TRƯỜng đẠi học văn hóa hà NỘi khóa luận tốt nghiệP



tải về 324.07 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu18.08.2016
Kích324.07 Kb.
#22440
  1   2   3   4

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

===========

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài: Dân ca của người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở Đồng Văn - Hà Giang

_______________

Sinh viên: Phạm Thị Lan

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Long



LỜI MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài

Văn hoá chính là nền tảng để xây dựng một xã hội phát triển toàn diện. Là một quốc gia có 54 dân tộc cư trú ở mọi miền đất nước, với cội nguồn lịch sử, tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán mang những đặc trưng khác nhau nên đời sống văn hoá nói chung cũng rất đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những đóng góp tích cực vào việc làm phong phú cho vốn văn hoá của đất nước Việt Nam. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu về văn hoá của các dân tộc thiếu số là điều rất cần thiết.

Cũng như nhiều dân tộc khác, dân tộc Lô Lô có bề dày truyền thống văn hoá và rất giàu về vốn văn hoá dân gian. Vối văn hoá dân gian ấy ra đời cùng với sự hình thành của dân tộc, được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường kinh tế xã hội.

Một trong những nét tiêu biểu về văn hoá nghệ thuật của người Lô Lô là dân ca. Người Lô Lô coi dân ca của dân tộc mình như một món ăn tinh thần không thể thiếu được. Dân ca của dân tộc Lô Lô đã tạo nên sự gắn kết cộng đồng, có mặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Lô Lô.

Trong thời kỳ đất nước đổi mới như hiện nay, một thời kỳ mở cửa với nền kinh tế thị trường, sự du nhập và giao thoa về kinh tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hoá. Trong văn hoá nói chung, văn hoá truyền thống ngày càng mờ nhạt dần đi, thay thế vào đó là văn nghệ hiện đại với dòng nhạc trẻ ngoại lai mà lớp thanh niên ưa thích rồi lãng quên văn nghệ dân gian truyền thống của dân tộc mình. Vì vậy, công tác thông tin tuyên truyền hiện nay, đặc biệt đối với một huyện miền núi như Đồng Văn, đã được các cấp các ngành rất quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể, với nhiệm vụ quan trọng là tuyên truyền những chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng tới bà con vùng sâu, vùng xa, trên địa bàn huyện. Tuyên truyền bằng nhiều hình thức, trong đó tuyên truyền bằng hoạt động văn nghệ là rất quan trọng. Tuy vậy, ở Hà Giang, trong công tác tuyên truyền, việc vận dụng các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của từng dân tộc, từng địa bàn xã chưa được quan tâm đầy đủ nên chưa thu được kết quả cao. Vì vậy người viết chọn đề tài: "Dân ca của người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở Đồng Văn - Hà Giang" làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp, với mong muốn củng cố kiến thức trong thời gian học tập tại trường, làm cơ sở ban đầu cho việc vận dụng lý luận, lý thuyết vào thực tiễn công tác tại địa phương.

II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1. Đối tương: Dân ca Lô Lô

2. Phạm vi: Dân ca Lô Lô ở huyện Đồng Văn - Hà Giang và việc sử dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền.

III. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã dân tộc học là phương pháp mà người viết sử dụng chủ yếu để thủ thập tài liệu.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (xã hội học, văn hoá học, văn học).

- Phương pháp miêu tả, so sánh, phân tích tổng hợp để xử lý tư liệu thu được.



IV. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu các giá trị nghệ thuật và vị trí của dân ca Lô Lô trong các dân tộc thiểu số.

Đề xuất ý kiến về việc sử dụng dân ca Lô Lô vào hoạt động thông tin tuyên truyền.

Góp phần khẳng định giá trị của dân ca dân tộc Lô Lô và cho thấy dân ca có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện đại.



V. Bố cục

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:



Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, con người ở Đồng Văn - Hà Giang

Chương 2: Đặc điểm dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang

Chương 3: Sử dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI

Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG

1.1 Điều kiện tự nhiên

Đồng Văn là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Hà Giang, nằm ở điểm cực Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý trong tọa độ từ 23006' đến 230 -21' - 17'' vĩ bắc, 1050 - 24'-40'' kinh đông, phía Bắc và Tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài đường biên giới quốc gia 52,5 km, phía Nam giáp huyện Yên Minh, phía Đông giáp huyện Mèo Vạc. Huyện có 18 xã và 1 thị trấn.

Huyện có diện tích tự nhiên là 44.666 ha, trong đó 11.837 ha là đất sản xuất nông nghiệp. Diện tích núi đá chiếm 73,49%. Địa hình phức tạp, có nhiều núi cao, vực sâu chia cắt. Nhiều ngọn núi cao như Lũng Táo 1.911m, Cán Tỷ 1.491 m án ngữ phía Tây và phía Nam với dãy Mã Pì Lèng dựng đứng bên bờ sông Nho Quế làm cho địa hình khó khăn về đi lại, giao lưu, tạo nên sự cách biệt giữa các vùng và trong sự nghiệp mở mang, phát triển kinh tế, văn hoá. Độ cao trung bình 1.200m so với mặt nước biển. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông.

Nhiệt độ trunh bình hàng năm từ 170 - 190C. Do địa hình núi cao, chia cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt, nhiều vùng khác nhau (khí hậu tiểu vùng). Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.600mm đến 2.000 mm. Một năm chia làm 2 mùa: Mùa mưa từ tháng 5 - 10, vào mùa này mưa lớn, núi đá có độ dốc cao xói lở mạnh, chia cắt, đi lại khó khăn. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thường có sương mù, sương muối. Ở một vài tiểu vùng nhiệt độ có lúc xuống tới 40 - 50 như ở Lán Xì, Phó Bảng… Thời tiết khí hậu khắc nghiệt vào mùa đông (tháng 11,12) nhiều ngày có tuyết và sương muối phủ. Mùa đông ít mưa, khô lạnh, địa hình kiến tạo núi đá vôi, rừng nguyên sinh cạn kiệt, khí hậu thuỷ văn khắc nghiệt làm cho khan hiếm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất, gây khó khăn cho cuộc sống của con người.

Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các dẫy núi phía Tây Bắc của huyện, chảy qua Malé. Đồng Văn sang Mèo Vạc và Bắc Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn sinh thuỷ quốc tế trong phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt và điều hoà khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra còn có các dòng suối nhỏ như Lũng Táo chảy về Yên Minh, suối Đồng Văn, suối ở Phó Bảng, Phố Là mùa mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời trên địa bàn hình núi đá vôi để lại những thắng cảnh đẹp cho Đồng Văn. Địa hình đá vôi cũng làm cho Đồng Văn thiếu nước sinh hoạt và tưới tiêu nghiêm trọng. Thời tiết khí hậu Đồng Văn mang tính ôn đới, thích hợp trồng các loại cây ăn quả và cây thuốc như: đỗ trọng, huyền sâm, xuyên khung, ý dĩ, thảo quả… Đồng Văn có giống chè ngon nổi tiếng phù hợp với vùng đất Lũng Phìn.

Rừng Đồng Văn có thảm thực vật phong phú, thích hợp cho sự phát triển nhiều loại như: cây dẻ, sồi, thông đá, pơmu… nhưng do bị khai thác bữa bài nên đã cạn kiệt. Động vật có các loại như: sóc, gà lôi, nhím, trăn, rắn, tê tê… Do không còn rừng và nạn săn bắn nên nhiều loài gần như tuyệt chủng. Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa phát hiện ra loại nào có trữ lượng lớn và giá trị cao. Tuy nhiên đây cũng là vùng đất ấn tượng với những địa danh như Cột cờ, Lũng Cú, những phong tục tập quán riêng của người dân, với những dãy núi đá tai mèo, với di tích lịch sử nhà Vương... Tất cả được hội tụ tạo nên cao nguyên đá Đồng Văn mang những giá trị địa lý, môi trường đặc sắc nơi cực Bắc Tổ quốc.



1.2. Điều kiện kinh tế xã hội

Đồng văn có dân số khoảng 5,7 vạn người, với 17 dân tộc anh em như: Mông, Dao, Lô Lô, Tày, Giấy, Cờ Lao, Pu Pèo,.. các dân tộc sống xen kẽ ở 220 xóm bản, trong đó dân tộc Lô Lô có khoảng 500 người.



2.1.1. Lịch sử tộc người Lô Lô

Người Lô Lô có mặt từ bao giờ trên lãnh thổ Việt Nam và họ có phải là cư dân của vương quốc Nam Chiếu cổ đại không? Câu hỏi lớn này dường như đã được nhắc đến nhiều lần, nhưng vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Tuy vậy, qua nhiều nguồn sử liệu cho thấy, dân tộc Lô Lô có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, ít ra là khoảng trên dưới 500 năm. Đồng bào đến Việt Nam qua nhiều đợt thiên di bởi ở quê cũ có chiến tranh, loạn lạc và họ bị đàn áp nặng nề hoặc bị mất mùa đói kém, bệnh dịch... Đến Việt Nam, người Lô Lô đã có công khai khẩn đất đai ở vùng cao biên giới núi đá Hà Giang và Bảo Lạc (Cao Bằng). Công lao của người Lô Lô được các dân tộc ở Hà Giang, Cao Bằng luôn ghi nhận trong cõi tâm linh sâu thẳm của tập quán. Việt Nam là quê hương lâu đời của người Lô Lô, đồng bào là một trong những thành phần dân tộc cấu thành Đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Người Lô Lô ở Việt Nam có 3.350 người cư trú ở 2 tỉnh Hà Giang vào Cao Bằng, gồm hai ngành Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa; ở Hà Giang đều có cả hai nhóm tộc người đó. Hai nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa khác nhau về trang phục, còn ngôn ngữ và phong tục tập quán không có gì khác biệt nhiều.

1.2.2. Đặc điểm kinh tế của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang

Những vùng người Lô Lô sinh sống hầu hết là núi đá, đất dốc, ruộng không nhiều, phần lớn là những ruộng cạn trên một vùng quanh năm thiếu nước cho nên chỉ cấy được một vụ rồi bỏ hoang. Gần đây được sự giúp đỡ của chính quyền, bà con trồng thêm một vụ đông với các loại rau cải, đậu hoặc ngô vụ đông xuân.

Do điều kiện diện tích đất gieo trồng thấp và khí hậu khắc nghiệt nên đòi hỏi phải có những biện pháp kỹ thuật để tăng hiệu suất canh tác. Chính điều đó đã khiến cho người Lô Lô được biết đến như những người giỏi kỹ thuật canh nông. Từ lâu, kỹ thuật thâm canh của đồng bào Lô Lô cũng như hầu hết cư dân của vùng cao phía bắc Hà Giang đã trở nên nổi tiếng. Nương đá dốc nên phải be đá làm bờ trên nương đá để chống rửa trôi đất, đồng thời đắp bờ giữ ẩm, giữ màu và bón phân cho đất. Bộ nông cụ đồng bào dùng là bộ nông cụ phổ biến đối với các cư dân vùng cao núi đá phía Bắc Hà Giang.

Cây trồng chính của người Lô Lô là lúa, ngô, tam giác mạch. Ngoài ra còn xen kẽ bầu, bí, rau, đậu... Nghĩa là hầu hết các loại cây trồng khác nhau thích hợp với chế độ thổ nhưỡng, thuỷ văn của khu vực vùng núi cao đều được gieo trồng ở nơi mà đồng bào Lô Lô sinh sống.

Vào tháng 2 âm lịch, đồng bào bắt đầu cày ruộng màu và xới đất thổ canh hốc đá. Đất này được phơi ải đồng thời chuẩn bị sang cuối tháng 3 âm lịch người ta đốt cỏ trên nương đá và xới lại đất để tra hạt. Giống ngô địa phương dài ngày là giống ngô có khả năng chịu hạn, chịu rét và cho năng suất cao. Như hầu hết các cư dân vùng cao, kỹ thuật trồng ngô hốc đá không thể làm khác hơn là chọc lỗ tra hạt. 6 tháng sau thì ngô cho thu hoạch. Lúc này nhà nào có ruộng lúa thì cũng vào thu. Nhờ biết xen canh (tra ngô lẫn với các loại rau đậu), gối vụ (ngô với tam giác mạch hoặc với đậu) nên đồng bào có thể tận dụng được khả năng tối đa của đất đồng thời tạo ra lớp phủ thực vật dày chống xói mòn.

Có thể coi dân tộc Lô Lô là những cư dân nông nghiệp có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường. Ngoài trồng trọt, họ còn nuôi nhiều gia súc, gia cầm để giải quyết sức kéo và nhu cầu thực phẩm thiết yếu. Ngành nghề thủ công ở người Lô Lô ít phát triển hơn so với các tộc người khác. Nhưng đồng bào lại nổi tiếng bởi nghề may vá thêu thùa. Những bộ trang phục nữ Lô Lô có thể coi là những sản phẩm độc nhất vô nhị trên vùng cực bắc Hà Giang.



1.2.3. Phong tục tập quán

* Về ăn uống

Bữa ăn phản ánh rất rõ tập quán sản xuất và hoàn cảnh kinh tế. Lương thực chính là mèn mén làm từ bột ngô đồ như những tộc người vùng cao khác. Cơm gạo hiếm nên chỉ dùng trong những ngày lễ tết và để dành cho người ốm, trẻ nhỏ, phụ nữ mới sinh. Giống như người Mông, người Lô Lô xay ngô bằng một loại cối đá lớn thành bột mịn rồi đem đồ trong một cái chõ lớn. Khi gần chín, bột ngô được đổ ra một cái nia, vẩy nước trộn đều lại rồi đồ tiếp lần hai cho chín kỹ. Trong bữa ăn phải có thêm canh rau. Các loại thực phẩm như thịt, cá không phải lúc nào cũng sẵn do chăn nuôi khó khăn. Đồng bào thường dùng thức ăn thịt, cá khi nhà có khách, có công việc, có tế lễ… Phần lớn thức ăn được cất trữ từ những dịp tết cuối năm, đó là các loại thịt lợn, thịt trâu, bò tẩm ướp muối, gia vị rồi treo lên gác bếp làm thức ăn dần trong cả năm.

Người Lô Lô còn tự chưng cất rượu từ ngô, dùng men lá tự chế hay men thuốc bắc mua của những người Hán. Cũng như nhiều cộng đồng cư dân khác, đối với người Lô Lô rượu là một loại đồ uống không thể thiếu trong những mâm cỗ cúng tế và cũng là thứ dùng hàng ngày của đàn ông để chống mỏi mệt sau khi làm việc nặng nhọc hoặc khi tiếp đãi bạn bè, khách khứa. Ngoài ra còn phải kế đến một loại thuốc hút tự trồng. Đó là một loại thuốc lá, giống địa phương, được trồng phổ biến trong nhiều cộng đồng cư dân khác nhau.

* Về mặc:

Người Lô Lô ở Hà Giang có cả nhóm Lô Lô Hoa (Màn Dì Qua) và nhóm Lô Lô Đen (Màn Dì No). Trang phục của hai nhóm này cơ bản giống nhau, điều khác chủ yếu là có nơi phụ nữ mặc áo cổ vuông chui đầu (pon cho) có nơi mặc áo cổ tròn xẻ ngực, kỹ thuật tạo dáng áo của phụ nữ có nơi thân áo rộng thẳng, tay áo rộng, có nơi thân áo phía dưới thu nhỏ lại, tay áo hẹp...

Trang phục nam Lô Lô cũng giống như phần lớn các cộng đồng khác trong vùng: Đó là chiếc quần chân què lá toạ, đũng và ống đều rộng, áo cánh bằng vải thô, vải bông, hoặc vải lanh nhuộm chàm đen. Đây cũng là trang phục người đàn ông Mông thường mặc. Đàn ông Lô Lô còn thường quấn một chiếc khăn nhuộm đen trên đầu.

Đối lập với trang phục đơn giản của đàn ông, trang phục của phụ nữ Lô Lô thực là một kỳ công. Chất liệu thì vẫn là những loại vải sợi bông hoặc lanh tự dệt ở địa phương (ngày nay đồng bào còn dùng cả vải công nghiệp để may trang phục cổ truyền).

Phụ nữ Lô Lô đen mặc áo cổ vuông chui đầu, quanh thân áo có thêu nhiều hoa văn hình chim. Tay áo được hình thành từ nhiều vòng vải màu khác nhau. Váy có hai lớp chiết ly ở dưới cạp đến gần đầu gối. Trùm phía sau váy còn có một mảnh vải được trang trí bằng các hàng cúc hoặc đồng tiền ở xung quanh. Ngoài ra chị em còn mang xà cạp ống màu đen.

Bộ nữ phục Lô Lô hoa có nhiều điểm khác biệt. Trước hết về cấu tạo, đó là một bộ đồ gồm nhiều thứ. Chiếc áo cánh ngắn, cổ tròn, xẻ ngực với các hoa văn hình học được tạo nên bằng cách ghép các miếng vải nhiều màu sắc trang trí dọc thân áo cả phía trước ngực và phía sau lưng. Tay áo ống chẽn được tạo bằng nhiều vòng vải màu khác nhau. Phụ nữ Lô Lô hoa mặc quần. Chiếc quần ống què được trang trí nhiều mảnh hoa văn ghép vải hình tam giác thành từng mảnh vuông lớn chạy quanh ống quần. Mảnh vải trùm phía sau (tú xô) và thắt lưng có đính các tuy hạt cườm ngũ sắc. Chiếc xà cạp của chị em là xà cạp quấn giống với phụ nữ Mông chứ không dùng xà cạp ống như phụ nữ nhóm Lô Lô đen.

Đồ trang sức của phụ nữ Lô Lô gồm có nhiều loại vòng trong tay, vòng cổ, dây chuyền bằng bạc hoặc nhôm. Bình thường có thể họ không mang trang sức, nhưng trong ngày lễ, tết họ thường mặc đầy đủ bô trang phục và mang trang sức.

* Về cư trú

Làng bản

Trong cùng địa bàn sinh sống thì người Lô Lô thường ở các khu vực riêng thành từng làng xóm riêng mà các tộc người khác gọi là Lô Lô chải (xóm hay làng Lô Lô). Mỗi xóm Lô Lô thường có từ năm, sáu hộ đến năm, sáu chục hộ. Đồng bào làm nhà theo hướng tự chọn của gia chủ, nhưng thường tựa lưng vào núi, cửa trông ra thung lũng hoặc ruộng nương. Trong làng Lô Lô không có đình miếu chung nhưng thường quy định những khu rừng chung cấm không ai được chặt phá. Nước sinh hoạt cũng thường là nơi công cộng cả của cả xóm, đó thường là một bể chứa nước dẫn trên núi về song rất hiếm nơi như vậy, chủ yếu vẫn là chứa nước tích trữ từ mùa mưa.



Nhà cửa

Ngôi nhà của người Lô Lô thường là nhà đất trình tường 3 gian lợp ngói hoặc gianh. Kết cấu khung nhà dựa trên các vì kèo gỗ kết cấu xà ngang, xà dọc gác trên đầu ba hàng cột, hai bộ vi làm thành gian giữa, hai bên hồi trần cột, kèo gác lên tường đất. Nhà thường chỉ có một cửa phụ ở đầu trái nhà của gian bên để đi ra vườn. Cửa chính là nơi cấm mang những đồ uế tạp qua và cũng cấm phụ nữ mới sinh đi qua cửa này. Có một sàn lửng làm thành gác trên là kho chứa lương thực dự trữ và các đồ gia dụng. Về cơ bản, ngôi nhà Lô Lô giống với ngôi nhà người Mông. Điều cơ bản là sự bố trí bên trong có nhiều điểm không giống nhau. Bàn thờ trên vách của gian giữa đối diện với cửa ra vào của người Lô Lô thật độc đáo, vì nó gồm cả những miếng gỗ, tre vẽ các hình nhân (vẽ đơn giản bằng tro than). Đó là tượng trưng cho các thế hệ tổ tiên được thờ. Người ta kiêng không cho phụ nữ mới sinh đi qua bàn thờ, vì như vậy sẽ gây uế tạp. Gian giữa còn là nơi tiếp khách hoặc bố trí cho khách nghỉ lại. Thường thì ông bố và các con trai lớn trong nhà có thể ngủ tại đây. Bà chủ và các con gái ngủ ở hai gian bên. Nơi gian có bếp lò thường cũng là nơi được đặt bàn thờ những người chết bắt đắc kỳ tử. Đây lại là nơi rất linh thiêng, đến mức trừ chủ nhà ra người ngoài không được phép lai vãng tới.



* Tôn giáo, tín ngưỡng

Thờ cúng tổ tiên

Thờ cúng tổ tiên là phong tục lâu đời của người Lô Lô theo quan niệm truyền thống của đồng bào thì tổ tiên là ông bà, cha mẹ... đã sinh thành, nuôi dưỡng mình và đã qua đời. Họ phân chia tổ tiên thành hai bậc: Tổ tiên gần gọi là duỳ khế gồm những người từ 3 đời trở lại (cha mẹ, ông bà, cụ…) đã qua đời. Tổ tiên xa là những thế hệ tổ tiên trên bậc duỳ khế cách mình từ 4-5 đời trở lên. Bậc tổ tiên xa này gọi là pờ xi.

Phong tục Lô Lô chỉ lập bàn thờ duỳ khế, còn pờ xì chỉ còn đọng lại ở tâm tưởng kính trọng biết ơn của lớp con cháu. Vì thế, nhà người Lô Lô nào cũng có bàn thờ duỳ khế. Bàn thờ được tạo ra bằng miếng gỗ hoặc nóc tủ kê sát vách của gian chính đối diện với cửa chính trên đó có đặt bát hương để cắm hương khi hành lễ. Đặc biệt trên bàn thờ có đẽo các miếng gỗ hình nhân, trên đó có vẽ mặt với đầy đủ mắt, mũi, mồm... tượng trưng cho người đã quá cố, cắm theo từng thế hệ một. Nếu người quá cố chỉ có một vợ một chồng thì cắm hai hình nhân; nếu họ có tới hai vợ thì cắm ba hình nhân, nhưng nếu ông bố chết mà bà mẹ vẫn còn thì lại cắm ba hình nhân… Các hình nhân tượng trưng cho tổ tiên này được cài vào vách bàn thờ theo thứ bậc thế hệ tính từ trái sang phải. Đầu tiên là bố mẹ, rồi đến ông bà và cuối cùng là các cụ sinh ra ông bà. Phần nhiều các bàn thờ tổ tiên của người Lô Lô cũng chỉ thể hiện đến đời thứ ba cách gia trưởng. Nên người lạ đến nhà người Lô Lô nhìn vào bàn thờ tổ tiên của họ là người ta có thể biết được bố mẹ của chủ nhà còn hay mất, tình trạng hôn nhân của các thế hệ trước của chủ nhân ra sao và chủ nhân có phải là trưởng tộc họ hay không… Cách bày đặt bàn thờ tổ tiên của người Lô Lô thật độc đáo, là nét văn hoá chưa thấy ở các dân tộc khác ở Việt Nam.

Việc cúng lễ tổ tiên của đồng bào được tiến hành vào dịp tết nguyên đán, tết tháng 7 và những dịp trong nhà có các công việc lớn như nhà mới, dựng vợ gả chồng cho con… họ đều dâng lễ cúng trình tổ tiên. Nếu trong nhà có người ốm họ cúng tổ tiên để cầu xin tổ tiên che chở, phù hộ độ trì. Lễ vật cúng là gà, cơm, hoa quả, rượu, thắp hương. Tuy nhiên hành lễ ở nhà người trưởng họ (thấu chủ) là chính.

Đối với tổ tiên xa pơxi, việc thờ cúng không có quy định gì chặt chẽ. Như đã nói người Lô Lô thường chỉ thờ ba đời. Khi có một đời tiếp theo qua đời thì sau khi đưa đám xong, con cháu thịt gà làm mâm cỗ rước hình nhân bằng gỗ trên bàn thờ tổ tiên của đời cao nhất vào hang núi khô ráo để. Kể từ hôm đó đời này ra nhập nhóm tổ tiên pơxi và không thờ cúng gì chặt chẽ nữa. Người già trong nhóm Lô Lô đen ở Lũng Cú Đồng Văn kể rằng, theo phong tục cổ xưa, thì mỗi nam giới ở đây trong đời phải ba lần đứng ra tổ chức mổ bỏ cúng pờ xi. Nhưng tập tục này không thấy nhắc đến ở những vùng Lô Lô khác.

Các nghi lễ liên quan đến sản xuất và sức khỏe

Người già Lô Lô ở Lũng Cú - Đồng Văn kể rằng, cách ngày này khoảng 50-60 năm làng họ vẫn còn một ngôi nhà chung ở gần giữa xóm, thờ thổ công, cứ vào tháng 7 dân làng lại làm lễ cúng thổ công, cúng cho tổ tiên họ và cúng các loại ma xa gần, cầu cho mùa màng tốt tươi, con người được khỏe mạnh. Theo tục lệ, cứ 2 năm cúng 1 lần thì cúng nhỏ vào ngày 24-7 với lễ vật ít hơn và tổ chức múa hát 3 ngày, nhưng nếu ba năm mối cúng một lần thì cúng lớn hơn vào ngày 25-7 và tổ chức múa hát 5 ngày liền. Thanh niên nam nữ mặc quần áo mới và múa hát theo nhịp trống đồng. Trong những ngày lễ hội dân làng nghỉ việc đồng áng chỉ làm việc nhà. Suốt những ngày diễn ra đám cúng, ở đầu làng và các đường vào làng người ta cắm những cây trúc, trên ngọn có cài mấy cái lông gà ám hiệu cho khách lạ không được vào làng. Khách lạ tới coi như đám cúng không thành và người đó phải mua lễ vật khác cho dân làng làm lại. Cây nêu ám hiệu cấm kỵ ở đầu làng và các lối vào làng cũng cấm luôn người dân trong làng không được ra khỏi làng trong những ngày đó, với quan niệm ra khỏi làng hoặc khách lạ đến là tha bệnh và tha ma quái vào làng.

Tổ chức cúng chung toàn làng xong, mỗi gia đình lại thịt gà làm cỗ mang ra ruộng cúng thần đất, thần rừng núi, tổ tiên phù hộ cho mùa màng tốt tươi, con người được khỏe mạnh.

Trước kia, khi cày cấy xong thì người Lô Lô thịt gà làm lễ mang ra đầu bờ ruộng cúng ma ruộng, ma rừng, ma sông suối... phù hộ cho mùa màng tốt tươi. Người Lô Lô cổ xưa có công khai ruộng và diệt sâu bọ cho lúa. Ông bị chết, dân tưởng nhớ tới ông và tổ chức cúng lễ mỗi khi cày cấy xong.

Khi lúa bị sâu bệnh hoặc hạn hán, các gia đình Lô Lô đóng góp tiền gạo làm lễ cầu mưa, cầu cho không bị dịch bệnh. Ở Lũng Cú xưa họ lễ chung ở nhà thờ thổ công trong làng, còn ở Mèo Vạc thì cúng ở ngoài đồng ruộng. Và quan niệm người đi coi ruộng nương và bị chết. Cúng cho ông Cù nếu lễ vật thừa không dùng hết thì phải để lạị, sợ mang về thì sự cầu vũ không thành.

Người Lô Lô còn kể lại rằng, ngày xưa đã lâu lắm rồi cứ vào tháng 4 hay tháng 5 hàng năm, cả làng góp tiền mua một con dê, rồi một vài người trong xóm dắt dê đi theo sau một thầy mo tay cầm dao. Đoàn người đi lần lượt hết các nhà trong xóm, đến nhà nào nhà nấy mang hai chén rượu, bát ngô và hai bó cỏ ngựa tượng trưng với ý nghĩa dâng cho ngựa và đoàn người nhà trời dùng. Cúng xong thầy mo thu 3 hình nhân mà mỗi nhà đã làm sẵn đặt ở trước cửa - ý tống tiến ma trời gây bệnh ra đi. Đi hết các nhà trong làng họ ra cánh đồng gần làng thịt dề làm lễ cúng ma trời. Quan niệm của người Lô Lô Hoa ở đây thì ma trời có tên là Mùa Puỳ Nậy và ma mặt trăng là Lo Pọ Nậy. Cúng và ăn uống xong, lễ vật thừa không được mang về nhà sợ ma trời theo về. Còn các hình nhân thì mang lên núi bỏ.

Người Lô Lô quan niệm con người ai cũng có vía (xăng luồi) ở ba trạng thái: quanh quẩn giữ bàn thờ ma nhà, ở trong cơ thể mình hoặc đi chơi lang thang. Vía đi chơi lang thang lâu thì người sẽ ốm, và vì vậy, phải cùng gọi vía về. Lễ vật cúng vía là bát gạo, con gà hoặc quả trứng. Thầy cúng đặt lễ vật ở cửa cúng gọi vía về, cúng xong ở cửa thì cúng ở bàn thờ tổ tiên, thỉnh cầu tổ tiên bảo ban không cho hồn vía đi xa. Và họ tin rằng, cúng xong như vậy người ốm sẽ khỏi và khỏe dần.

1.2.4. Văn học nghệ thuật dân gian

Người Lô Lô có một di sản văn học dân gian truyền thống rất phong phú và độc đáo, gồm truyện cổ, dân cả, tục ngữ, câu đố... Ngoài ra còn là những điệu dân vũ hết sức đặc sắc thường được thể hiện trong những dịp hội hè, đình đám và đặc biệt là trong những nghi lễ tang ma. Mặc dù cho đến nay, số người có thể hát hoặc kể chuyện ngày càng thưa dần và cũng không thể nào nhớ được nguyên vẹn kho tàng xưa, nhưng một phần lớn di sản truyền thống lâu nay đã được các nhà nghiên cứu say mê, tâm huyết, sưu tầm. Kho tàng truyện cổ có thể chưa phải thật sự đồ sồ nhưng đó là những truyền thuyết, cổ tích giàu tính hình tượng, giàu ý nghĩa nhân văn và mang nhiều sắc thái riêng. Nếu như trong truyện cổ còn một số yếu tố có thể coi là sản phẩm chung của quá trình giao lưu văn hoá nhiều tộc người trong cùng khu vực, cùng địa bàn sinh sống, thì kho tàng dân ca, dân vũ có thể coi là một hệ thống những làn điệu đặc sắc, độc đáo... biểu hiện những tâm hồn lãng mạn, giàu trí tưởng tượng nên thơ, bay bổng làm nên bản sắc riêng mà chỉ người Lô Lô mới có.



1.2.5. Lễ tết

Trong một năm có hai kỳ lễ lớn cũng có thể gọi là 2 cái tết lớn: Tết cả và tết tháng 7 mà tết cả (tết năm mới) là cái tết tiêu biểu nhất. Xưa đồng bào ăn tết cả kéo dài suốt từ 30, mùng 1 tết đến tận rằm tháng giêng. Ngày 30 tết nhà nào nhà nấy thịt lợn, để cả con vật mới mổ cúng cho tổ tiên chứng giám lòng thành, sau đó mới làm mâm cỗ cúng vào tối 30 và ngày mùng 1 tết. Và cũng chỉ cúng vào ngày mùng 1 và 15 tháng giêng là ngày cuối cùng của tết năm mới. Những ngày khác của tết chỉ bày rượu, bánh trái trên bàn thờ và thắp hương.

Người già Lô Lô Lũng Cú kể rằng, xưa ở đây tồn tại một tập tục lạ gọi là "khù mi" (ăn cắp chơi - ăn cắp lấy may). Tối 30 tết, mỗi gia đình phải đi ăn cắp cái gì đó và phải lấy cho đủ con số 12. Ví dụ, lấy ngô đủ 12 bắp, lấy gà, lấy gạo, hoa quả cứ đủ con số 12. Đó là con số ứng với 12 tháng trong năm tới may mắn. Nếu mới lấy được 2 hoặc 3,4… tức chưa đủ 12 mà đã bị phát hiện thì bỏ chạy và năm sau, tháng ứng với những con số phải bỏ chạy thì phải kiêng kị không được làm những công việc lớn sợ rủi ro. Sáng mống 1 tết kiêng phụ nữ đến nhà, sợ là không may mắn cho cả năm. Từ mùng 1 đến 15 tháng giêng bà con nghỉ ngơi vui chơi ăn tết, họ hàng bạn bè đến nhà nhau chúc tết và ngoài bãi cỏ gần làng, người ta tổ chức các trò chơi đánh cú, đánh bóng chuyến… Đến ngày 15 tháng giêng hết tết, mọi người thu các mảnh giấy vàng (tượng trưng cho tiền) dán vào các đồ vật trong nhà ngoài sân hôm 30 tết mang đi đốt, phần để báo hiệu các đồ vật biết đã hết thời kỳ nghỉ ngơi bắt đầu làm việc và giấy đó cũng tượng trưng là tiền đố tạ vàng cho ma nhà. Ở nhóm Lô Lô Hoa Mèo Vạc cũng ăn tết như người Lô Lô Đen ở Lũng Cú, nhưng không thấy nhắc đến tục "Khù Mi".

Tết tháng 7 xưa ở người Lô Lô Đen Lũng Cú ăn từ 24 đến 29. Ngày đầu mỗi gia đình làm cỗ cúng bái tổ tiên rồi nghỉ công việc đồng áng suốt 5 ngày liền. Và cả làng xưa còn có tục cúng chung ở miếu nhỏ hơn, chỉ ăn một ngày. Còn các ngày lễ khác như mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5... có nơi có, nơi không và nếu có cũng tổ chức nhỏ trong vòng 1 ngày.



Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte

tải về 324.07 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương