Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam



tải về 467.41 Kb.
trang5/9
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích467.41 Kb.
#20476
1   2   3   4   5   6   7   8   9

V. ĐIỀU KHOẢN GIAO HÀNG


1. Điều kiện cơ sở giao hàng.

Các hợp đồng mẫu đều có sự vận dụng một trong những điều kiện cơ sở giao hàng đã được hình thành trong buôn bán quốc tế để phân chia trách nhiệm về việc giao hàng. Đó là các điều kiện như EXWORK, EX WARE-HOUSE, FOB, CIF, CFR v.v..

Các điều kiện này được giải thích một cách rất khác nhau bởi các tập đoàn buôn bán, bởi tập quán ngành hàng và bởi tập quán địa phương. Phòng thương mại quốc tế đã có công thống nhất giải thích các điều kiện đó trong văn bản “ các điều kiện thương mại” gọi tắt là Incoterms.

Các hợp đồng mẫu đã dẫn chiếu đến Incoterms bằng công thức, chẳng hạn như:

- Giá hàng được hiểu là FOB /CIF/CFR cảng… theo Incoterms 1990 (the price to be understood interested in accordance with Incoterms 1990.

- Hợp đồng này chịu sự điều tiết của những quy định trong Incoterms 2000 (the contract will be governed by the provision of Incoterms 2000).

Những hợp đồng không dẫn chiếu đến Incoterms thường có quan niệm rất khác nhau về điều kiện cơ sở giao hàng. Chẳng hạn, đã có trường hợp người ta quan niệm điều kiện CIF giống như điều kiện EX SHIP (mà ngày nay, theo Incoterms là DES).

Sở dĩ có sự hiểu lầm giữa CIF và EX SHIP là vì, trong nhiều lúc, người ta không phân biệt giữa hàng giao thực tế (actual delivery) với giao hàng tượng trưng (Symbol delivery) CIF thuộc loại giao hàng tượng trưng, trong đó giao chứng từ được coi là giao hàng, nếu chứng từ hợp lệ thì người mua phải trả tiền. Còn EX SHIP (tức DES) thuộc loại giao hàng thực tế, trong đó người bán phải thực sự đặt hàng hoá dưới sự định đoạt của người mua trên tàu tại cảng đến quy định.

Theo Incoterms, khi hàng được giao bằng container hoặc tàu RO/RO thì cần thay điều kiện FOB bằng điều kiện FIA, thay CFR bằng CPT, thay CIF băng CIP.

2. Thời gian giao hàng.

Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên giao dịch không có thoả thuận gì khác, thời hạn này cũng là lúc di chuyển rủi ro và tổn thất về hàng hoá từ người bán sang người mua.

Trong buôn bán quốc tế, người ta có 3 kiểu quy định thời hạn giao hàng như sau:

- Thời hạn giao hàng có định kỳ: theo phương pháp này người ta có thể xác định thời hạn giao hàng.

+ Hoặc vào một ngày cố định, ví dụ vào ngày 30 tháng 5 năm 2000

+ Hoặc vào một ngày được coi là ngày cuối cùng của thời hạn giao hàng, ví dụ: Không chấp nhận quá ngày 30 tháng 5 năm 2000.

+ Hoặc bằng một khoảng thời gian như: quý 3 năm 2000

+ Hoặc bằng một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo sự lựa chọn của một trong hai bên, ví dụ: trong vòng 6 tháng sau khi ký kết hợp đồng tuỳ theo sự lựa chọn của người bán (within 6 months after concluding the contract, at the sellers option) từ tháng 2 đến tháng 7 tuỳ người mua lựa chọn (delivery Feb./Jul. at the buyers option)…


  • Thời hạn giao hàng ngay: theo phương pháp này các bên giao dịch có thể thoả thuận:

+ Giao nhanh ( Prompt)

+ Giao ngay lập tức (immediately)

+ Giao càng sớm càng tốt ( as soon as possible)

+ V.v…


Nội dung của những qui định trên đây được giải thích ở từng nơi, từng vùng, từng ngành một khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ người ta giải thích “giao ngay” là giao trong vòng 5 ngày sau khi ký kết hợp đồng, “giao gấp” là giao trong vòng 5 ngày đến 10 ngày sau khi ký kết hợp đồng.

Trong bản “ qui tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ” (bản sửa đổi năm 1993), phòng thương mại quốc tế giải thích một cách thống nhất “các từ ngữ đó là yêu cầu gửi hàng trong thời gian 30 ngày kể từ ngày mở thư tín dụng” (tài liệu của phong thương mại quốc tế số 500)



- Thời hạn giao hàng không định kỳ: Đây là cách quy định chung chung ít được dùng. Theo cách này người ta có thể thoả thuận như:

+ Giao hàng cho chuyến tầu đầu tiên (Shipment by first available steamer).

+ Giao hàng khi nào có khoang tàu (Subject to shipping space available )

+ Giao hàng sau khi nhận được L/C (Suject to the opening of L/C)

+ Giao hàng khi nào xin được giấy phép xuất khẩu (subject to export licence.

Trong hợp đồng mẫu có thể dành chỗ cho việc ghi ngày giao hàng, cũng có thể dành chỗ cho việc ghi tháng giao hàng. Theo công ước Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (công ước Vienna1980) “Người bán phải giao hàng đúng vào ngày mà hợp đồng đã quy định cho việc giao hàng”. Vì vậy khi quy định ngày giao hàng, người bán phải giao trước 24 giờ ngày đó; còn khi qui định tháng giao hàng, người bán phải tiến hành việc giao hàng vào một ngày trong tháng đó (tính từ ngày đầu tiên đến ngày cuối tháng).

Tuy nhiên, nếu ngày ấn định giao hàng lại là một ngày không làm việc (Tiếng Anh: Non-business day, non-market day) thì, theo một số hợp đồng mẫu, người bán phải giao hàng vào ngày tiếp theo.

Nhiều khi các bên trong hợp đồng lại dùng những thuật ngữ chung chung để quy định thời gian giao hàng như: “giao càng sớm càng tốt” (as soon as posible – viết tắt là: asap)…những thật ngữ này được mỗi tập đoàn giải thích một khác.



Dưới đây là cách hiểu của các tập đoàn đối với các thuật ngữ chỉ thời gian giao hàng tính từ lúc ký hợp đồng:

(Đơn vị: ngày)

NHÓM HÀNG

TÊN TẬP ĐOÀN

TẠI CHỖ SPOT

NHANH QUICK

LẬP TỨC IMMEDIATE

GẤP PROMPT

Ngũ cốc

Chambre Arbitrale-Anvers

6




6

31

Ngũ cốc

Associasione dei Cereale-Genova




8

5




Hạt có dầu

Seed, Oil, Cake Association –Liverpool







7-21

7-21

Hạt có dầu

Foreign comm. Asso – San Francisco

1

2

5

10

Hạt có dầu

Nat. Cottonseed Prod. Asso.-New Orleans







5

10

Đường

Refined Sugar Asso







3

14

Cao su

Rubber Trade Asso –Newyork










10

Bông

Assol de coton –Haver







14

15-30

Bông

Alexandria Cotton Asso- Egypt










14

Gỗ

Timber Trade Feeder of U.k










45

Kim loại

London Metal Exchange










5

Phòng thương mại quốc tế đã giải thích – trong các UCP (Điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ) rằng tất cả các thuật ngữ trên đều có nghĩa là hàng được giao trong vòng 30 ngày kể từ ngày L/C được mở.

Trong các hợp đồng mẫu do các sở giao dịch hàng hoá soạn thảo, người ta thường nêu ra 2 thời hạn giao hàng: thời hạn giao hàng cơ sở (basic delivery) và thời hạn giao hàng có thể kéo dài (tenderable delivery) khi đến thời hạn giao hàng cơ sở, nếu một bên thấy việc thanh toán hợp đồng không có lợi cho mìng thì có thể nộp một số tiền bù để hoãn mua hặc hoãn bán là Backwardation.



3. Địa điểm giao hàng.

Địa điểm giao hàng thường được ghi bên cạnh điều kiện cơ sở giao hàng. Trong các hợp đồng mẫu, người ta để chừa một khoảng trống sau điều kiện cơ sở giao hàng để các đương sự ghi địa điểm giao hàng.

Đối với các hợp đồng giao hàng tại chỗ (spot contract), việc quy định địa điểm giao hàng là khôg có gì phức tạp. Nhưng đối với các hợp đồng CIF, người ta phải ghi rõ tên hai cảng: cảng bốc hàng (loading port) và cảng dỡ hàng (discharging port).

Cũng không ít khi người ta còn quy định cảng giao nhận về số lượng và cảng giao nhậ về chất lượng hàng.

Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và đến điều kiện cơ sở giao hàng. Mặc dù nói chung điều kiện cơ sở giao hàng đã xác định rõ địa điểm giao hàng, ví dụ khi thoả thuận giao hàng theo điều kiện FOB Marseille, FOB Liverpool thì địa điểm giao hàng đã được quy định rồi. Tuy nhiên, có những điều kiện cơ sở giao hàng chỉ xác định cảng đến mà không xác định cảng đi (ví dụ điều kiện CIF, CFR) hoặc có trường hợp hai bên muốn giành giật hơn nữa lợi thế về mình. Vì thế, hai bên có thể còn phải thoả thuận quy định địa điểm giao hàng.

Trong buôn bán quốc tế, người ta phân biệt các phương pháp sau đây về việc quy định địa điểm giao hàng.

- Quy định cảng (ga) giao hàng, cảng (ga), đến, cảng (ga) thông qua.

- Quy định một cảng (ga) và nhiều cảng (ga): trong trường hợp đối tượng giao dịch là hàng bách hoá người ta thường chỉ quy định một địa điểm hàng đi hoặc một địa điểm hàng đến. Nhưng khi giao dịch về hàng hoá có khối lượng lớn, người ta có thể quy định nhiều địa điểm gửi hàng và - hoặc nhiều địa điểm hàng đến. Ví dụ, cảng đi: Hải Phòng/ Đà Nẵng/ TP Hồ Chí Minh; Cảng đến: Luân đôn/ Livơpun/ Hămbua.

- Quy định cảng (ga) khẳng định và cảng (ga) lựa chọn: dù có quy định một hoặc nhiều cảng (ga) nhưng phương pháp trên vẫn khẳng định nơi giao hàng. Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế nhiều khi người ta còn cho phép một bên lựa chọn cảng khẩu (optional ports) trong trường hợp này người ta có thể quy định bằng một trong hai phương pháp sau:

* Trong thuật ngữ về điều kiện cơ sở giao hàng, các bên giao dịch lựa chọn thêm một cảng thứ hai hoặc thứ ba, ví dụ: FOB Hămbua/ Rot-tec-dam/ Am-xtec-dam; điều kiện CIF Luân đôn/ Rortecdam/ Hămbua.

* Các bên giao dịch quy định những cảng chủ yếu của một khu vực nào đó được coi là cảng lựa chọn đối với một trong hai bên. Ví dụ, nếu các bên quy định: “ CIF European main ports” hoặc “CIF EMP” thì đến lúc giao hàng, bên mua có thể chỉ định bất cứ một cảng nào đó trong số các cảng chủ yếu của Châu Âu làm cảng hàng đến.

Thật ra trong cách quy định thứ hai này vẫn có thể xảy ra tranh chấp vì, trong số các cảng của Châu Âu hiện nay vẫn chưa có một quy định cụ thể những cảng nào là cảng chủ yếu.



4. Phương thức giao hàng.

Thực tiễn giao hàng trong mua bán hàng hoá đã làm nảy sinh nhiều phương thức giao hàng.

Người ta có thể quy định việc giao nhận được tiến hành ở một nơi nào đó là giao nhận cuối cùng. Việc giao nhận sơ bộ thường được tiến hành ở ngay địa điểm sản xuất hàng hoá hoặc ở nơi gửi hàng. Việc giao nhận sơ bộ thường có mục đích là bước đầu xem xét hàng hoá, xác định sự phù hợp về số lượng và chất lượng hàng so với quy định trong hợp đồng. Trong khi giao nhận sơ bộ, người mua có quyền đòi hỏi khắc phục khuyết điểm hàng hoá trước khi giao hàng. Việc giao nhận cuối cùng có mục đích xác nhận việc người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng về các mặt số lượng, chất lượng hàng, thời gian giao hàng. Qua đó, hai bên thừa nhận các kết quả kiểm tra hàng hoá đã lấy được ở nơi giao nhận cuối cùng. Người ta cũng có thể quy định việc giao nhận được tiến hành ở một địa điểm nào đó là việc giao nhận về số lượng hoặc là việc giao nhận về chất lượng.

Giao nhận về số lượng là xác định số lượng thực tế của hàng được giao bằng các phương pháp cân, đo, đếm. Việc giao nhận bằng số lượng được tiến hành ở đâu là tuỳ theo điều khoản quy định trong hợp đồng. Ví dụ, nếu hợp đồng quy định “ trọng lượng bốc hàng” thì địa điểm xác định trọng lượng là cảng gửi hàng, thời gian xác định là khi giao hàng.



5. Thông báo giao hàng.

Các điều kiện cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ về thông báo giao hàng. Nhưng, bên cạnh đó, các bên giao dịch thường vẫn thoả thuận thêm về nghĩa vụ thông báo giao hàng. Trong khi thoả thuận về việc này, người ta thường quy định về số lần thông báo giao hàng và những nội dung cần được thông báo.

Thời gian hoàn thành nghĩa vụ giao hàng được khá nhiều hợp đồng mẫu quan tâm quy định. Theo phần lớn các hợp đồng mẫu, ngày giao hàng được xác định “bằng ngày vận đơn được cấp hoặc sẽ được cấp” (tiếng anh: as per bill of lading dated or to be dated). Đa số các hợp đồng thuộc loại này còn quy định rằng, nếu không có bằng chứng khác thì vận đơn đường biển được công nhận là bằng chứng ngày bốc hàng lên tầu. Một số hợp đồng còn đề cao giá trị này của vận đơn bằng cách quy định rằng nếu muốn phủ nhận bằng chứng của vận đơn thì phải đưa ra bằng chứng “có khả năng thuyết phục” (conclusive). Những hợp đồng khác không công nhận những bằng chứng khác ngoài vận đơn về ngày bốc hàng.

Vì ngày của vận đơn quan trọng như thế cho nên để xác định thời gian hoàn thành việc giao hàng các hợp đồng thường quy định khi nào thì ghi ngày vào vận đơn. Đa số hợp đồng ngũ cốc của London quy định vận đơn phải đề ngày hàng thực sự đã nằm trên tầu biển, các vận đơn nhận hàng để xếp (Received for shipment bill of lading) không được công nhận là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.

Hầu hết các hợp đồng mẫu đều có một hay nhiều điều khoản cho hoãn hoặc miễn giao hàng nếu gặp những trở ngại khách quan (không phụ thuộc vào đương sự) cản trở việc giao hàng đó. Điều khoản này có thể mang tên là điều khoản “trường hợp bất khả kháng” (Force majeure), điều khoản “ngoại lệ” (exception) điều khoản “miễn trách”

Thông thường thời hạn giao hàng được hoãn trong một thời gian tương ứng với thời gian diễn biến của trở ngại cộng với thời gian khắc phục hậu quả của nó để thực hiện hợp đồng. Khi trở ngại kéo dài, quá một thời gian đã được quy định thì, với những điều kiện nhất định, một bên có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng.

Một số hợp đồng không quy định thời hạn cụ thể để sau đó có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng. Mà chỉ quy định đó chỉ là thời gian quy định hợp lý (Reasonable time). Cũng có hợp đồng mà, nếu ta suy diễn từng chữ trong đó, lại không cho huỷ hợp đồng, không kể tới thời gian dài hay ngắn của sự việc trở ngại, đương sự vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.

Ngoài nguyên nhân khách quan trên đây, việc giao hàng có khi còn phụ thuộc vào chủ quan của đương sự. ở một vài hợp đồng mẫu, chúng ta có một điều khoản đặc biệt, gọi là “điều khoản gia hạn” (extension clause), cho đương sự được quyền hoãn giao trong một vài ngày (có thể tối đa là 8 ngày), miễn là phải trả cho đối tác của mình một khoản tiền thích ứng. Như vậy, người bán có quyền lựa chọn quyền giao hàng đúng hạn với việc hoãn giao hàng và chịu phạt. Nhưng khi sử dụng quyền hoãn giao hàng người bán phải báo cho người mua biết.



6. Những quy định khác về việc giao hàng.

Ngoài những vấn đề nêu trên, trong điều kiện giao dịch, căn cứ vào nhu cầu của bên mua, vào khả năng của bên bán và vào những đặc điểm của hàng hoá, người ta có những quy định đặc biệt như sau:

- Đối với những hàng hoá có khối lượng lớn, người ta có thể quy định “cho phép giao hàng từng đợt” (partial shipment).

- Nếu trên dọc đường đi cần phải thay đổi phương tiện vận chuyển, người ta có thể quy định “cho phép chuyển tải” (transhipment alloed).

- Nếu cảng gửi hàng ở gần cảng đến, khi hành trình của giấy tờ lại chậm hơn hành trình hàng hoá, người ta có thể quy định “ vận đơn đến chậm được chấp nhận”.

- Nếu người bán uỷ nhiệm cho một người thứ ba đứng ra thay mặt mình đứng ra giao hàng, người ta có thể quy định “vận đơn người thứ ba được chấp nhận” (thirdparty B/L acceptable).



Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học văn hóa hà NỘi khóa luận tốt nghiệP

tải về 467.41 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương