình từ các khoản nợ trực tiếp cho đến những vụ dàn xếp với những cá nhân cho vay, có thể yêu cầu chính phủ giúp đỡ các khoản tiền lớn. Đúng là hơi kém may mắn khi chính phủ Mỹ lại chẳng nhiệt tình như chính phủ các quốc gia khác trong khía cạnh này.

Về phía chính phủ, họ có thể vay IMF để củng cố đồng tiền của mình và bù lại sự thiếu hụt tạm thời của cán cân thương mại, hoặc là ngân hàng thế giới chấp nhận các khoản vay ban đầu , sau đó chính phủ trở thành 1 chi nhánh của WB (IDA và IFC) để tài trợ cho các dự án phát triển kinh tế. Vì thế, các DN tư nhân có thể thu được lợi gián tiếp từ các quỹ đã được thành lập sẵn bởi WB và IDA, hoặc là họ có thể giao dịch trực tiếp với IFC.


18. Các loại tiền tệ và tỉ giá hối đoái

Minh hoạ Marketing

Trong một vụ mua bán nước giải khát trị giá 30 triệu đô la Canada, hãng Carling Breweries yêu cầu Brinkman, một công ty của Đức thanh toán bằng đồng Frans Thuỵ Sĩ cho chi nhánh của hãng tại Canada ba tháng sau khi hợp đồng được kí kết.Trong giai đoạn đàm phán hợp đồng, Brinkman có 3 lựa chọn để xem xét. Thứ nhất, họ có thể đợi đến khi kết thúc việc mua hàng rồi mới mua Francs bằng đồng Mark. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải chịu rủi ro nếu đồng Francs tăng giá trong suốt thời gian này, đặc biệt là khi đồng Francs tăng đột biến so với đồng Mark. Thứ hai, họ có thể ngăn chặn rủi ro bằng một hợp đồng mua hối đoái có kì hạn nhưng phải trả một mức phí 7% cho ngân hàng. Phức tạp là ở chỗ người bán đòi thêm một khoản lãi suất trên giá trị của hợp đồng mua nước giải khát. Như vậy Brinkman phải chịu một lãi suất kép- một khoản cho ngân hàng và một khoản cho người bán.Vì thế, nếu xét trên chi phí bỏ ra thì lựa chọn này là không hiệu quẩ.

Phương án cuối cùng được lựa chọn là Brinkman mua Francs ngay lập tức bằng khoản tiền kí quỹ, tiền lãi của khoản kí quỹ này sẽ thuộc về người bán. Để bắt đầu giao dịch, 163.6 triệu Francs tương đương với 96.9 triệu đô la Canada đã được mua. Việc tính toán quả thực đã mang lại một may mắn lớn vì đồng đô la Canada đã giảm mạnh so với Francs đúng như dự đoán. Khi hợp đồng được kí ba tháng sau, đồng Francs đã tăng 27%, mang lại 124.7 triệu đô Canada. Trong vụ này, hãng Brinkman đã có lãi 30 triệu đô la Canada, vừa đủ để thanh toán với Carling mà không phải tốn một xu nào.

Ví dụ về Carling là một minh chứng hoàn hảo cho tính không ổn định tồn tại trên thị trường tài chính quốc tế. Hoàn cảnh khi đó rất thuận lợi cho Brinkman và họ có thể sử dụng để giảm các rủi ro về hối đoái. Đối với những công ty hoạt động ở phạm vi quốc tế thì việc đối mặt với những rủi ro này là không thể tránh khỏi và tất yếu phải xoay xở để giữ rủi ro ở mức thấp nhất.

Mục đích của chương này là bàn về những vấn đề khác nhau liên quan đến tài chính quốc tế. Thứ nhất là xem xét ảnh hưởng của việc tăng và giảm giá tiền tệ. Tiếp đó là đánh giá các hệ thống trao đổi hối đoái khác nhau và cuối cùng là một vài chỉ dẫn hữu ích đối với các lựa chọn trong việc tự bảo hiểm nhằm hạn chế bớt rủi ro.

Hối đoái

Các giao dịch ngoại hối là những hành vi liên quan đến việc mua hoặc bán tiền của một quốc gia bằng một loại tiền khác. Cách đơn giản nhất để hiểu loại giao dịch này là xem tiền như một loại hàng hoá mà khách hàng sẵn sàng mua hoặc bán. Giống như những sản phẩm khác thì tiền cũng có thể được gắn nhãn hiệu, và US đô la, Franc pháp , Yên Nhật … đơn giản cũng chỉ là nhãn hiệu cho một sản phẩm “ tiền” mà thôi. Một vài nhãn hiệu trong số này có uy tín cao hơn và được ưa chuộng hơn so với các loại khác, giống như những nhãn hiệu thông thường.

Mọi người thưòng tự hỏi tại sao lại phải có rất nhiều loại tiền khác nhau. Rõ ràng nếu chỉ có duy nhất một loại tiền có thể sử dụng được ở bất cứ nơi nào trên thế giới thì sẽ thuận tiện hơn rất nhiều, cũng tương tự như việc đồng US đô la được sử dụng và chấp nhận ở tất cả 50 bang của nước Mỹ. Nhưng hiện tại, việc có một loại tiền toàn cầu như vậy là không thể thực hiện được bởi hai yếu tố không kiểm soát được- chủ quyền quốc gia và lạm phát.

Trong trường hợp bình thường, rất hiếm khi một quốc gia chấp nhận coi tiền của một quốc gia khác như của chính mình. Một ngoại lệ là Liechtenstein. Năm 1923 nước này đã kí một hiệp ước thuế quan với Thuỵ Sỹ, chấp nhận đồng Francs Thuỵ Sỹ là loại tiền chính thức. Hơn thế, các vấn đề về thuế quan của Liechtenstein cũng do Thuỵ Sỹ điều hành.

Rất nhiều người Mỹ biết rằng đồng đô la được chấp nhận rộng rãi nhưng khong thể hiểu tại sao đồng US đô la không thể trở thành đồng tiền chung quốc tế và tại sao các quốc gia khác chống lại việc thay thế tiền của mình bằng đồng đô la. Sự phản đối này có lẽ sẽ được hiểu rõ hơn nếu bạn so sánh với một chiếc bàn bị lật ngửa. Liệu rằng công chúng Mỹ có dễ dàng chấp nhận từ bỏ đồng US đô la và thay thế nó bằng một loại tiền quốc tế mới. Và sự thật là người Mỹ cũng chẳng sẵn lòng chấp nhận các đơn vị đo lường hệ mét, mặc dầu tính ưu việt của chúng là quá rõ ràng. Chính vì lòng tự hào dân tộc, không một quốc gia nào muốn từ bỏ biểu tượng và chủ quyền của mình, trong đó có tiền tệ. Lòng tự hào dân tộc cũng có thể dùng giải thích việc nước Anh đã miễn cưỡng chấp nhận để đồng bảng gia nhập hệ thống tiền tệ châu Âu như thé nào, ngay cả khi người dân Anh tin rằng đồng bảng Anh sẽ có vai trò quan trọng hơn trong giao dịch tài chính quốc tế.

Một vấn đề khác ít tính tâm lý hơn nhưng thường không kiểm soát được là lạm phát. Lạm phát đồng nghĩa với sự giảm giá trị của tiền( chẳng hạn sức mua). Và nếu như tất cả các quốc gia không thể có cùng một tỷ lệ lạm phát thì tác động của nó tới giá trị của các loại tiền khác nhau là không ngang bằng. ở argentina, lạm phát đã từng tăng quá 400% năm 1984, và sau đó tiếp tục tăng đến hơn 800%, buộc chính phủ nước này phải chấp nhận lấy đồng Austral làm đồng tiền mới vào năm 1985. trong thời gian đó, lạm phát ở Mỹ chỉ mới ở mức một con số. Trong suốt thập kỉ 40 ở trung quốc, tiền chỉ có ít giá trị đến mức người ta phải dùng tới những chiếc xe cút kít để chở. Sau thế chiến thứ hai, giá trị của đồng Mark Đức cũng xuống còn 4 tỷ Mark ăn một đô la.

Israel đã huỷ bỏ đồng Lirot, kẻ tiền nhiệm của đồng Shekel cũng chỉ để 6 năm sau lại một lần nữa phải đổi tiền do lạm phát. Vào ngày đầu tiên của năm 1986, israel đã giảm giá trị tiền tới 3 con số,đổi một đồng shekel mới ăn 1000 đồng cũ. Brazil cũng đã làm tương tự với đồng Cruzado để cho ra đồng Cruzriro. Đồng Lira ý cũng đã từng yếu đến mức những máy cộng tiền và và máy tính không thể nạp đựoc đủ những số không dùng niêm yết giá. Lúc đó đã nảy sinh một cuộc tranh cãi là liệu nên bỏ đi 2 hay 3 số 0. để làm tăng giá trị tiền , Italia đã cho ra loại Lira mới vào năm 1987, tương đương với 1000 đồng lira cũ. Nhằm làm giảm cơn sốc tâm lý và có thời gian in đồng bạc mới, những người bán lẻ được yêu cầu phải ghi 2 mức giá, một cho đồng lira cũ và một cho đồng mới. Trong trừơng hợp của Nam Tư, một tổ chức của Slovenia đã yêu cầu phải hủy bỏ đồng tiền giấy 5000 dinar- loại tiền duy nhất có in hình cưụ tổng thống Josip Bronz Tito – vì lạm phát đã xoá đi uy tín của ông này.

Những thí dụ trên có thể chỉ rõ rằng không thể có bất cứ một đồng tiền chung nào được sử dụng trên toàn thế giới khi mà nó vẫn duy trì một giá trị không đổi ở tất cả các quốc gia. Bảng 18-1 minh hoạ những trường hợp lạm phát không thể kiểm soát được.

Thị trường hối đoái

Những công ty có những giao dịch quốc tế dường như không bao giờ có đủ trong tay số lượng ngoại tệ cần thiết, và trong thực tế cũng rất khó khăn để tìm ra những người bán có đủ lượng tiền mà họ cần. Chính vì thế thị trường ngoại hối là một nhu cầu của tất cả các cá nhân và các thể nhằm mục đích giúp họ trao đổi được nhu cầu của mình. Trên thực tế, thị trường ngoại hối không có sàn giao dịch tập trung, nơi mà người mua và người bán gặp nhau, phần lớn cá giao dịch được thực hiện thông qua ngân hàng và những người giao dịch thường sử dụng các phương tiện như điện thoại, điện tín hay thư. Cũng giống như các thị trường có tính chất toàn cầu khác, thị trường ngoại hối cũng hoạt động liên tục 24 giờ một ngày.

Thị trường ngoại hối hỗ trợ các giao dịch tài chính theo 3 cách khác nhau. Thứ nhất, nó có thể là nơi cung cấp tín dụng hoặc tài chính cho các công ty kinh doanh quốc tế. Điều này có thể thực hiện được thông qua các phương tiện như Thư tín dụng, hối phiếu có kì hạn, các hợp đồng có kì hạn v..v Thứ hai, nó thực chức năng bù trừ tương tự như quá trình bù trừ của các ngân hàng nội địa với các khách hàng có tài khoản séc. Nghiệp vụ bù trừ là một quá trình mà thông qua đó các giao dịch tài chính giũa 2 bên liên quan đến trung gian giữa các ngân được giải quyết. Trong trường hợp bù trù quốc tế các khoản tiền chỉ được chuyển danh nghĩa trên sổ sách giữa một khách hàng thương mại với ngân hàng của anh ta, từ đó tới một ngân hàng ở Newyork, và cuối cùng tới một ngân hàng ở nước ngoài. Quá trình này cho phép các thanh toán đối với hàng hoá nhập khẩu được thực hiện mà không cần phải chuyển tiền thực tế ra nước ngoài.

Thứ ba, thị trường ngoại hối tạo điều kiện thuận lợi cho việc “ tự bảo hiểm” nhằm giúp các doanh nghiệp ngăn chặn hoặc làm giảm các rủi ro hối đoái. Nghiệp vụ tự bảo hiểm là hoạt động mua hoặc bán thay thế đối với tiền thực tế. Những giao dịch liên tục này cho phép các doanh nghiệp tránh được rủi ro biến động giá nhờ thiết lập những vị trí cân bằng và đối lập trên thị trường.

Nguồn gốc của nghiệp vụ này nằm trong sự dao động của tỷ giá hối đoái bởi nó có thể thay đổi thất thường và đáng kể dù chỉ trong thời gian ngắn. Một ví dụ là năm 1985 đồng Lira Italia đã mất giá gần 20% so với USD chỉ trong vòng một ngày. Bảng 18-1 đưa ra minh hoạ về sự giao động ở mức độ cao trên thị trường hối đoái.Từ khi việc khách hàng chấp nhận tỷ giá niêm yết trở nên phổ biển trong các đơn hàng và trong thanh toán thì những thiệt hại tài chính do biến động tỷ giá hối đoái cũng dễ xảy ra hơn. Nếu không tự bảo vệ, một nhà xuất khẩu Mỹ bán hàng sang Italia có thể sẽ chịu thiệt hại về tài chính khi đồng Lira mất giá( hoặc đồng USD tăng giá) bởi vì khoản tiền Lira thu về, sau khi đem đổi sẽ thu lại ít đô la Mỹ hơn là giá trị mong đợi ban đầu.

Một vài nhà quan sát có thể kết luận rằng, mặc dầu hiểm hoạ về việc đồng Lira mất giá đối với những nhà xuất khẩu Mỹ là có thực và hoàn toàn nghiêm túc, vẫn có một xác suất ngang bằng để Lira tăng giá so với đô la. Trong hoàn cảnh này, người xuất khẩu có thể tăng lợi nhuận dự kiến – một từ việc bán hàng hoá và một từ việc đổi ngoại tệ. Dựa trên luận điểm này thì người xuất khẩu đã mất đi khoản lợi nhuận trời cho nếu họ áp dụng nghiệp vụ tự bảo hiểm. Vấn đề với ý tưởng này là ở chỗ, trên thực tế những người xuất khẩu chỉ là những tay chơi không chuyên trong hoạt động đầu cơ hối hoái. Họ có thể là những chuyên gia có hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực sản xuất và bán sản phẩm nhưng không thuộc dạng người chuyên tìm kiếm những khoản lợi từ trên trời rơi xuống, và vì thế nên tập trung vào những hoạt động kinh doanh quen thuộc hơn là trở thành một con bạc trong trò chơi đầu cơ tiền tệ đầy xa lạ và nguy hiểm. Điểm lưu ý này cũng có thể áp dụng cho những người nhập khẩu Italia, đặc biệt khi việc thanh toán sử dụng đô la Mỹ thay vì Lira.

Thị trường hối đoái cung cấp một cơ cấu tự bảo hiểm cần thiết để bảo vệ lợi nhuân của doanh nghiệp trước những thay đổi tỷ giá hối đoái không mong muốn trong tương lai. Vì mục đích này, thị trường được chia làm hai loại- thị trường giao ngay và thị trường có kì hạn. Sự khác nhau nằm ở thời gian giao tiền. Thị trường giao ngay là một thị trường tiền mặt, nơi mà ngoại hối luôn sẵn có để giao ngay lập tức. Trên thực tế, việc giao những đồng tiền mạnh thương diễn ra chỉ trong vòng một hoặc hai ngày làm việc của giao dịch, trong khi những đồng tiền khác có thể mất lâu hơn một chut. Một công ty của Mỹ nắm giữ ngoại tệ có thể tới ngân hàng để đổi ngay sang đồng đô la căn cứ trên tỷ giá giao ngay của ngày hôm đó. Ví dụ về Brinkman được nêu ra ở trên minh chứng cho việc thị trường giao ngay được dùng như thế nào.

Những nhà xuất khẩu cũng nên xem xét thực hiện việc tự bảo vệ trước khi các quỹ ngoại tệ được chuyển đến, đây cũng chính là khi mà thị trường có kì hạn trở nên có ý nghĩa. Các công ty có thể tự bảo vệ bằng cách bán giao sau các khoản ngoại hối mà họ kì vọng. Một hợp đồng có kì hạn là một thoả thuận mua hoặc bán tiền tệ vào một thời điểm xác định trong tương laitại một tỷ giá xác định. Bằng cách kí một hợp đồng kì hạn 45 ngày, một công ty đã cố định được một tỷ giá hối đoái nào đó và biết chính xác họ sẽ nhận được bao nhiêu đô la sau khi đổi, mặc dù việc thanh toán, đổi và giao tiền sau đó nhiều ngày mới được thực hiện ( ví dụ 45 ngày sau).

Cần phải hiểu rằng tỷ giá được cố định trong hợp đồng giao sau 45 ngày không cần thiết phải bằng với tỷ giá kì hạn của ngày kế tiếp hoặc tỷ giá giao ngay của 45 ngày sau đó. Cả hai tỷ giá này đều thay đổi liên tục, dao động từng ngày thậm chí từng phút. Tỷ giá duy nhất không thay đổi là tỷ giá thoả thuận giữa ngân hàng và người “tự bảo vệ” được quy định trong hợp đồng kì hạn, cho dù là tỷ giá giao ngay hay có kì hạn sau ngày kí hợp đồng có thể thay đổi một cách mạnh mẽ.

Một người có thể băn khoăn tại sao ngân hàng lại ước tính được tỷ giá giao ngay của 45 ngày sau đó và liệu họ có phải chịu tổn thất tài chính nếu tỷ giá kì hạn đã thoả thuận bất lợi so vơi tỷ giá giao ngay vào thời điểm hợp đồng đáo hạn. Câu trả lời là ngân hàng thực ra cũng chẳng có cách nào biết được tỷ giao ngay của một tháng rưỡi sau là bao nhiêu và họ cũng chẳng cần biết để làm gì, vì trên thực tế họ không hề bị thua lỗ hay thu lợi nhuận từ tỷ giá này.

Để hiểu được lý do của câu trả lời này, bạn cần phải nắm được cơ chế hoạt động của thị trường giao sau. Khi một người xuất khẩu Mỹ, trên cơ sở chấp nhận đơn đặt hàng trị giá 5 triệu Lira, thanh toán khi hàng được giao sau đó 45 ngày của một người nhập khẩu Italia sẽ ngăn chặn rủi ro bằng cách kí một hợp đồng có kì hạn 45 ngày với ngân hàng của Mỹ để bán lượng Lira nói trên. Ngân hàng của Mỹ, đến lượt mình cũng tự bảo vệ bằng cách vừa mua, vừa bán đồng thời một loại tiền và họ làm được điều này nhờ vào việc vay ngay 5 triệu Lira từ một ngân hàng Italia và đổi sang đô la để sử dụng cho chính mình( chẳng hạn cho vay hoặc đầu tư).

Khi mà người nhập khẩu Italia nhận hàng, anh ta sẽ chẳng cần phải lo lắng gì về tỷ giá vì hợp đồng sẽ thanh toán bằng Lira. Người xuất khẩu Mỹ sẽ đem số Lira này tới ngân hàng Mỹ để đổi theo tỷ giá đã thoả thuận trước đó mà không cần phải bận tâm xem tỷ giá đã thay đổi bao nhiêu so với ngày hợp đồng được kí kết. Bước cuối cùng trong quá trình này là ngân hàng Mỹ hoàn lại số Lira mà họ đã vay cho ngân hàng Italia. Ngân hàng Italia tương tự vậy cũng không hề phải gánh chịu rủi ro tài chính vì họ cho vay và nhận lại đều là một loại tiền. Chính vì tất cả các bên đều biết chính xác trước đó lượng tiền mà mình sẽ được nhận hay phải trả, họ hoàn toàn không bị ảnh hưởng chút nào bởi sự lên xuống của tỷ giá hối đoái.

Nhà xuất khẩu Mỹ nên nhận ra rằng, tỷ giá giao ngay không hề liên quan đến sự chuẩn bị gía hợp đồng và việc quyết định những chi phí giao dịch do khoản thanh toán bằng ngoại tệ tới một ngày sau đó mới được nhận. Vì không có việc đổi tiền ngay tức khắc, tỷ gía có kì hạn tỏ ra là phù hợp hơn. Sự kì vọng lợi nhuận đối với việc tăng lãi suất đã được gắn vào tỷ giá này.

Một câu hỏi có thể được đặt ra là liệu thì trường có kì hạn có định hướng thị trường giao ngay và ngược lại. Không có câu trả lời chính xác vì tỷ giá kì hạn có thể hoặc thấp hơn, hoặc cao hơn người bạn đồng nghiệp giao ngay của nó. Liệu tỷ giá kì hạn có được cố đinh theo một mức phí hoặc khấu trừ so với tỷ giá trên thị trường giao ngay còn tuỳ thuộc vào kì vọng của những nhà kinh doanh vào lạm và mức lãi suất ở các quốc gia. Mặc dù vậy, có một điều có thể chắc chắn là hai thị trường này tuy tách biệt nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Tuy giá thanh toán tiền mặt và giá giao sau không tăng lên hoặc giảm xuống chính xác theo cùng một tỷ lệ tương đương, chúng vẫn thường di chuyển cùng chiều khi phản ứng trước các yếu tố cung cầu trên thị trường. Hai tỷ giá cũng thường đồng quy về một điểm khi một hợp đồng giao sau tiến sát tới ngày đáo hạn.

Một nghiên cứu được tiến hành bởi Batra, Donnefeld và Hadar đã xem xét những ảnh hưởng gây ra bởi phản ứng của các công ty đa quốc gia đối với sự ngăn chặn rủi ro và tính không ổn định. Theo những nhà nghiên cứu này “ sự xuất hiện của thị trường giao sau cho phép các công ty thích ứng được với những thay đổi trong việc ngăn chặn rủi ro và tính không ổn định bằng cách điều chỉnh vavs giao dịch của mình trên thị trường có kì hạn trong khi vẫn không thay đổi các quyết định về sản xuất và bán hàng. Thị trường giao sau, vì thế góp phần thúc đẩy sự vững vàng của hoạt động điều hành, đối lập với nghững thay đổi về tài chính và đồng thời cũng cho phép chấp nhận ra các quyết dịnh phi tập trung hoá.

Bảng 18-1






1980

1981

1982

1983

1984

Argentina

3.7

75.4


5.1

109.6


256.0


360.9


537.0


Brazil

1.9

108.3


1.9

108.2


2.0

92.0


1.8

168.3


2.7

236.2


Cameroom

0.8

9.6


1.7

10.7


0.3

13.3


1.4

16.6


-0.1

11.4


Chile

2.4

39.6


-0.7

9.1


-1.7

7.2


0.7

45.5


24.3


Hi Lạp

3.9

28.4


6.7

25.9


4.9

16.0


1.8

19.8


5.0

21.4


Israel

2.1

132.6


2.1

122.7


2.4

125.7


2.0

144.5


3.3

396.5


Cóte d’lvoire

0.1

14.7


1.0

8.8


-0.6

7.3


0.7

5.9


4.3


Kenya

-0.4

13.8


0.3

11.8


1.6

20.4


-0.2

11.5


1.8

10.2


Mexico

4.9

24.5


5.5

24.4


10.9

56.1


6.7

107.4


5.6

70.3


Pakistan

2.4

13.4


1.1

10.9


2.3

4.2


1.9

6.9


2.2

8.9


Peru

7.7

59.2


5.3

75.4


5.6

64.4


8.4

111.2


110.2


Phillipin

0.7

18.3


0.6

14.4


0.3

11.1


2.4

146.2


1.1

66.6


Thổ Nhĩ Kì

3.4

110.2


4.0

36.6


3.4

25.9


3.4

31.1


48.3


Urugoay

2.5

41.8


1.9

23.4


3.4

12.9


5.7

73.5


3.5

77.4


Venezuela

0.6

20.1


1.6

13.8


1.8

8.1


3.5

7.0


3.1

17.5


Nam Tư

6.9

28.8


6.8

43.3


8.2

25.2


12.6

32.7


57.7

Tỷ giá hối đoái.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái đơn giản là một loại giá- giá tiền của một quốc gia được biểu hiền bằng giá trị tiền của một quốc gia khác. mức giá trao đổi này, một khi đã dược thiết lập, cho phép tiền tệ có thể đổi từ loại này sang loại khác. Cũng giống như giá của bất kì sản phẩm nào khác, giá của một loại tiền cũng được quyết định bởi mức cung và cầu của loại tiền đó. Khi cầu về loại tiền này tăng lên, giá cuẩ nó sẽ tăng. Ngược lại nếu cung tiền tăng mà không có sự thay đổi về mức cầu, giá trị của nó sẽ giảm. Giả thuyết về sức mua tương đối, được kết hợp với thuyết số lượng, đã cố găng dự báo trước tỷ giá hối đoái dựa trên mức cung tiền và sản xuất. Một quốc gia có mức tăng cung tiền chậm hơn sức tăng trưởng của sản xuất sẽ dẫn tới sự tăng giá trị tương đối của tiền và ngược lại, khi mức cung tiền tăng nhanh và nền kinh tế rơi vào trì trệ thì có thể dẫn tới giảm giá trị của tiền.

Việc nhập khẩu thừa hàng hoá có thể gây ra cung tiền thừa vì một lượng lớn tiền phải được tạo ra để thanh toán đối với hàng nhập khẩu. Với lượng tiền dư thừa trong lưu thông, giới kinh doanh cũng như dân chúng nói chung sẽ bắt đầu có nghi ngờ về giá trị của nó, làm cho tiền dường như là có gia trị quá cao. Ngược lại xuất khẩu thừa sẽ dẫn tới cầu về tiền tệ của nước xuất khẩu tăng quá cao do những người mua nước ngoài cần một lượng tiền lớn để thanh toán cho hàng hoá. Tiền khi đó trở nên đắt giá bởi tính khan hiếm của nó và do đó sẽ tăng về giá trị.

Cầu về một loại tiền có thể được quyết định bởi một vài yếu tố, trong đó có:


  1. Giá trong nước và giá nước ngoài của hàng hoá và dich vụ.

  2. Cơ hội buôn bán trong nước.

  3. Sự di chuyển của dòng vốn quốc tế khi bị ảnh hưởng bởi sự ổn định của quốc gia, lạm phát, mức cung tiền, lãi suất cũng như thái độ của nhà đầu cơ và dự đoán về những điều kiện này.

  4. Hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.

Trong suốt giai đoạn đầu của chính quyền Reagan, cầu về đồng đô la Mỹ tăng một cách đáng kinh ngạc do giá đất thấp, thị trường rộng lớn, mức tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp và lãi suất tương đối cao trên thị trường Mỹ. Niềm tin vào tổng thống Ronald Reagan càng làm tăng thêm nhận thức rằng nước Mỹ là quốc gia ổn định nhất. Những yếu tố thuận lợi này giống như một chất xúc tác đẩy giá đồng đô la lên tận mây xanh bất chấp những thâm hụt thương mại của Mỹ lúc bấy giờ.

Sự cân bằng tiền tệ.

Lượng tiền của một quốc gia được coi là cân bằng khi tỷ giá của nó không tạo ra sự thay đổi tịnh trong nguồn dự trữ các phương tiện thanh toán quốc tế của quốc gia đó.tỷ giá cân bằng vận hành nhằm giữ sự cân bằng trong thanh toán của quốc gia trong một khoảng thời gian nhờ làm cho xuất khẩu cân bằng với nhập khẩu. Khi ở vị trí cân bằng, tỷ giá hối đoái trở nên ổn định hoặc chỉ thay đổi chút ít rồi lại trở về vị trí cân bằng.

Mặc dù hầu hết mọi quốc gia đều mong muốn duy trì sự cân bằng này, dường như tồn tại một khuynh hướng là mức tiền luôn trật khỏi điểm thăng bằng. Đó là vì điểm cân bằng này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản như lạm phát hay sự nhập khẩu thừa. Trên lý thuyết, cả thặng dư hay thâm hụt thương mại liên tục cũng đều không được mong đợi. Mức thặng dư thương mại trong thời gian dài….

Mất giá đồng tiền và tác động của nó

Mất giá đồng tiền là sự suy giảm giá trị của đồng tiền này so với đồng tiền khác. Sự phá giá mang ý nghĩa phủ định. Chưa nước nào mong muốn kích thích xuất khẩu thông thường bằng cách giảm giá đồng tiền nội tệ của nước mình. Để hiểu rõ tác động của sự mất giá đồng tiền có thể xem xét nó trong mối quan hệ giữa hai đồng tiền với nhau. Giá sử rằng đồng yên Nhật mất giá từ 230 yên đổi lấy 1 USD xuống 240 yên lấy 1 đôla.

Một câu hỏi đặt ra là liệu tỷ giá mới có tốt hơn tỷ giá cũ hay không. Điều này có tác động đến các nhà nhập khẩu Nhật Bản hay không?. Điều này thì chắc chắn rồi, giờ đây 1 đôla Mỹ lợi thêm 10 yên, có nghĩa là 1 đô la Mỹ sẽ mua được một hàng hoá có giá trị tới 240 yên thay vì trước khi đồng tiền mất giá nó chỉ mua được hàng hoá trị giá 230 yên. Với sự thay đổi này nó trở nên hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng nước ngoàI khi mua hàng của Nhật Bản.

Kể từ khi họ thu lợi thêm 10 yên phụ thêm rất quan trọng đối với mỗi đô la Mỹ giá trị hàng hoá. Tác dộng này giúp giải thích tại sao Komatsu kiếm được 20.000 đola trong phi vụ mua bán máy kéo có giá trị lên tới 100.000đôla . Lời giải thích cho sự khác nhau này là đồng đo la Mỹ quá mạnh so với đồng yên Nhật.

Một câu hỏi khác đặt ra là sự mất giá của đồng yên sẽ ảnh hưởng đến nhập khẩu của Nhật Bản như thế nào?. Bởi vì các nhà nhập khẩu Nhật Bản phải mất thêm 10 yên đối với một lượng hàng hoá trị giá 1 đô la. Khi nhập khẩu so với trước khi đồng yên Nhật mất giá. Sự mất giá của đồng yên đã làm cho hàng hoá nhập khẩu trở nên đắt hơn đối với các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng trong nước.

Tác động này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến thương mại của Mỹ, và tỷ giá nào là tỷ giá có lợi cho Mỹ ?. Đối với Nhật Bản câu trả lời phải đồng thời với một số đIều kiện. Tỷ giá hối đoái mong muốn phụ thuộc vào mục tiêu cụ thể của quốc gia. Nếu Mỹ chọn theo đuổi mục tiêu vịêc làm đầy đủ thì Mỹ dễ dàng nhập khẩu hơn, hàng hoá sẽ không phụ thuộc nhiều đến đồng yên. Nhu cầu đối với hàng hoá Mỹ sẽ tăng lên ở Nhật Bản do tính tương đối của nó. Việc tăng lên của lượng hàng cầu này cũng dồng nghĩa với việc giải quyết thất nghiệp ở Mỹ.

Nhưng nếu mục tiêu của Mỹ là tối đa hoá lượng hàng hoá tiêu thụ thì tỷ giá 1USD/240Yên là tốt hơn bởi nhiều người tiêu dùng Mỹ có thể đạt được nhiều nguồn lợi từ hàng hoá nhập khẩu rẻ tương đối mà không phải sử dụng nhiều hơn lượng đô la tương ứng với số hàng nhập khẩu đó. Phải chăng vị trí này được tính toán từ Nhật Bản. Nhu cầu hàng hoá nhập khẩu làm giảm nhu cầu sản xuất trong nước và thất nghiệp lại gia tăng ở Mỹ.

Thực tế thì cơ chế mất giá đồng tiền hoạt động như thế nào. Mặc dù sự giả thiết là nhằm mở rộng xuất khẩu và giảm nhập khẩu.Trong thực tế tác động thường không lớn như mong muốn đăc biệt trong ngắn hạn.Có vài nguyên nhân liên quan đến nó.Ban đầu cán cân thương mại cân bằng sẽ có thể xấu đi. Đất nước trong khó khăn thường có mức tiết kiệm thấp và thói quen mua hàng và các hợp đồng dài hạn thực hiện khó khăn trong ngắn hạn để thay đổi tình trạng thương mại.

Sự mất giá không những không làm thay đổi tình hình mà còn gây ra lạm phảt trầm trọng hơn, mọi thứ bị tác động.Công nhân tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu đắt hơn so với trước đó thông thường xuất hiện nhu cầu tăng lương để tương ứngvới chi phí tiêu dùng. Các ngành công nghiệp trong nước thường lợi dụng cơ hội này để tăng giá các sản phẩm nội địa của họ điều này thường thực hiện bởi nghành công nghiệp thép và ôtô của Mỹ. Bất cứ khi nào giá nhập khẩu cũng được tăng lên bằng cách phá giá hoặc bằng các biện pháp khác do đó sự không thể tiến hành trong dài hạn bởi vì những ảnh hưởng này cứ tiếp tục mãi thì môt tình trạng suy thoái kinh tế là có thể xẩy ra. sự mất giá đồng ngoại tệ nếu muốn đạt được hiệu quả thì nó phải được đồng thời một chương trình mở rộng các doanh nghiệp trông nước. Để tự điều chỉnh và khuyến khích ngừi tiêu dùng đồng thời tăng tiết kiệm. nước. Để tự đIều chỉnh và khuyến khích ngừơi tiêu dùng đồng thời tăng tiết kiệm. Nếu nền kinh tế thành công trong việc gia tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu như mong muốn , sự mất giá sẽ làm tăng thu nhập quốc dân. Đến lượt nó sẽ kích thích nhập khẩu trở lại. Do đó tác động ban đầu của sự mất giá có thể được duy trì trong lâu dàI. Hơn nữa bất kỳ sự mất giá có tính toán nào thực hiện sẽ dẫn tới hậu quả là một chính sách trả đũa của các nước láng giềng. Họ sẽ đẩy thất nghiệp trong nước ra khác.Sự mất giá đồng nội tệ cố chủ định có thể dẽ dàng kích động các đối tác có chính sách trả đũa lại bằng cách giảm giá trị đồng tiền của nước họ. Bởi vì những hậu quả này cho nên các lợi ích thật sự đạt được từ sự phá giá trong lâu dài là không lớn như những lợi ích ban đầu của nó .
Các hệ thống tỷ giá

Chắc chắn không có nghi ngờ khi cho rằng một hệ thống tỷ giá thì tương đối bất ổn định và rằng bất kỳ ai mà không đủ tỉnh táo để ra quyết định đúng về sự thay đổi của tỷ giá phải chịu rủi ro. Nếu có nghi ngờ gì về điều này ta hãy tìm hiểu nước Argentina. Năm 1981 đồng Pêso Argentina mất giá chỉ còn 1/7 giá trị của nó tạI thời điểm đầu năm 1980. Sự mất giá trầm trọng về giá trị đã làm cho các nhà kinh tế vá các quân chức chính phủ đau đầu vá tiếp tục tranh cãi về một hệ thống tỷ giá hoàn hảo nhất. Có thể nói các hệ thống tỷ giá hiện có đều có đIểm mạnh cũng như điểm yếu và có vẻ như không có một hệ thống tỷ giá nào được gọi là hoàn chỉnh. Các hệ thống tỷ giá sắp xếp theo chiều tăng dần về tính linh hoạt từ tỷ giá linh hoạt từ tỷ giá cố định, bán cố định, đến linh hoạt hoặc thả nổi. Một hệ thống tỷ giá hoàn hảo coi như là không tồn tại. Thế thì các hệ thống tỷ giá hiện nay thì hoạt động như thế nào?. Một hệ thống tỷ giá chấp nhân khi nó duy trì một tỷ giá lãm phát nhất định trong nước.

Đồng tiền của một nước có lạm phát thì bị mất giá trên thị trường tiền tệ quốc tế trong khi giá trị tiền tệ của nước không có lạm phát thì ổn định hoặc tiến triển tốt. Hệ thống tỷ giá đang được sử dụng sẽ cho phép các nước lợi dụng tỷ giá của mình để kiếm lợi bất chính thông qua việc buôn bán với nước khác. Do vậy một hệ thống tỷ giá phù hợp sẽ thúc đẩy sự ổn định, chắc chắn và sẽ kiểm soát được lạm phát.

Chế độ bản vị vàng

Chế độ bản vị vàng là chế độ đánh dấu sự ra đời của các hệ thống tỷ giá hiện đại . Vàng được sử dụng trước hết như một thước đo trao đổi quốc tế. ở Anh quốc chế độ này được áp dụng từ những năm 1700 và nhiều quốc gia khác đã dùng chế độ bản vị này từ giữa những năm 1800. ở Mỹ hiệp hội vàng của Mỹ đã gắn liền với đồng đô la Mỹ với bản vị vàng từ năm 1873.

Mỗi nước cần phải gắn các giá trị tiền tệ của mình với vàng theo luật xác định giá trị trung bình dựa trên số lượng vàng nguyên chất đối với đơn vị tiền tệ chuẩn của nó. Do đó tỷ gía trao đổi đã ấn định giá trị trung bình và được xác định bởi lượng vàng quốc gia. Hệ thống được sửa đổi này được tiến hành sau hôm đó và nó được biết như chế độ bản vị vàng được tạo năm 1922. Hệ thống đã sửa đổi cho phép các nước sử dụng cả vàng lẫn đôla Mỹ trong thanh toán quốc tế. Bởi vì Mỹ đứng ra đảm bảo cho đồng tiền đo la bằng vàng.

Năm 1930 một đôla được xác định bởi lượng vàng là 23,32 gam (vàng nguyên chất) (480gam một Auxô vàng) trong khi đó đồng bảng Anh tương đương với 113gam. Năm 1971 lượng vàng trong một đôla Mỹ được xá định trong khoảng 0,73666 đến 0,88671gam. Năm 1879 giá vàng là 20,67 đôla một Auxô vàng nguyên chất sau đó đến năm 1983 được thay đổi 35 đôla một Auxô vàng.

Sự tăng lên của giá vàng đã làm sụt giá đồng đôla . Bởi vì mỗi đồng tiền quốc gia phải được quy ra vàng. Ngược lại lượng cung tiền phải được xác định bằng lượng vàng mà quốc gia đó dữ trữ.

Với đơn vị tiền tệ chung là vàng nên tất cả các giá trị của các đồng tiền được cố định một cách cứng nhắc. Mặc dù giá trị của chúng được cố định theo luật, điều này không có nghĩa là tỷ giá hối đoái của các nước này không dao động. Do sự tác động của cung tiền và cầu tiền sự dao động phải nằm trong một giới hạn được thiết lập bởi giao thông , bảo hiểm và sự chuyển vàng giữa các quốc gia với nhau.

Xét trường hợp mối quan hệ giữa đồng đola Mỹ với đồng bảng Anh và giá trị trung bình của đồng bảng Anh được xác định bởi đồng đôla Mỹ khi mà bản vị vàng có hiệu lực là 4,86 bảng. Nếu chi phí chuyển vàng là 2% mỗi bảng giữa hai nước, giới hạn dao động lên xuống là 2% đối với mỗi đơn vị tiền tệ. Giá trị của đồng bảng Anh có thể lên đến 4,88 USD hoặc có thể giảm xuống 4,84 USD. Giới hạn trên được gọi là mức xuất khẩu vàng. Đồng bảng không thể tăng cao hơn mức xuất khẩu vàng vì tỷ gía hối đoái khi đó cao hơn chi phí vận chuyển vàng thực tế. Nếu giá trị của điểm xuất khẩu vàng lớn hơn thì một nhà nhập khẩu sẽ nhận thấy rằng nó kinh tế hơn so với khi mua vàng bằng đôla Mỹ và vận chuyển vàng cũng như thanh toán bằng tín dụng Anh quốc thay vì trả giá cao hơn mức cần thiết để mua bảng Anh. Điều này rất hợp lí đối với nhà nhập khẩu Mỹ khi trả 4,88 đôla Mỹ cho một bảng Anh nhưng không cao hơn mức giá trước.

Cũng tương tự như vậy đồng bảng Anh sẽ không xuống mức 4,84 đô mức thấp nhất gọi là đIểm nhập khẩu và vàng nếu đồng bảng Anh giảm xuống mức 4,84 đô la các nhà nhập khẩu Anh sẽ có lợi nếu đổi đồng bảng Anh ra vàng để thanh toán . Chi phí để vận chuyển vàng phải nhỏ hơn chi phí đổi bảng Anh ra đôla để thanh toán. Trong hoàn cảnh này, các nhà nhập khẩu sẽ xuất khẩu vàng và Mỹ dữ trữ nhiều vàng hơn thực tế , chính phủ luôn đứng ra để đảm nhận việc mua và bán vàng để duy trì tỷ giá hối đoái mà không để nó vượt ra ngoài giới hạn cho phép.

Chế độ bản vị vàng thực hiện chức năng duy trì thế cân bằng thông qua cái gọi là cơ chế price-specic-flow;specic ở đay là vàng . Mâchanism ý muốn nói đến sự duy trì thế cân bằng một cách tự động . khi đó đồng tiền của một nước lạm phát quá nhanh đồng tiền mất tính cạnh tranh trên thị trường tiền tệ thế giới. cán cân thương mãi do xuất khẩu. vàng được rút ra khỏi dữ trữ và vận chuyển khỏi nước ngoài để thanh toán cho việc nhập khẩu đồng thời với việc giảm số vàng trong nước , do đó các nước buộc phải giảm cung tiền trong nước. Sự suy giảm này đồng thời với sự suy giảm của các hoạt động kinh tế. Tỷ lệ lam phát cao và sự suy thoái làm giảm thu nhập quốc dân và tăng thất nghiệp. Sự tác động của nó sẽ làm cho lạm phát giảm đi. Khi giá nội địa giảm nhu cầu sử dụng các sản phẩm nội địa sẽ tăng và nhu cầu nhập khẩu giảm đi .Sự giảm giá do vậy làm cho cho các sản phẩm nội địa hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Cán cân thanh toán của quốc gia được cải thiện và vàng bắt đầu chảy ngược trở lại vào nước.

Cơ chế price-specic- flow cũng được điều chỉnh trong trường hợp thẳng dư thương mại. Khi xuất khẩu của một nước nhiều hơn nhập khẩu thì nhu cầu đối với tiền tệ của nước này đẩy giá về phía điểm nhập khẩu vàng. Với số vàng có được nước này tăng số vàng dữ trữ, dẫn tới cung tiền tăng lên trong lưu thông. Tăng cung tiền dẫn tới lãi suất giảm, do đó làm cho nền kinh tế sống động hơn, tăng việc làm tăng thu nhập và kết quả là tăng lạm phát. Lạm phát tăng lên làm gia tăng thu nhập của người dân vì sự tăng giá đồng nội tệ làm cho việc thanh toán hàng nhập khẩu dễ thực hiện hơn. Nên nhớ rằng một nền kinh tế quá nóng với tỷ giá dự cố định là một thuận lợi để bán hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra thì giá cả của hàng hoá trong nước sẽ tăng và trở nên đắt đối với người tiêu dùng nước ngoài. Đồng thời hàng hoá nước ngoài sẽ trở nên có tính cạnh tranh hơn và cán cân thanh toán sẽ xấu đi. Rồi thì vàng sẽ chảy ra nước ngoài và yêu cầu đặt ra là giảm lạm phát, lại tiếp tục một chu kì mới.

Vấn đề đặt ra là tại sao chế độ bản vị vàng không thể thực hiện chức năng trong dàI hạn. Vấn đề liên quan đến cơ chế price- specic- flow. Để đạt hiệu quả thì phải nắm rõ luật chơi- cái chi phối hoạt động của chế độ bản vị vàng phải được tôn trọng triệt để. Thứ nhất tiền tệ phải cố định giá trị với vàng. Thứ hai có sự di chuyển vàng tự do giữa các quốc gia. Thứ ba bảm đảm việc thực hiện các quy ước đối với việc cất giữ vàng của một nước. Tuy nhiên những nguyên tắc này lại không bắt buộc đối với các nước trong việc thiết lập cán cân thanh toán và ngoai hối không phụ thuộc vào các mục tiêu, chính sách trong nước và điều giả sử này là quá viển vông, do đó hoạt động của cơ chế bản vị vàng là không tự đông như cơ chế price- specic- flow để có thể tạo ra được sự tin tưởng.

Bởi vì vàng là một hàng hoá quý hiếm, số lượng vàng không thể tăng nhanh để có thể cho phép cân bằng với số tiền tệ được tạo ra trong lưu thông. Để hộ trợ cho tăng trưởng thương mại thế gới vấn đề càng trầm trọng hơn bởi vì vàng được sử dụng vào việc trang trí và nhiều nghành công nghiệp dùng đến vàng và nhiều người cất giữ vàng cho nên việc cấm giữ trữ vàng và xuất khẩu vàng nén công khaicủa tổng thổng Franklin Rooseveff đều không có hiệu quả trong giải quyết vấn đề.

Một vấn đề khác đang còn tồn tại của hệ thống này là tính phi thực tế. Nhiều nước đã phụ thuộc vào nền kinh tế để giữ trữ vàng cũng như các đIều kiện về tài chính và môi trường bên ngoài. Mặt khác một nước có lạm phát cao và thâm hụt thương mại đòi hỏi phải giảm cung tiền của đất nước và giảm tiêu dùng , đẫn suy thoái và thất nghiệp. Đây là một biện pháp khắc nghiệt mà nhiều nước không thể áp dụng. Thay vì chấp nhận có thất nghiệp để khuyến khích nhập khẩu, các nước nhập khẩu lại khăng khăng can thiệp vào thất nghiệp thông qua thuế thay vì phá giá đồng tiền nội tệ. Các nước khẳng định sự đúng đắn của họ trong việc can thiệp vào và phá giá đồng tiền trong nước để thoả mãn mục tiêu việc làm đầy đủ trên phạm vi cả nước. Do sự cứng nhắc của hệ thống tỷ giá này nên chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi các nước lớn quyết định từ bỏ bản vị vàng. Bắt đầu là nước Anh năm 1931 trong thời kì cuộc khủng hoảng thừa của thế giới 1929- 1933. Với tỷ lệ thất nghiệp lên tới 12%, lúc đó nước Anh quyết định từ bỏ bản vị vàng nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp và sự đảo lộn về tài chính tiền tệ đã diễn ra ở nhiều nước.

Giá trung bình

Việc tái thiết lại hệ thống tiền tệ thế giới sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai mà đIều mà các đại biểu của 40 nước tại hội nghị Bretton Woods ở Newhanpsuse năm 1944 cần phải làm. Kết quả của cuộc hội nghị này là sự ra đời của ngân hàng thế giới để hộ trợ các dự án phát triển và tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế IMF nhằm mục đích thúc đẩy sự ổn định tiền tệ trong quá trình mở rộng thương mại thế giới, IMF còn là trung tâm tài chính , quản lí hoặc hệ thống Bretton Woods được thành lập để giải quyết các vấn đề liên quan đến bản vị vàng. Do vàng không còn có đầy đủ chức năng như một tiền tệ quốc tế cho nên đồng đôla Mỹ tạo ra được sự ổn định cũng như sự linh hoạt đối với vàng và các ngoại tệ khác.

IMF mong muốn cần một tỷ giá cố định hoặc giá trị trung bình tiền giấy gắn liền với USD và có đủ chức năng chuyển ra vàng, thừa nhận đồng đô la như một công cụ cất giữ giá trị có thể chấp nhận được. Các nước đồng ý dùng nó để thanh toán cán cân thương mại quốc tế dựa trên nguyên tắc tránh giao động và tỷ giá cứng nhắc. Các nước thành viên đã thiết lập một tỷ giá chung cho đồng tiền của nước mình hoặc trực tiếp so sánh với vàng hoặc giáng tiếp bởi mối liên hệ giữa giá trị trung bình của lượng vàng có trong đồng USD. IMF ngăn cấm bất kỳ sự vi phạm nào trong việc sử dụng nhiều tỷ giá khác nhau, các nguyên tắc này được công bố tại cuộc triển lãm 18 –2.

Sự điều chỉnh của tỷ giá chung có thể xảy ra trong trường hợp mất cân bằng cơ sở.IMF cũng sẽ đồng ý với sự thay đổi khi tỷ giá chung ban đầu thay đổi là 10%, bất kỳ sự thay đổi nào trong giá trị trung bình vượt quá tỷ lệ trên cần được sự chấp nhận của IMF. Tuy nhiên có nhiều khó khăn trong việc xác định:



  1. Khi một sự mất cân bằng căn bản xảy ra. 2. Khi đồng tiền tăng hoặc giảm giá trị, 3. Quy mô của sự thay đổi giá trị của đồng tiền.

Để ngăn chặn việc đầu cơ thay đổi trong giá trị trung bình được thông báo thường xuyên, đạt được sợ đIều chỉnh sau, mặc dù trong một cuộc khủng hoảng không có thời gian để tham khảo ý kiến của nhau. Ví dụ đồng đôla Mỹ giảm giá trị tới giới hạn thấp nhất của nó nhưng không được phép giảm thêm thì không ai muốn mua nó tạI thời điểm này, bởi vì giá trị của nó đang được duy trì ở mức cao giả tạo. Giá cả của nó không phản ảnh giá trị thấp hơn giá trị của nó. Các nhà đầu cơ biết rằng sự phá giá phải xảy ra sớm và tác động mà đồng đôla phải giảm một mức mang lại. Họ sẽ bán đồng đôla trước khi mua chúng trở lại với mức giá thấp hơn hoặc tỷ lệ thấp hơn. Đối với những người chỉ bán mà không mua , sự hoang mang này có thể làm cho thị trường tài chính đóng cửa…

Đến 512 tỷ đôla năm 1970, giá vàng vẫn còn khá cao và lòng tin vào đồng đôla càng bị giảm sút. Cái ao cuối cùng đã chảy đi và giá vàng hai chế độ đã được áp dụng. Có nghĩa là Ngân hàng Trung tâm đồng ý mua bán vàng với giá chính thức 35 đôla một auxơ, nhưng trên thị trường tự do giá được thả lỏng.

Đối với nhiều người, cơ chế này thiếu tính chắc chắn của hệ thống vàng cũng như sự linh hoạt của hệ thống thả nổi. Mặc dù đã có một khoảng thời gian kinh tế thế giới phát triển, lạm phát thấp và tỷ lệ lợi tức thấp dưới hệ thống IMF, vấn đề mà đồng đôla và vàng vào tháng 8 năm 1971, theo đó chấm dứt hệ thống tiền tệ quốc tế Breetton Woods. Người dân Mỹ lại được phép sở hữu và buôn bán vàng vào 31/12/1974 và đồng đôla được cho phép thả nổi để đạt giá trị thực.

Hệ thống cân bằng trượt:

Trung gian giữa hệ thống tỷ giá cố định và hệ thống hoàn toàn linh hoạt là hệ thống bán cố định như cân bằng trượt và tầm rộng, chúng khác nhau so với hệ thống tỷ giá cố định bởi sự linh hoạt lớn hơn trong sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Nhưng chúng không phải là hệ thống thả nổi vì vẫn có sự giới hạn mà tỷ giá hối đoái có thể dao động.

Bởi vì sự thay đổi hãn hữu của hệ thống giá trị cân bằng của IMF đòi hỏi một sự phá giá lớn theo nó, tỷ giá theo hệ thống giá trượt đã được xây dựng. ý tưởng là muốn điều chỉnh tỷ giá hối đoái từ từ bằng những con số vào những thời điểm nào đó để cân bằng lại sự đánh giá quá cao hay quá thấp của tỷ giá hối đoái. Cơ chế này được tạo dựng để giảm bớt sự đầu cơ nhờ việc tạo nên một giới hạn trên mà những kẻ đầu cơ có thể thu lợi do sự phá giá trong vòng một năm.

Hệ thống tỷ giá trượt đòi hỏi các quốc gia phải có một lượng dự trữ dồi dào cho quá trình điều chỉnh kéo dài. Sự điều chỉnh nhỏ cũng có thể không điều chỉnh được sự quá cao hoặc quá thấp của đồng tiền. Ví dụ như Braxin, nước đã áp dụng hệ thống tỷ giá trượt để điều chỉnh lại tình trạng lạm phát phi mã bằng cách phá giá đồng crzêrô đi một vài phần trăm mỗi tháng. Thường thường sự phá giá sẽ diễn ra vào các ngày thứ năm mỗi lần 2% giống như sự đặc biệt ở các siêu thị. Nhưng mặc dù một năm có thể giảm đi 100% thì vẫn chưa đủ và từ lần này đến lần khác sự phá giá cỡ nhỏ 2% phải chỉnh thành phá giá cỡ lớn. Vào 12/1979 và 2/1983, Braxin đã đột ngột cắt giảm giá đồng cruzeiro đi 30% và 24% tương ứng. Giống như vậy, Mêhicô đã phá giá đồng pêsô với một tỷ lệ được điều khiển quá nhỏ so với giá trị đúng mức của nó. Vào giai đoạn đầu năm 1985, đồng pêsô đã mất hơn 85% giá trị so với đồng đôla, các địa điểm giao dịch trên tỷ giá tự do đặt giá 325 pêsô và thậm chí cao hơn ở các vùng biên giới. Nhìn lại vài năm trước, tỷ giá là ít hơn 100 pêsô/1 đôla, có vẻ như là sự mất giá này là to lớn nhưng vẫn chưa đủ. Vào giữa những năm 1986, đồng pêsô mất giá rất lớn xuống còn 1 đôla ăn 700 pêsô. Gần cuối năm 1987, đồng pêsô đã mất giá 59% chỉ trong vài ngày và tỷ giá mỗi năm là 2200 pêsô ăn một đôla. Đây chính là điều mà những người đầu cơ mong đợi.

Hệ thống tỷ giá hối đoái tầm rộng:

Mục đích của hệ thống tầm rộng là để trung hoà sự cứng rằng của hệ thống tỷ giá cố định. Hệ thống này giống như hệ thống cân bằng trượt, tuy nhiên khác ở chồ cho phép giá trị đồng tiền dao động một khoảng 5% về hai hướng, không phải là một sự thay đổi chính thức của tỷ giá hối đoái, hệ thống này dùng những phương thức linh hoạt hơn để cảnh cáo những người đầu cơ về những hậu quả tai hại khi họ phạm phải sai lầm trong việc đầu cơ vào hướng thay đổi trong tỷ giá hối đoái.

Một nhóm các nước Tây Âu đã áp dụng một dạng đặc biệt của hệ thống tầm rộng. Tỷ giá hối đoái xoáy vòng từ khi bãi bỏ hệ thống tỷ giá cố định đã gây nên nhiều vấn đề đặc biệt cho các nước châu Âu bởi vì sự phụ thuộc của họ vào khối liên minh “con rắn” vì thế đã được thiết lập như là một hệ thống kém tính chính thức hơn của dạng tỷ giá hối đoái ổn định nhưng linh hoạt giữa các đồng tiền các nước. Với mục tiêu hướng tới sự ổn định tỷ giá hối đoái và hợp tác, đoàn kết, Tây Đức, Beneluc và các quốc gia vùng Scandanavơ vào những năm 1972 đã thống nhất trong hiệp ước thả nổi tỷ giá Châu Âu, được biết đến dưới cái tên “con rắn”. Như là một hệ thống ổn định nhưng thả nổi “con rắn” là một dải băng tiền tệ nối đồng tiền của các quốc gia và giá trị của chúng được đặt cố định so với mỗi mức khác trong giới hạn 2,5% trên và dưới giá trị chính thức. 4,5% là giới hạn cao nhất cho vòng xoáy của con rắn, được gọi là đường hầm, do đó người ta còn gọi là “con rắn trong đường hầm”. Con rắn đã bị hại bởi quá nhiều vấn đề làm cho nó khó có thể đạt được mục tiêu. Nó không đủ khả năng bảo vệ các nước thành viên trước sự sụp đổ của đồng đôla cuối những năm 70. Những đồng tiền đã bị buộc phải rời khỏi “con rắn” do những điều kiện kinh tế riêng rẽ ở các nước thành viên, sức ép kinh tế thị trường tái diễn và còn do mục tiêu tự do đặt nền tảng trong chính sách kinh tế của mỗi nước. Phá giá và tái định giá trở nên cần thiết.

Để theo đuổi những mục tiêu riêng rẽ về ổn định tỷ giá hối đoái, “con rắn” đã được thay thế bởi một hệ thống mạnh hơn và được chuẩn bị kỹ hơn, đó là hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS). Nước ý chọn gia nhập EMS để có được sự trợ giúp về tài chính từ Tây Đức và đặt ra nhiều nguyên tắc kinh tế hơn bất chấp nguy cơ chính như có thể mất tín nhiệm bởi những người công nhân sợ rằng họ sẽ mất đi những nguồn thu nhập lương bổng.

EMS đã hợp lại những đặc điểm để buộc các nước thành viên phải sửa đổi để điều chỉnh lại những điều kiện kinh tế riêng rẽ. Như là một hệ thống Breeton Woods nhỏ, EMS đã áp dụng lợi thế là hệ thống cân bằng trượt giá để nối tiền tệ của các nước thành viên chặt chẽ đến nỗi chúng gần như thành một đồng tiền duy nhất. Cũng giống như “con rắn”, EMS ấn định tỷ giá hối đoái cố định giữa các nước thành viên, và các đồng tiền thành viên có thể di động 2,25% so với đồng tiền mỗi nước khác với ngoại lệ cho đồng lia khi đó để bị mất giá được phép dao động đến 6%. Như là đồng tiền chủ yếu của hệ thống, đông mác đã được gắn chặt với đồng tiền các nước khác nhau thông qua sự can thiệp của chính phủ. Với mục đích này, một quỹ tiền chung – quỹ hợp tác liên hiệp châu Âu (EMCF) với 20% vàng đã được lập nên với sự đóng góp của các nước để duy trì sự cân bằng. EMS với quỹ lên đến gần 32 tỷ đô la gồm cả đôla, vàng và tiền tệ của các nước thành viên có vẻ giống như IMF và EMCF có tiềm năng trở thành đối thủ của IMF.

EMS đã lập nên liên minh tiền tệ dưới cái tên đơn vị tiền tệ châu Âu (ECU) để đem lại một đồng tiền thay thế cũng như bổ trợ cho đồng đôla. ECU được tổng hợp từ một vài đồng tiền được đặt cơ sở trên tỷ trọng trung bình của các nước thành viên EC, giá trị của đồng ECU được xác định tương đương với tổng số 3,36 franc Bỉ; 0,217 hrone Đan Mạch; 115 franc Pháp; 0,00759 bảng Ailen, 190 lia ý; 0,14 franc Lúcxămbua, 0,28 guider Hà Lan, 0,085 bảng Anh và 0,828 mác Đức. Trọng lượng của mỗi đơn vị tiền tệ được đặt trên cơ sở GNP tương đối của mỗi nước và phần của mỗi nước trong lĩnh vực thương mại liên châu Âu. Trọng lượng này được xem lại 5 năm một lần hoặc khi mỗi đồng tiền thay đổi giá trị đến 25%.

Nói chung, đồng ECU trị giá khoảng 0,85 đôla. Lúc đầu chỉ được dùng trong giao dịch giữa các ngân hàng trung ương, đồng ECU đã được chấp nhận chung khi thị trường tư nhân mời những người gửi tiền tài khoản mệnh giá dưới đồng ECU.

Ta có thể dễ dàng nhận thấy EMS chính là hệ thống cân bằng trượt của IMF, chỉ khác là EMS chứa đựng một tầm rộng hơn cho những thay đổi tỷ giá hối đoái. Có thể có những nghi ngờ liệu EMS có thể kết hợp những gì mà IMF không thể. Sự thành bại của nó phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi người với 8 tỷ giá hối đoái riêng rẽ đã diễn ra năm 1986. Những người ủng hộ sẽ vui mừng vì nó đã có được sự phổ biến và đã thúc đẩy sự ổn định khi đồng ECU đã không dao động mạnh như mỗi đơn vị tiền tệ riêng lẻ. Những người ủng hộ có thể thấy tâm sự sửa đổi trong môi trường phức tạp này không phải là một con số lớn. Những người khác lại cho rằng 8 nước là quá nhiều, trong khi EMS mới thành lập từ 1979. Hơn nữa, những vấn đề liên quan đến hệ thống tỷ giá ấn định theo thoả thuận rõ ràng là đang tái diễn. Các chính phủ lại không hoàn toàn từ bỏ mục tiêu riêng rẽ về sự phá giá giảm phát hoặc mang tính cạnh tranh. Ví dụ như ở Bỉ và Đan Mạch phản kháng lại những sự chỉ trích và tìm kiếm sự phá giá trong sự chi trả của đối tác thương mại. Đồng frănc Bỉ đã phá giá 8,5% trong khi đồng hrone Đan Mạch phá giá 3%. Những sự phá giá này có thể khiêu khích các thành viên khác cũng phá giá để cạnh tranh.

Dưới kế hoạch tầm rộng, một quốc gia mà theo đuổi những chính sách lạm phát sẽ làm cho giá cả hàng hoá quốc tế đắt tương đối, do đó sẽ phải có một chương trình giảm giá để cân bằng cán cân thanh toán để làm giảm sự tăng trưởng và điều khiển lạm phát, trong khi có nguy cơ suy giảm kinh tế. Tỷ giá hối đoái khi đó sẽ giảm xuống dưới ấn định. Một khi đạt đến giới hạn, nước đó lại phải cố định tỷ giá hối đoái. Hơn nữa, nếu hệ thống tầm rộng có ưu điểm là tăng tính linh động, một nước có thể sung túc hơn với sự dao động có giới hạn.

Hệ thống tỷ giá thả nổi:

Dưới hệ thống tỷ giá cố định, nhu cầu về vàng quá cao đã làm cho Mỹ buộc phải tạm cấm việc bán vàng vào năm 1986 chỉ trừ trường hợp cho các đảng phái chính thức. Nhưng áp dụng điều này vẫn không đem lại kết quả gì và đến cuối những năm 60, đồng đôla phải chịu sức ép ngày càng tăng vì sự thâm hụt lớn và kéo dài của cán cân thanh toán. Cuộc khủng hoảng niềm tin dâng lên và người nước ngoài không muốn giữ đồng đôla, dẫn đến sự thay đổi trong giá trị lịch sử của đồng đôla. Vào ngày 15/8/197, nước Mỹ đã tạm cấm việc dùng đôla mua vàng và những tài sản dự trữ khác và quyết định thả nổi đồng đôla để tạo nên thay đổi trong cán cân cũng như sự xem xét của IMF. Theo đó, hiệp định Smithsonian đã tái định giá những đồng tiền khác và phá giá đồng đôla đi 10,35%. Vào 2/1973, do sự đầu có quá lớn chống lại đồng đôla, cuộc khủng hoảng lại bùng lên và lần thứ hai đồng đôla bị cắt giảm 10% giá trị. Cuộc khủng hoảng đã buộc các thị trường ngoại hối chính thức phải đóng cửa ở châu Âu, Nhật Bản trong hai tuần rưỡi và khi những thị trường này mở cửa trở lại, tất cả các đồng tiền chủ yếu đều được thả nổi.

Sau khoảng thời gian đầu tiên ổn định đáng kể, đồng đôla nhanh chóng mất giá trong 7 tuần vì thâm hụt cán cân thanh toán. Vụ việc Watergate lại tạo nên lạm phát ở Mỹ và thu giảm tiền ở bên ngoài. Nếu hệ thống cố định được áp dụng thì cuộc khủng hoảng truyền thống sẽ diễn ra. Thị trường ngoại hối sẽ phải đóng cửa và sẽ có sự sửa đổi lớn trong cân bằng sẽ trở nên cần thiết. Tuy nhiên, vơi sự thả nổi của đồng đôla, tác động có lợi của nó là những áp lực đầu cơ được phản ánh qua sự rơi nhanh trong giá trị trao đổi của đồng đôla mà không có sự đóng cửa của thị trường. Sự phá giá đồng tiền, ngược lại sẽ giúp Mỹ cải thiện hoạt động thương mại. Vào tháng 10/1978, một thảm hoạ khác đến với nước Mỹ và đồng đôla Mỹ. Những lo ngại về sự lạm phát của Mỹ đã làm người ta bán tống bán tháo đôla đi và thị trường chứng khoán chìm đắm. Bất chấp hiểm hoạ suy thoái, chính quyền Carter buộc phải áp dụng những biện pháp mạnh mẽ do một số nguyên nhân: 1- Đồng đôla mất giá hạn chế sức mua của Mỹ; 2- giá cả tăng nhanh ảnh hưởng đến chương trình chống lạm phát; 3- các nước OPEC giảm dự trữ đôla, kích thích họ nâng cao giá dầu và 4- giá trị cổ phiếu mất đi 110 tỷ lệ đôla, làm cho các kế hoạch đầu tư kinh tế bị giảm vốn rất nhiều. Trong số các biện pháp là sự tăng lên của lãi suất chiết khấu của Cục dự trữ liên bang, bán vàng và mua đôla. Lúc đầu, phạm vi của hợp đồng này gây sốc trên thị trường, giá vàng giảm và thị trường trái phiếu, chứng khoán, đôla tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, đến cuối tháng, các chính sách chống lạm phát mạnh mẽ đã suy yếu đi lòng tin vào chính phủ và hỗn loạn diễn ra. Mức bán đi kỷ lục đã làm cho đồng đôla mất giá kỷ lục. Lần nữa, bằng việc thả nổi đồng đôla, người ta đã tránh được những hậu quả là đóng cửa thị trường và sự phá giá chính thức.

Dưới hệ thống tỷ giá thả nổi, sức mạnh thị trường dựa trên cung cầu đã ấn định giá trị đồng đôla. Thặng dư quốc gia dẫn đến sự tăng giá đồng tiền, giá cả cao hơn, dự trữ tăng, giá cả mang tính cơ hội. Dự trữ quá nhiều sẽ làm giảm cơ hội đầu tư. Mặt khác, thâm hụt quốc gia sẽ làm giảm đi giá trị đồng tiền, giúp cho việc xuất khẩu dễ dàng hơn.

Nếu khống có sự can thiệp của chính phủ, hệ thống thả nổi sẽ được coi là “sạch” đó trở nên “bẩn” khi có sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương nhằm thay đổi tỷ giá hối đoái, hành động này diễn ra, đặc biệt là khi có lạm phát hoặc nền kinh tế trục trặc. Một quốc gia bị lạm phát sẽ hạn chế chi tiêu và giảm cung tiêu để làm lạnh mạnh nền kinh tế. Nhưng do những trở lực của việc phá giá đồng tiền trong cải thiện thương mại, những biện pháp như vậy cần thời gian để đạt được mục tiêu trước khi những sức ép do lạm phát sẽ đè nặng lên nền kinh tế do giá nhập khẩu tăng. Khi đó sẽ buộc phải tiếp tục điều hành và bảo vệ đồng tiền qua thời gian mà những thay đổi diễn ra.

Thời gian không phải là lý do duy nhất cho các tác động của chính phủ. Thường xuyên còn hơn là không, động cơ của sự can thiệp là để thu được lợi thế thương mại do đó có thể xuất khẩu ra ngoài. Sự phá giá có chủ ý và tính toán sẽ làm cho sự thả nổi trở nên “bẩn”. Một nước yếu hơn ví dụ Liên hợp Anh sẽ làm tăng thêm giá trị đồng bảng để làm cho nó xa hơn cần thiết để bù cho lạm phát. Ngược lại, ở nước mạnh như Đức, Nhật thường can thiệp bằng cách làm giảm đi sự tăng giá đồng tiền ngăn chặn sự thua lỗ trong thương mại.

Nhật Bản thường mau đôla và bán đồng yên, không phải để tránh dao động đồng tiền mà để làm cho đồng yên không tăng giá, làm cách đó sẽ có được lợi thế về tỷ giá. Một số người tin rằng Nhật có thể lợi dụng triệt để lợi thế về tỷ giá hối đoái đến mức họ có thể ấn định tỷ giá hối đoái với giới hạn 20 yên. Tác động này không đạt được chỉ qua việc bán đồng yên. Bộ tài chính và Ngân hàn cũng dùng những biện pháp khác. Hai tổ chức này phối hợp với các ngân hàng và chỉ dẫn họ cách điều hành nên mua hay bán trước đồng tiền và bằng cách nào lợi dụng được hệ thống phân phối để đạt được mục đích này. Hơn nữa, đồng yên cũng được tác động qua việc Nhật Bản không mở rộng thị trường vốn và cho phép đồng yên trở thành đơn vị tiền tệ chính thức trên thị trường quốc tế.

Đối với những nước nhập khẩu, mục đích của can thiệp là để giữ đồng tiền cao hơn giá trị thực bởi vì những hiểm hoạ do thất nghiệp tăng. Pháp và ý thường không áp dụng những biện pháp khắc khổ trong nước. Tuy nhiên mỗi nước cũng không cho phép thả nổi đồng tiền để điều hoà lại. Và do vậy, mỗi sự can thiệp chỉ tạm thời phá vỡ vòng xoáy của sự mất giá đồng tiền, giá nhập khẩu tăng, lạm phát cao và mất giá đồng tiền. Liên bang Xô Viết cũ đã can thiệp vì mục đích khác – lợi nhuận khi chờ bán lúa mỳ, họ giảm giá đồng đôla và sau đó sẽ mua lại.

Những sự can thiệp không nhằm thay đổi xu hướng thị trường. Những nguồn lực liên hợp của Ngân hàng Trung ương không đủ làm ngược hướng thị trường hối đoái. Xem xét những biện pháp mạnh của Mỹ năm 1978 để cứu vớt đồng đôla, một số hành động đã diễn ra:


  1. Kích thích những mức độ tín dụng mới với Ngân hàng Trung ương nước ngoài cho 15 tỷ đôla trị giá theo mark, frand, yên để mua đôla trên thị trường mở.

  2. Bán 2 tỷ đôla SDRs của IMF cho những ngân hàng này.

  3. Tạm thời rút 3 tỷ đôla theo mark, franc và yên từ dự trữ của Mỹ trong IMF.

  4. Việc bán trên thị trường hải ngoại 10 tỷ đôla tín phiếu kho bạc mệnh giá ngoại tệ.

  5. Tăng bán vàng.

Mặc dù tổng số có thể làm ta giật mình nhưng ta phải biết rằng mức độ giao dịch tiền ở Newyork là 90 tỷ đôla mỗi ngày. Trong khoảng thời gian tăng đột ngột của đồng đôla đầu những năm 80, chính quyền và các nhà chuyên môn đều cho rằng đồng đôla đã quá cao về giá trị tuy nhiên họ không thể thay đổi được xu hướng này. Những nỗ lực của GS chỉ vào nửa cuối 1985 thành công trong việc giảm giá đồng đôla khi xu hướng này thay đổi. Vì vậy, những lời cáo buộc cho rằng Nhật Bản lạm dụng chính sách hối đoái không được công nhận. Hơn nữa, sự dừng lại đột ngột giá trị đồng yên từ 256 yên/1đôla xuống còn 120 yên/1đôla làm nên nhiều vấn đề thương mại đáng kể cho Nhật nước mà vẫn còn rất yếu. Sự suy yếu này có thể chứng minh cho Nhật khỏi sự cáo buộc là lạm dụng đồng tiền.

Đánh giá hệ thống tỷ giá thả nổi:

Tỷ giá cố định và thả nổi có bản chất và đặc điẻm khác biệt ngược lại. Do đó, chúng không thể cùng đạt được những mục tiêu về chắc chắn, ổn định và điều khiển lạm phát. Những người ủng hộ tỷ giá cố định tin rằng nó có thể thúc đẩy sự hiệu quả kinh tế, lòng tin công chúng và điều khiển lạm phát. Trong những năm gần đây, nhiều quan chức Mỹ đã ủng hộ sự hỗ trợ lại của hệ thống bản vị năng. Nếu hệ thống này có thể làm việc như dự tính thì sẽ không cần đến 2 đồng tiền trên thế giới.

Kinh nghiệm cho thấy tỷ giá cố định không tốt trong khoảng thời gian kéo dài. Chính sách này được tạo ra nhằm ổn định giá cả từ 1972 đến 1976. Thực tế, giá cả bán buôn dao động rất mạnh trong khoảng thời gian này. Vương quốc Anh là một ví dụ điển hình. Chỉ số giá năm 1930 của Anh là 100, đến 1946 là 162 và năm 1956 lên 406, năm 1966 lên 507 và năm 1976 lên 1248. Nếu lạm phát có vẻ được điều khiển khi có mối liên kết giữa vàng và tiền thì tác động đó chỉ có tác dụng vào lúc đó hoặc đúng hơn là tạm thời. Cũng như vậy, để cho tỷ giá cố định hoạt động thì giá vàng phải cố định để điều chỉnh lạm phát, một đòi hỏi khó nếu có thể thực hiện được.

Những vấn đề khác đi kèm với tỷ giá cố định là dòng vốn quá lớn trong khủng hoảng và sự đóng cửa các thị trường tài chính. Theo Morgan Guaranty, giữa năm 1976 và 1985, dan Mehico và Venezuela đã gửi 53 tỷ đôla và 30 tỷ đôla tương ứng ra khỏi nước họ. Cũng vậy, sẽ là không thực tế nếu tin rằng nước Mỹ muốn sự cung tiền của họ được hậu thuẫn bởi vàng và lòng nhân từ của những nhà sản xuất vàng chủ yếu ở Nam Phi và Liên Xô.

Nếu tỷ giá cố định là hiệu quả thì không phải là hiện nay. Như ghi chú trong một bài báo của IMF: “hệ thống tỷ giá cố định và những cơ chế sửa đổi của nó tỏ ra hiệu quả trong thập kỷ hoạt động thứ hai của quỹ. Điều này chủ yếu là do tỷ lệ việc làm cao, tỷ lệ lạm phát tương đối cân bằng giữa các nước công nghiệp, nguyện vọng của các nước mà cán cân thương mại được làm mạnh trong suốt khoảng thời gian tích trữ đôla và sự sẵn sàng sửa đổi những biện pháp trong nước để điều chỉnh sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán.” Phần lớn nếu không muốn nói là tất cả những điều kiện cần thiết đều không tồn tại ngày nay.

Những người chỉ trích tỷ giá cố định cho rằng nó sẽ gây nên sự không chắc chắn mà sẽ làm cho suy giảm thương mại và tăng đầu cơ. Thực tế, từ 1973, thị trường ngoại hối đã tỏ rõ sự đàn hồi và khả năng duy trì tỷ lệ hối đoái hợp lý. Như kết luận trong một công trình nghiên cứu của IMF: “Sự không ổn định của tỷ giá cố định từ đầu những năm 1970 không ảnh hưởng đến thương mại thế giới.” Thực tế, xuất khẩu thế giới đều tăng đều trong 8 năm sau khi hệ thống thả nổi được áp dụng và rõ rằng là nó không ngăn cản xuất khẩu thế giới.

Những lời chỉ trích rằng sự không chắc chắn sẽ khuyến khích đầu tư và làm mất ổn định tỷ giá hối đoái là không thuyết phục. Hệ thống cố định sẽ rất khuyến khích đầu cơ khi cho phép họ không bao giờ thua lỗ khi tỷ giá đã đạt đến mức cao nhất và sẽ chỉ di chuyển một hướng. Nếu hệ thống thả nổi có yếu điểm gì thì hệ thống cố định cũng có, thậm chí mức độ còn lớn hơn.

Do sự thiếu thốn những quy tắc đi kèm với tỷ giá cố định, hệ thống thả nổi bị cho rằng kích thích lạm phát. Thực tế, hệ thống linh hoạt cho phép hiển thị những hậu quả của chính sách về lạm phát đối với công chúng, lao động, công nhân thông qua việc giảm giá trị đối ngoại và tăng giá trong nước. Sự công khai này tạo điều kiện để thi hành những chính sách hợp lý hơn để điều hoà tình thế mà không đi ngược lại trong không khí khủng hoảng, khi mặt trái có thể diễn ra. Lúc đó, quốc gia có thể theo đuổi sự hoà trộn giữa 2 mục tiêu thất nghiệp và giá cả mà họ thích và thường là cùng với sự cân bằng quốc tế.

Các quốc gia thành viên IMF có thể lựa chọn chính sách hối đoái trong số các chính sách: thả nổi kết hợp; thả nổi riêng rẽ; nối chặt với một đồng tiền khác, SDR hoặc một số đồng tiền mà họ chọn.


Thoả thuận về tỷ giá hối đoái áp dụng đối với các nước thành viên của IMF khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu trước mắt của mỗi nước ( xem bảng 18-4). Tỷ giá hối đoái của các đồng tiền biểu diễn ở bảng 18-5. Biểu đồ 18-3 biểu diễn sự biến động của chỉ ssó tỷ giá hối đoái của 5 loại tiền mạnh và cần chú ý rằng các tỷ giá này dù theo chế độ tiền nào, cố định hay thả nổi đều biến động.

Nên áp dụng hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý, do vấn đề phát sinh từ độ biến động cao trong ngắn hạn và biên độ dao động lớn trong trung hạn của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá thả nổi không phát huy tác dụng khi có khủng hoảng hay sau cuộc phục hồi kinh tế, có thể làm xấu đi vấn đề lạm phát do :

Khi Mexico phá giá đồng Peso năm 1976, nghiệp đoàn đã thắng lợi trong cuộc chiến đòi tăng lương 23% mà chỉ nhằm buộc chính phủ phải phá giá đồng tiền 2 tháng sau đó.

Nghiên cứu về chế độ tỷ giá áp dụng được tiến hành ở nhóm G10 gồm có Bỉ, Canada, Pháp,Tây Đức, ý , Nhật và Hà Lan, Thuỵ Điển, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ(Thuỵ Sỹ sẽ là thành viên thứ 11 năm 1983). Nhóm này mặc dù có 1 số nước không là thành viên chính thức của IMF, vẫn gắn liền 1 cách không chính thức với IMF thông qua:

1) Hiệp định chung về vay nợ(GAB).

2)


3)Vai trò của các nước G10 trong hoạch định chính sách của IMF.

Trong cuộc họp tổ chức tại Tokyo ngày 21/6/1985, nhóm G10 đã đưa ra kết luận / tuyên bố rằng trong môi trường toàn cầu đầy phức tạp và khó khăn hiện nay,việc trở lại áp dụng chế độ tỷgiá cố định là không thực tế. Theo lời các bộ trưởng tài chính và quan chức ngân hàng trung ương ở những nước công nghiệp này chế độ tỷ giá hiện nay có nhiều điểm mạnh của nó tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái đã góp phần tích cực vào việc điều chỉnh cán cân thanh toán và duy trì mọt hệ thống thanh toán và thương mại mở trước những cú sốc lớn từ bên ngoài. Tỷ giá hối thả nổi giúp các nước, đặc biệt là những nước lớn giữ được mức giá trong nước bị tác động dây chuyền bởi lạm phát ở quốc gia khác và dễ dàng theo đuổi chính sách tiền tệ đúng đắn trực tiếp gắn liền với điều kiện trong nước. Hơn nữa , người ta cũng đang nghi ngờ rằng liệu một hệ thóng kém linh hoạt hơn có làm sống lại những căng thẳng của thập kỷ qua hay không?

Mặc dù còn có những hạn chế nhưng hệ thống tỷ giá thả nổi đã đưa nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng dầu mỏ 1973-1974 một cách nhẹ nhàng. Kể từ đó , trải qua những cuộc lạm phát lớn, khủng hoảng nặng nề và sự đi chuyển tiền từ các nước tiêu thụ dầu mỏ sang các nước khai thác dầu mỏ, hệ thống tỷ giá thả nổi đã tự bộc lộ những ưu điểm của mình. Nhiều nhà quan sát tiếp tục tìm kiếm nhược điểm của hệ thống này tuy rằng các hệ thống tỷ giá hối đoái khác cũng có nhiều nếu không nói là nhiều hơn nhược điểm như vậy. Hiện nay tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý vẫn là tối ưu nhất.

Và các chiến lược tài chính

Theo một bản nghiên cứu, có một mối quan hệ giữa chính sách quản lý hối đoái bằng văn bản và quy mô hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên trên thực tế, quy mô khối lượng giao dịch ngoại thương sẽ không còn liên quan khi mà bất kỳ một Công ty phải kiểm tra những rủi ro về ngoại hối. Phần này sẽ trình bày các chiến lược tài chính nhằm giảm thiểu những rủi ro ngoại hối.

Bảng 18-4: Bảng tỷ giá hối đoái (1/6/1984) của các quốc gia

Nghiệp vụ tự bảo hiểm có một số hình thức khác nhau trong đó có 1 hình thức gắn liền với thị trường tiền tệ liên ngân hàng, áp dụng cho cả hìh thức giao dịch trả tiền và ngay cả hình thức giao dịch kỳ hạn. Một nhà nhập khẩu hoặc người mua có thể tuân theo 4 bước của Brinkman(xem chương trước). Cụ thể là , nhà nhập khẩu có thể mua ngay ngoại tệ trên trị trường giao ngay(thị trường trả tiền mặt) để sử dụng trong tương lai. Đến thười điểm nào đó trong tương lai mà chưa cần ngoại tệ để mua bán hàng hoá thì người bán hoặc người mua có thể tham gia vào thị trường tiền tệ có kỳ hạn với hợp đồng mua bán có kỳ hạn được sự chấp thuận của một ngân hàng về việc mua bán ngoại tệ tại một mức giá nào đó ở thời diểm trong tương lai. Các công ty quy mô nhỏ thường gặp khó khăn trong việc có được kỳ hạn từ ngân hàng của mình bởi 2 lý do:

1) Không có tên tuổi trên thị trường.

2) Quy mô giao dịch quá nhỏ, không đủ thu hút sự quan tâm của ngân hàng.

Không kể quy mô như thế nào thì bất kỳ công ty nào cũng có thể sử dụng thị trường vị lai để tự bảo hiểm . Sự khác biệt cơ bản giữa Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng vị lai là quy mô và ngày giao được quy định cụ thể trong hợp đồng vị lai còn hợp đồng kỳ hạn thì không. Điểm đặc biệt đó đem lại tính thanh khoản của thị trường vị lai, khiến cho việc ra vào thị trường dễ dàng vào bất cứ lúc nào. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng có thể các nhu cầu cá nhân có thể gặp nhau một các chính xác

Bảng 18-6: Liệt kê sự khác biệt giữa 2 loại thị trường tự bảo hiểm này.

Thị trường ngoại hối vị lai lớn nhất hiện nay là chi nhánh thị trường tiền tệ quốc tế (IMM) của sở giao dịch Chicago. Ngày 15/1/1986 hợp đồng mau bán Ecu được bổ sung trong hoạt động thương mại ( xem bảng 18-4). Hàng hoá mang tính toàn cầu này đòi hỏi sự giám sát trong vòng 24h. Để đáp ứng nhu cầu đó, LIFFE(sở giao dịch tài chính quốc tế Luân đôn) và SIMEX(Sở giao dịch tài chính quốc tế Singapỏe) 2 môt hình hoạt động giống IMM tiến hành mua bán thực trong 24h. Bảng 18-5:Ghi lại.

Một hình thức tự bảo hiểm khác là giao dịch quyền chọn bán mua tiền tệ mặc dù đến nay, hình thức này vẫn là bất hợp pháp ở HoaKỳ. Đặc điểm quan trọng nhất của hình thức giao dịch này là người mua phải trả phí chọn mua, người mua phải trả phí chọn mua . Người mua quyền chọn mua/bán có quyền mua/bán một số ngoại tệ nhất định theo giá ấn định trước 1 thời điểm ấn định trong tương lai và có thể bán lại quyền này cho người khác.

Lạm phát làm giảm nhu cầu cho vay nhưng làm tăng nhu cầu đi vay bởi vì 1 khoản nợ khi đáo hạn được trả lại với chi phí thấp hơn. Một quốc gia mà tỷ lệ lạm phát cao thường là có đồng tiền yếu đi kèm theo với lãi suất cao. Một quốc gia có lãi suất cao không nhất thiết phải có biện pháp để đẩy các khoản vay ra ngoài quốc gia.

Trong điều kiện thương mại quốc tế phức tạp cần xem xét 2 chiến lược đi đầu hay tụt lại đầu các công ty

áp dụng cho đa quốc gia với mạng lưới công ty con đã sử dụng 1 số biện pháp để giảm bớt việc sử dụng ngoại tệ trong giao dịch” Cần có 1 số điều chỉnh về tốc độ thanh toán qua tài khoản giữa công ty con với công ty con khác. Công ty con nơi có đồng tiền mạnh có thể trì hoãn hoặc chậm lại việc gửi cổ tức, tiền bản quyền phát minh và phí sử dụng cho công ty khác cùng thuộc 1 công ty đa quốc gia để giảm boát các khoản phải trả và các chứng minh về tài sản”.

Đồng tiền sử dụng trong hoá đơn cần được xem xét cẩn thận. Khi người mau dùng đồng tiền yếu còn người bán lại dùng đồng tiền mạnh thì hoá đơn nên sử dụng đồng tiền của người bán. Nếu ngược lại thì sử dụng đồng tiền của người mua, hoặc nước thứ 3 được lựa chọn khi cả 2 đồng tiền đều mạnh thì sử dụng đồng tiền lập hoá đơn cũng có thể áp dụng khi công ty con giao dịch với công ty khác ngoài công ty đa quốc gia- công ty mẹ của nó.


Каталог: contents
contents -> Th ng t­ liªn tÞch
contents -> Sau khi nghiên cứu điều kiện đăng ký dự tuyển viên chức của (2), tôi thấy có đủ điều kiện để tham dự kỳ thi tuyển
contents -> HỘI ĐỒng nhân dân tỉnh sơn la số: 77/nq-hđnd cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
contents -> Của Thủ tướng Chính phủ số 120/2008/QĐ-ttg ngày 29/8/2008 Về việc quy định điều kiện xác định người bị phơi nhiễm với hiv, bị nhiễm hiv do tai nạn rủi ro nghề nghiệp
contents -> Số: 287/QĐ-btnmt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
contents -> Bé y tÕ Sè: 1369/ byt-q§ Céng hoµ x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam
contents -> Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012
contents -> Quy đỊnh việc xử phạT VI phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, SỬ DỤng tài sản nhà NƯỚC; thực hành tiết kiệM, chống lãng phí; DỰ trữ quốc gia
contents -> Ch­¬ng tr×nh häc bæng cña c ng ty Human Resorcia dµnh cho sinh viªn ngµnh kü thuËt Th ng b¸o vÒ kÕ ho¹ch pháng vÊn, trao häc bæng vµ khai gi¶ng líp häc tiÕng NhËt
contents -> ĐỊnh hưỚng nghiên cứu khoa học cho chưƠng trình phòNG, chống hiv/aids giai đOẠN 2016 -2020

tải về 4.84 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   34




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương