* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown


- Cuộc xâm lăng của người Hoa Kỳ vào Gia Nã Đại thất bại



tải về 2.16 Mb.
trang15/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   33

- Cuộc xâm lăng của người Hoa Kỳ vào Gia Nã Đại thất bại

Anh quốc hoàn toàn có lý khi nghĩ rằng xáo trộn ở 13 thuộc địa rất có thể ảnh hưởng đến Gia Nã Đại (1). Sau khi các thuộc địa Anh tại Mỹ chiến đấu chống lại mẫu quốc chẳng được bao lâu thì Ethan Allen và một lực lượng mang danh hiệu là Green Mountain Boys mở một cuộc tấn công bất ngờ vào quân Anh. Như các bạn đã biết, lực lượng này chiếm những đồn ải của quân Anh tại Grown Point và Ticonderoga ở bên hồ Champlain. Việc tấn chiếm hai đồn này một cách can đảm đã mở đường sang Gia Nã Đại. Biết rõ rằng Anh quốc sẽ sử dụng Gia Nã Đại để tấn công các thuộc địa, cho nên Hội Nghị Lục Địa quyết định phải hành động mau lẹ. Quân lực Hoa Kỳ được gửi đi để đánh sang Gia Nã Đại, và chiếm được Montreal trong nhiều tháng, nhưng lại không chiếm được thủ đô Quebec. Khi tăng viện của quân Anh tiến tới sông Saint Laurence thì quân Mỹ phải rút khỏi Gia Nã Đại.



- Các thuộc địa Mỹ châu không được người Pháp ở Gia Nã Đại ủng hộ

Các nhà lãnh đạo các thuộc địa biết rằng người Gia Nã Đại gốc Pháp không ưa người Anh, cho nên Hội Nghị Lục Địa gửi một phái đoàn đi Montreal để thuyết phục người Gia Nã Đại gốc Pháp trợ giúp các thuộc địa. Cùng đi với phái đoàn có cả ông Benjamin Franklin, một nhân vật nổi tiếng về tài thuyết phục. Nhưng nhân dân Montreal cũng không thích gì người Mỹ. Họ không ưa quân sĩ thô bạo lỗ mãng của thuộc địa chiếm đóng thành phố của họ. Họ căm giận bọn lính tráng bắt họ phải bán thực phẩm và các phẩm vật khác để lấy một thứ tiền giấy vô giá trị. Thực ra, nhân dân Montreal càng thấy quân sĩ lục địa (quân Mỹ), họ lại càng không hăng hái tham gia phong trào tranh đấu giành độc lập. Sứ mạng cầu viện của phái đoàn thất bại, và những hy vọng mong được Gia Nã Đại trợ giúp cũng tan biến như mây khói.

Từ đó hai lãnh thổ Anh ở Bắc Mỹ đi theo hai chiều hướng khác biệt. Mười ba thuộc địa tranh đấu giành độc lập, trong khi Gia Nã Đại vẫn tiếp tục là lãnh thổ của Anh quốc.

- Những người thuộc địa trung thành (với Anh quốc) đi Nova Scotia

Dù rằng Gia Nã Đại không liên kết với các thuộc địa nhưng cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Như các bạn đã thấy rằng không phải mọi người trong mười ba thuộc địa đều ủng hộ việc tranh đấu giành độc lập tách rời khỏi mẫu quốc. Có lẽ có tới một phần ba dân thuộc địa là những người trung thành đứng về phía Anh quốc. Sau khi chiến tranh chấm dứt, người ta vẫn còn căm thù những người trung thành này. Một số người trung thành trở lại Anh quốc. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều người ở lại Mỹ châu. Tại sao họ lại không đi đến lãnh thổ của Anh quốc ở về phía Bắc? Chính phủ Anh tại Gia Nã Đại sẵn sàng đón nhận và thu xếp công việc chuyển vận họ. Họ sẽ được cấp phát ruộng đất, dụng cụ và các đồ tiếp liệu hằng ngày để có thể khởi lập lại cuộc đời.

Sau khi thỏa hiệp hòa bình được ký kết vào năm 1783, nhiều người trung thành lũ lượt lên tàu ở Nữu Ước để đi về quê hương mới. Có cả những nhà quý tộc ăn mặc sang trọng mang theo cả nô lệ và tài sản mà họ có thể mang đi được. Cũng có những thương gia, bác sĩ, luật sư, quân nhân, công nhân và nông dân. Đợt di cư của những người trung thành này khiến cho Hoa Kỳ mất đi nhiều người giàu có nhất và học thức nhất.

Ba chục ngàn người tỵ nạn khỏe mạnh không nhà lên tàu thuyền đi Nova Scotia. Đoàn tàu tỵ nạn tiến vào bỏ neo ở Halifax, thành phố thủ đô của Nova Scotia. Bạn hãy tưởng tượng thành phố vốn đã đông đúc từ trước,bây giờ lại phải chứa thêm hàng ngàn người cần phải có lương thực, nhà ở và đất đai cho họ sinh nhai. Chẳng bao lâu, những người trung thành này được cấp phát đất đai, và họ tản mát đi lập các làng định cư và đốn cây ở các vùng đất phì nhiêu để trồng tỉa ở Nova Scotia. Một số người đi New Brunswick, thẳng tới phía Bắc của tiểu bang Maine ngày nay, và tới gần đảo Prince Edward. Không bao lâu, Nova Scotia và các vùng đất phụ cận trở thành thuộc địa của Anh quốc.



- Những người trung thành khác tới Gia Nã Đại bằng đường bộ

Trong thời kỳ cách mạng, nhiều người trung thành (với Anh quốc) từ các vùng phía Tây ở các thuộc địa di chuyển sang Gia Nã Đại. Sau khi chiến tranh chấm dứt, tiểu bang New York có tới chừng 10 ngàn người vượt biên giới chạy sang Gia Nã Đại. Phần lớn những người này định cư ở phía Bắc hồ Ontario và dọc theo thượng lưu sông Saint Laurence ở phía Tây Montreal. Vùng đất này từng là một phần của tỉnh Quebec của người Pháp ngày trước. Những người dân định cư mới này được chính phủ Anh cấp phát đất đai, dụng cụ, và chẳng bao lâu những căn nhà gỗ mọc lên và làng thôn mở rộng tới vùng hoang vu.



- Những người nói tiếng Anh khởi lập Gia Nã Đại thuộc Anh

Hẳn các bạn còn nhớ dân cư ở Tân Pháp rất thưa thớt. Vào lúc người Anh làm chủ vùng lãnh thổ này, dân số ở đây chỉ có chừng 80 ngàn. Các bạn sẽ dễ dàng thấy rằng nhiều ngàn người trung thành từ Hiệp chủng quốc chạy sang làm gia tăng dân số ở đây. Ngoại trừ ở phía Đông tỉnh Quebec ngày xưa ra, người Pháp không còn chiếm đa số dân ở Tân Pháp nữa. Hơn nữa lại có thêm số lớn người nói tiếng Anh tiếp tục đổ xô tới Gia Nã Đại. Nhiều người Hoa Kỳ ở vùng biên cương tiến tới vùng Ngũ đại hồ vào hồi đầu thế kỷ thứ XIX. Cũng có nhiều người từ quần đảo Anh cũng di cư đến nữa. Cho nên chúng ta có thể nói rằng cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã đưa đến việc khởi lập Gia Nã Đại thuộc Anh như ngày nay.



- Dân Gia Nã Đại nói tiếng Anh đòi được hưởng thêm nhiều quyền tự do

Cuộc cách mạng Hoa Kỳ còn ảnh hưởng sang quốc gia láng giềng ở phía Bắc về một phương diện khác. Người Anh ở tỉnh Quebec không hài lòng sống theo luật pháp áp dụng cho những người Gia Nã Đại gốc Pháp. Họ mong mỏi có một loại chính phủ giống như loại chính phủ ở các thuộc địa Mỹ trước kia mà họ có thể tuyển chọn đại diện vào đó. Mặt khác, dân Gia Nã Đại gốc Pháp sinh sống ở phía Đông tỉnh Quebec muốn duy trì ngôn ngữ phong tục tập quán của họ. Họ rất ít chú ý đến việc tham dự vào chính quyền. Anh quốc phải làm thế nào để hài lòng cả dân Gia Nã Đại gốc Pháp lẫn gốc Anh?

Năm 1791, Anh quốc quyết định chia tỉnh Quebec ngày xưa làm hai tỉnh gọi là Thượng Gia Nã Đại và Hạ Gia Nã Đại. Thượng Gia Nã Đại là phần đất phía Tây của tỉnh Quebec ngày xưa, nơi mà nhiều người trung thành đến định cư. Hạ Gia Nã Đại là nơi mà đa số người Pháp sinh sống. Mỗi tỉnh có một chính quyền riêng biệt. Đứng đầu mỗi tỉnh là một vị Thống đốc do Anh quốc bổ nhậm. Mỗi vị Thống đốc lại chọn một số người kỳ mục có uy tín vào Hội đồng chính phủ. Đồng thời, dân trong tỉnh cũng bầu một số người vào một hội đồng khác. Dĩ nhiên là người Anh ở Thượng Gia Nã Đại rất hài lòng với sự xếp đặt này. Đồng thời, Anh quốc cũng hy vọng người Pháp ở Hạ Gia Nã Đại dần dần cũng học hỏi người Anh để tham dự vào chính quyền.

*

* *



PHẦN HAI

GIA NÃ ĐẠI GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN TỰ TRỊ BẰNG MỘT

CUỘC CÁCH MẠNG HÒA BÌNH
Chẳng bao lâu, người Gia Nã Đại trở nên bất mãn với Tân chính phủ của họ, và sau đó là xảy ra sự bất hòa giữa dân chúng Gia Nã Đại và Anh quốc. Thực ra, trong thế kỷ thứ XIX, cuộc bất hòa này đã đưa đến việc cải tiến trong chính phủ. Cách mạng không cần thiết phải có chiến tranh và đổ máu. Có thể tiến tới cách mạng một cách ôn hòa. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu nhân dân Gia Nã Đại đã thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa như thế nào để đạt được quyền tự trị.

- Kế hoạch của chính phủ Anh để kềm chế Gia Nã Đại

Các chính phủ của Thượng và Hạ Gia Nã Đại đều không cho dân chúng hưởng quyền tự trị như ở 13 thuộc địa Anh trước kia (Hiệp Chủng Quốc). Những người cầm quyền ở Anh quốc cho rằng những lầm lẫn đắt giá trước kia đã đưa đến việc mất 13 thuộc địa. Cho nên họ không muốn những lầm lẫn này tái diễn ở Gia Nã Đại nữa. Quốc hội Anh sẽ không đánh thuế một thuộc địa nào nữa.

Nhưng các nhà lãnh đạo tại Anh cũng cho rằng “Chúng ta đã mất 13 thuộc địa không phải chỉ vì chúng ta đã đánh thuế ở 13 thuộc địa này, mà còn vì chúng ta đã cho các thuộc địa này quá nhiều tự do để điều hành công việc nội bộ. Chúng ta phải kềm chế thuộc địa còn lại ở Mỹ châu của chúng ta khiến cho thuộc địa này sẽ không còn có cơ hội nào để nổi loạn nữa. Chúng ta sẽ cho phép dân chúng ở đây bầu các hội đồng lập pháp, chúng ta sẽ ban bố cho họ quyền đánh thuế để điều hành chính quyền. Nhưng hội đồng lập pháp sẽ không có đầy đủ quyền hành để làm luật. Vị Thống đốc do Anh quốc bổ nhậm và Hội Đồng quản trị do vị Thống đốc chọn lựa sẽ kiểm soát chính quyền tỉnh hạt. Bằng cách như vậy thì dân chúng Gia Nã Đại sẽ không có khái niệm về quyền tự do và tự trị”.

- Dân Gia Nã Đại đòi hỏi phải cải cách trong chính phủ

Được ít lâu, dân Gia Nã Đại ở các tỉnh đều nhận thức được rằng viên thống đốc và Hội đồng quản trị của ông ta nắm thực quyền kiểm soát chính phủ. Những người cầm quyền ở đây rất ít chú ý tới nguyện vọng của Hội đồng lập pháp. Họ điều hành chính quyền theo ý riêng của họ và tuân hành chỉ thị của mẫu quốc, chứ không phải là theo ý muốn của dân chúng Gia Nã Đại. Nói một cách khác, chính quyền các tỉnh không chịu trách nhiệm với dân chúng Gia Nã Đại. Dần dần dân chúng bắt đầu đòi phải có điều mà họ gọi là chính quyền có trách nhiệm. Họ mong muốn có hội đồng lập pháp do họ bầu lên phải có thực quyền để điều hành mọi công việc trong tỉnh hạt. Họ cũng mong muốn Anh quốc để cho họ có nhiều tự do hơn để điều hành công việc nội bộ của họ.

Tại Hạ Gia Nã Đại, nơi mà người Anh và người Pháp cùng sinh sống trong cộng đồng, dân chúng càng chống đối viên thống đốc và Hội đồng quản trị dữ dội hơn. Người Pháp (dân Gia Nã Đại gốc Pháp) lại sợ rằng chính phủ Anh bắt họ nói tiếng Anh và phải sống theo phong tục tập quán của người Anh, điều mà họ không bao giờ chấp nhận được. Họ là những người Pháp và họ nhất định duy trì ngôn ngữ, phong tục, tập quán của người Pháp. Vì người Pháp chiếm đa số trong Hội đồng lập pháp, nếu họ không thích kế hoạch của vị thống đốc, họ sẽ không bỏ phiếu để chấp thuận thuế khóa điều hành chính quyền. Một vài vị lãnh tụ nóng nảy kêu gọi nổi loạn.

Mối bất hòa ở Thượng Gia Nã Đại không phải là mối bất hòa giữa người Pháp và người Anh. Thực ra, đó là mối bất hòa giữa những người mong muốn có chính quyền trách nhiệm và những người giàu có có thế lực trong chính quyền muốn duy trì chính quyền như vậy. Khi mối bất hòa càng trở nên dữ dội, các lãnh tụ cải cách kêu gọi dân chúng nổi loạn, nếu những ý nguyện của họ không được thỏa mãn. Người ta đã nói rất nhiều đến việc giành độc lập. Năm 1837 có nhiều biến cố bùng nổ. Dân chúng nổi loạn và có đụng độ giữa những người nổi loạn với nhân viên của chính quyền. Tuy nhiên, chẳng được bao lâu thì các cuộc nổi loạn này bị quân đội của chính phủ dập tắt.



- Lord Durham đề nghị thay đổi trong chính phủ Gia Nã Đại

Những cuộc nổi loạn và lòng phẫn uất của dân chúng khiến cho chính phủ Anh xúc động mạnh. Tại Anh, những người khôn ngoan nói “Đường lối hiện tại của chúng ta ở Gia Nã Đại đã thất bại. Chúng ta phải làm cái gì khác hơn nếu không thì chúng ta sẽ mất các tỉnh này như chúng ta từng mất 13 thuộc địa trước kia….”. Vì vậy cho nên Anh quốc cho gửi một chính khách tài ba, khôn ngoan là Lord Durham sang Gia Nã Đại để nghiên cứu tình hình, và nếu cần thì đề nghị phải thực hiện những gì cần thiết để cứu vãn tình thế.

Bản tường trình của Lord Durham cho thấy rõ Anh quốc cần phải thay đổi thái độ không những đối với Gia Nã Đại, mà còn đối với tất cả các thuộc địa ở trên thế giới. Ông cảnh cáo rằng Anh quốc phải từ bỏ ý niệm cho rằng các thuộc địa phải tồn tại cho quyền lợi của mẫu quốc. Ông nói rằng các vị đại diện do dân chúng bầu vào Hội đồng Lập pháp phải có nhiều quyền hành hơn. Lord Durham tin tưởng rằng chỉ có một cách duy nhất để giữ các tỉnh Gia Nã Đại ở trong đế quốc Anh là phải ban bố cho dân chúng ở đây đầy đủ những quyền tự do như những người dân ở chính quốc Anh được hưởng. Nói một cách khác là phải có chính phủ có trách nhiệm. Ông cũng đề nghị rằng phải thống nhất hai tỉnh Gia Nã Đại lại dưới quyền điều hành của một chính phủ duy nhất.

- Gia Nã Đại tiếp nhận chính quyền có trách nhiệm

Sau bản tường trình của Lord Durham được ít lâu thì Thượng và Hạ Gia Nã Đại hợp nhất thành một tỉnh dưới quyền cai trị của một vị thống đốc. Tuy nhiên, phải mất nhiều năm sau đó Anh quốc mới chịu để Gia Nã Đại có chính phủ có trách nhiệm. Sau cùng, vào năm 1846, chính phủ có trách nhiệm được thành lập ở Gia Nã Đại. Viên Thống đốc bổ nhậm đảng viên của đảng nào kiểm soát được Hội đồng Lập pháp vào Hội đồng Quản trị. Và Hội đồng Quản trị này quyết định mọi chính sách của chính phủ. Như vậy, nhân dân Gia Nã Đại đã giành được quyền kiểm soát các công việc của họ ngoại trừ một số các vấn đề như quốc phòng, ngoại thương, và việc ký các thỏa hiệp (với ngoại quốc). Quốc hội Anh vẫn còn nắm quyền kiểm soát các vấn đề này.

Chính phủ có trách nhiệm với dân chúng ở Gia Nã Đại đã thực hiện được mà không cần phải có chiến tranh. Ngay khi dân chúng Gia Nã Đại thỏa mãn được các đòi hỏi thì mọi cuộc bàn luận về việc giành độc lập cũng không còn nữa. Anh quốc cũng tin tưởng rằng dân chúng trong các tỉnh Gia Nã Đại có đủ khả năng để tự trị. Về phần nhân dân Gia Nã Đại thì họ cũng tỏ ra trung thành và quý mến mẫu quốc.

*

* *


PHẦN BA

CÁC THUỘC ĐỊA TÂY BAN NHA ĐÃ TRANH ĐẤU NHƯ THẾ NÀO ĐỂ GIÀNH ĐỘC LẬP?
Đầu thế kỷ thứ XIX, trước khi Gia Nã Đại có chính quyền có trách nhiệm với dân chúng, cũng có nhiều biến cố sôi sục ở các thuộc địa Tây Ban Nha. Cuộc nổi dậy ở các thuộc địa Tây Ban Nha khiến cho chúng ta nhớ lại một vài khía cạnh của cuộc nổi dậy ở các thuộc địa Anh. Các thuộc địa Anh cũng như các thuộc địa Tây Ban Nha đều bất bình chống lại mẫu quốc chỉ vì những luật lệ điều hành thương mại và thuế khóa. Các thuộc địa Anh cũng như các thuộc địa Tây Ban Nha đều phải chiến đấu và phải trải qua những trận đánh dữ dội đẫm máu mới giành được độc lập.

Tuy nhiên, trong cuộc tranh đấu giành độc lập, các thuộc địa trên đây có nhiều sự khác biệt. Các thuộc địa Tây Ban Nha gặp nhiều khó khăn hơn là các thuộc địa Anh:

1. Mười ba thuộc địa Anh nằm trọn trong một giải đất hẹp dọc theo vùng duyên hải. Trong khi đó lãnh thổ của các thuộc địa Tây Ban Nha chiếm gần hầu hết Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mễ Tây Cơ, và một phần đất mà ngày nay thuộc về Hiệp Chủng Quốc.

2. Trong các thuộc địa Tây Ban Nha, nhiều nơi có các dãy núi cao và các rừng rậm ngăn cách các làng định cư. Các bạn có thể mường tượng sự khó khăn trong việc gửi các thông điệp hay di chuyển quân đội từ nơi này tới nơi khác.

3. Một sự khác biệt nữa là sự khác biệt trong các chính quyền. Dân thuộc địa Anh được hưởng một số quyền tự do, và về nhiều phương diện họ được hưởng quyền tự trị. Nhưng ở các thuộc địa Tây Ban Nha, dân chúng quằn quại dưới ách thống trị sắt máu của hoàng đế Tây Ban Nha. Họ không có một cơ hội nào để được hưởng quyền tự trị. Mặc dầu những khó khăn trên đây, nhân dân các thuộc địa Tây Ban Nha đã giành được độc lập. Chúng ta phải công nhận rằng họ đã hoàn thành được một kỳ công tuyệt vời.

CÁC THUỘC ĐỊA TÂY BAN NHA CÓ NHỮNG LÝ DO ĐỂ NỔI LOẠN



- Dân thuộc địa Tây Ban Nha đã chịu đau khổ như thế nào?

Trong chương III, chúng ta đã biết rằng Tây Ban Nha kiểm soát các công việc mậu dịch ở các thuộc địa rất gắt gao. Càng ngày, những người sinh sống bằng nghề buôn bán càng trở nên căm giận những luật lệ thương mại của chính quyền. Nhưng có lẽ người Creoles (người Tây Ban Nha sinh đẻ ở Tân thế giới) là những người kêu than dữ dội nhất. Các chức vị quan trọng ở chính quyền thuộc địa cũng như ở trong giáo hội đều lọt vào tay người Tây Ban Nha (sinh đẻ ở Tây Ban Nha). Người Tây Ban Nha khinh rẻ những người Creoles như là những người hạ cấp. Thật là dễ hiểu tại sao người Creoles xuất thân từ các gia đình tử tế và có trình độ học vấn cao đã chống lại thái độ của người Tây Ban Nha.

Ngoài ra còn có nhiều nỗi thống khổ phiền muộn khác nữa. Nhiều dân thuộc địa tin rằng đã đến lúc nhân dân có quyền nói lên tiếng nói về phương cách điều hành việc cai trị đất nước. Đối với Tây Ban Nha, những tư tưởng như vậy hình như là nguy hiểm và phải cố gắng ngăn chặn tư tưởng này để khỏi lan rộng ra các thuộc địa. Dân thuộc địa không được phép mua sách báo ngoại trừ trường hợp được chính quyền Tây Ban Nha chấp thuận. Không một ấn phẩm nào về cuộc cách mạng Hoa Kỳ được phép lưu hành ở trong các thuộc địa Tây Ban Nha. Thật ra, nếu không có phép đặc biệt, thì không một dân thuộc địa Tây Ban Nha nào được phép đi sang Hoa Kỳ viếng thăm hay du lịch, vì sợ rằng người ta sẽ đem các tư tưởng độc lập về nói lại ở trong các thuộc địa.

- Các cuộc cách mạng Pháp và Hoa Kỳ ảnh hưởng vào các thuộc địa Tây Ban Nha

Dù rằng có những luật lệ khắt khe như vậy, tin tức từ khắp nơi trên thế giới vẫn có thể lọt vào trong các thuộc địa Tây Ban Nha. Dân chúng ở đây cũng biết rằng hiện thời các thuộc địa của Anh ở Mỹ châu đã được độc lập. Họ cũng được biết về cuộc đại cách mạng bùng nổ và lan tràn khắp nước Pháp vào năm 1789. trong thời kỳ cách mạng, người dân Pháp đã đạp đổ ách thống trị của nhà vua và của bọn quý tộc để thành lập nền Cộng hòa. Tin tức như vậy truyền từ người này sang người khác ở trong các thuộc địa Tây Ban Nha và được nhiều người hăng say bàn cãi. Nếu dân tộc của các quốc gia khác đã đập tan xiềng xích trói buộc họ thì tại sao nhân dân các thuộc địa Tây Ban Nha lại không thể đứng lên làm như vậy? Thanh niên Creoles du học ở Âu châu trở về bắt đầu tích cực tranh đấu cho độc lập. Nhiều hội kín được tổ chức ở nhiều nơi trong các thuộc địa để tiến hành cách mạng chống lại Tây Ban Nha. May mắn cho các thuộc địa là vào đầu thế kỷ thứ XIX, Tây Ban Nha bị lôi cuốn vào các cuộc chiến tranh ở Âu châu cho nên quốc gia này không đủ thời giờ chú ý đến các thuộc địa ở Mỹ châu. Các thuộc địa đã chọn đúng lúc này để quật khởi.

MỄ TÂY CƠ THIẾT LẬP NỀN ĐỘC LẬP

- Linh mục Hidalgo khởi đầu công cuộc trường kỳ tranh đấu cho nền độc lập của Mễ Tây Cơ

“Viva la Independencia” (Độc lập muôn năm). Những từ ngữ trên đây đã gây xúc động mạnh do vị linh mục Miguel Hidalgo, một vị tu sĩ ở trong một làng Mễ Tây Cơ tên là Dolores, hô lên. Hidalgo đã hy sinh suốt đời để giúp đỡ và dạy dỗ dân da đỏ ở Mễ Tây Cơ, những người dân lê kiếp đọa đày dưới ách thống trị của Tây Ban Nha. Ông đã thiết lập kế hoạch bí mật để quật khởi chống lại bọn thống trị Tây Ban Nha ở Mễ Tây Cơ. Linh mục Hidalgo hy vọng rằng nếu Mễ Tây Cơ được độc lập thì sẽ cải thiện được kiếp sống khốn cùng của người da đỏ.

Khẩu hiệu “Tiếng thét của nhân dân Dolores” của Hidalgo đã thúc giục đồng bào da đỏ tiến lên con đường cách mạng. Mặc dầu lúc đầu quân cách mạng chiếm giữ được nhiều thị trấn, nhưng vì quân sĩ da đỏ thiếu huấn luyện nên đã không thể nào chống cự nổi được với quân đội Tây Ban Nha được gửi đến đàn áp. Quân cách mạng bị đánh bại, Hidalgo bị bắt và bị hành hình. Đầu ông được đặt trong chiếc lồng sắt mang đi khắp các đường phố để cảnh cáo những người nào khác có ý định quật khởi chống lại Tây Ban Nha.

Nhưng cách mạng đã không ngừng lại với cái chết của Hidalgo. Hàng ngàn người trốn vào các vùng núi để tiếp tục chiến đấu dưới sự điều khiển của các nhà lãnh đạo mới. Nhiều người mestizos (những người Tây Ban Nha lai da đỏ) lên đường theo loạn quân (cũng có thể gọi là quân cách mạng). Qua nhiều năm trường gian khổ, quân cách mạng tiếp tục chiến đấu, tấn kích bất ngờ vào các thị trấn rồi rút lui vào trong các vùng đồi núi.



- Người Creoles tiếp tục phong trào tranh đấu giành độc lập và đạt được thắng lợi

Nếu chỉ có người da đỏ và người mestizos ở Mễ Tây Cơ chiến đấu không thôi thì cuộc chiến giành độc lập có lẽ đã chẳng bao giờ thành công được. Những người Creoles đã theo dõi cuộc đấu bất cân xứng giữa loạn quân và người Tây Ban Nha, và đã chụp lấy cơ hội để giành quyền kiểm soát chính quyền Mễ Tây Cơ. Họ chuẩn bị tham gia vào loạn quân, và khi công cuộc tranh đấu giành độc lập đã hoàn toàn thắng lợi thì họ chiếm lấy chính quyền cho chính họ.

Một vị sĩ quan trẻ tuổi người Creoles đầy tham vọng tên là Agustin de Iturbide cầm đầu kế hoạch này. Họ đánh lừa các lãnh tụ người da đỏ nhận trợ giúp của họ. Liên kết với lực lượng của người da đỏ, người Creoles đánh chiếm thị trấn Mexico và buộc người Tây Ban Nha phải ra đi. Sau khi Iturbide và quân sĩ của ông tuyên bố Mễ Tây Cơ độc lập vào năm 1821 thì họ không dùng những người da đỏ trong chính quyền nữa.

­- Mễ Tây Cơ và Trung Mỹ giành độc lập

Iturbide không quan tâm đến những tư tưởng dân chủ. Ông muốn chính ông và người Creoles kiểm soát chính quyền. Cho nên cuộc cách mạng vào lúc khởi đầu đã được dân da đỏ nhiệt liệt ủng hộ nhưng lại tan đi vào khi Iturbide lên ngôi hoàng đế xứ Mễ Tây Cơ. Tuy nhiên, nhiều người Creoles không ưa ý đồ của hoàng đế cho nên sau đó chừng một năm, Iturbide bị đưa đi đày. Cuối cùng sau 14 năm trường chiến đấu, nền cộng hòa Mễ Tây Cơ được thành lập vào năm 1824. Cũng vào lúc này, các tỉnh ở các thuộc địa khác của Tây Ban Nha, nơi mà ngày nay gọi là Trung Mỹ, cũng tuyên bố độc lập.

BOLIVAR VÀ SAN MARTIN GIẢI PHÓNG NAM MỸ

Trong khi nhân dân Mễ Tây Cơ tiến hành cách mạng chống lại Tây Ban Nha thì ở Nam Mỹ cũng xảy ra nhiều biến cố quan trọng. Nói về nền độc lập của Nam Mỹ là nói về câu chuyện của ba nhà đại lãnh tụ Miranda, Bolivar và San Martin.

- Miranda, người cha đẻ của cách mạng ở Venezuela

Francis Miranda chào đời ở Venezuela, và lớn lên đã hy sinh gần trọn đời cho chính nghĩa tự do của nhân dân Nam Mỹ. Một thời ông đã từng sống ở Âu châu. Và cũng tại Âu châu, ông đã đi thăm nhiều nước để yêu cầu các chính quyền các quốc gia này viện trợ cho ông trong cuộc tranh đấu giành độc lập cho quê hương. Sau khi Hoa Kỳ giành được tự do, ông cũng kêu gọi Hiệp Chủng Quốc viện trợ. Miranda cũng tổ chức những người Creoles đã từng đi du học ở Âu châu về tham gia vào một hội đoàn ái quốc. Những bài diễn văn nảy lửa của ông đã lôi cuốn được nhiều thanh niên lên đường gia nhập tổ chức tranh đấu giành độc lập. Khi trở về Venezuela lãnh đạo phong trào cách mạng chống lại Tây Ban Nha thì Miranda đã già rồi. Ông già Miranda với mái đầu bạc trắng đi trên đường phố Caracas được dân chúng tung hô nhiệt liệt. Tuy nhiên, chỉ một năm sau đó một trận động đất ghê gớm đã tàn phá Caracas và chấm dứt công trình cách mạng của ông. Người Tây Ban Nha bắt giam ông và ông từ giã cõi đời ở trong nơi tù ngục của bọn thống trị Tây Ban Nha.



- Bolivar trở thành nhà lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân Venezuela

Bây giờ thì chúng ta nói tới nhân vật khiến cho nhiều người thích thú nhất trong trang sử vùng đất này. Người dân Nam Mỹ sẽ mãi mãi ghi nhớ và kính mến người thanh niên trẻ tuổi Simon Bolivar. Bolivar đã trở thành một người tiêu biểu cho tự do đối với nhân dân Nam Mỹ giống như George Washington đối với nhân dân Hiệp chủng quốc.

Bolivar là con một gia đình Creoles giàu có thế lực ở Caracas. Ông là một thanh niên chững chạc đẹp trai, có dáng người mảnh khảnh và đôi mắt đen sáng ngời. Giống như những thanh niên Creoles khác, Bolivar được đào luyện thành một quân nhân. Lớn lên, ông kết hôn với một thiếu nữ trẻ đẹp Tây Ban Nha, nhưng hạnh phúc gia đình của ông đã vong yểu vì cái chết đau thương bất ngờ của người vợ kiều diễm. Thấy cuộc sống không còn hứng thú, Bolivar quyết định đi Âu châu. Cũng tại Âu châu, ông gặp Miranda và bị khích động bởi lòng nhiệt thành của vị lão thành yêu nước Miranda. Ông quyết định hy sinh cuộc đời còn lại để giải phóng quê hương yêu dấu. Đó cũng là lời thề của Bolivar mà chúng ta đã ghi ở đầu chương X này. Sau này, khi Miranda qua đời, ông trở thành vị lãnh tụ của các nhà cách mạng ở Venezuela.

- Bolivar giành được độc lập cho nhân dân vùng phía Bắc Nam Mỹ

Bolivar gặp rất ít trở ngại trong việc thu thập một đạo quân cách mạng để chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha. Ông có sức quyến rũ tự nhiên và dễ dàng lôi cuốn người ta theo con đường cách mạng do ông hướng dẫn. Ông thu thập được một đạo quân hai ngàn một trăm chiến binh. Nhiều người trong đoàn quân này đã từng là những người cao bồi bất khuất ở vùng đồng bằng Venezuela. Thấy rằng quân đội Tây Ban Nha còn quá mạnh so với lực lượng của ông, Bolivar quyết định một nước liều. Ông dẫn đoàn quân của ông băng qua dãy núi Andes cao chót vót tiến vào xứ Colombia kế cận. Ông đã làm cho quân Tây Ban Nha ở đó bất ngờ và đánh bại được đạo quân này.

Bấy giờ Bolivar mới tin rằng quân lực của ông đã đủ mạnh để trở lại chiến đấu chống lại quân Tây Ban Nha ở ngay tại Venezuela. Năm 1821, trong một trận ác chiến, quân đội của ông đánh cho quân Tây Ban Nha phải đào tẩu ra khỏi vùng phía Tây quốc gia Venezuela. Không bao lâu, toàn thể vùng phía Bắc Nam Châu Mỹ giải thoát được ách thống trị của người Tây Ban Nha. Bolivar đi đến đâu cũng được hoan hô cuồng nhiệt. Để tỏ lòng ghi nhớ công ơn của ông, dân chúng đặt cho ông biệt danh “Người giải phóng”. Tuy nhiên, Bolivar còn cảm thấy rằng ông vẫn chưa hoàn thành sứ mạng. Còn nhiều thuộc địa khác vẫn còn đang chiến đấu cho tự do. Ông cho rằng ngày nào mà chưa đánh bại được quân thù chưa chiếm được hết các đồn lũy Tây Ban Nha, và quân Tây Ban Nha chưa bị đánh đuổi ra khỏi Nam Mỹ thì không có phần đất nào của Nam Mỹ được độc lập. Giai đoạn kế tiếp của ông là phải đánh bại đạo quân hùng mạnh của Tây Ban Nha ở Peru.



tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương