* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown



tải về 2.16 Mb.
trang11/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   33

CÁC THUỘC ĐỊA ANH?
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta từ cựu thế giới đến thăm thuộc địa Massachusetts vào năm 1750. Cũng giả sử rằng chúng ta có thư của ông anh của Jonathan ở Anh quốc giới thiệu chúng ta với Jonathan. Khi chúng ta gõ cửa căn nhà nhỏ bé tầm thường và đưa lá thư giới thiệu đó ra cho ông ta coi, ông ta sẽ mời chúng ta ngồi trên những chiếc ghế đẩu hay trên chiếc ghế dài trước ngọn lửa bập bùng trong bếp sưởi to lớn. Nếu chúng ta hỏi ông ta những gì về chính quyền các thuộc địa Anh thì ông tra sẽ trả lời như sau:

- Các chính quyền của các thuộc địa rất giống nhau

“Chính quyền của một thuộc địa có thể hơi khác chính quyền của một thuộc địa khác, nhưng tình trạng của các thuộc địa giống như chính quyền ở Anh trên một bình diện nhỏ bé hơn. Mỗi một thuộc địa có một vị thống đốc đứng đầu giống như Anh hoàng lãnh đạo Anh quốc. Mỗi một thuộc địa có một cơ quan lập pháp giống như Quốc hội ở Anh. Thêm vào đó có những tòa án để phân xử các vụ tranh tụng giống như các tòa án ở Anh quốc. Tuy nhiên, các chính quyền thuộc địa không có quyền tối hậu trong công cuộc điều hành sự việc. Các thuộc địa phải nhận lệnh từ Anh quốc. Chẳng hạn như quốc hội Anh có thể thông qua những đạo luật mà các thuộc địa ở Mỹ châu phải tuân hành. Nhưng những đạo luật do cơ quan lập pháp của một thuộc địa thông qua có thể bị Anh quốc bác bỏ. Tuy nhiên điều đó không thường xảy ra. Các chính quyền các thuộc địa thật ra có nhiều quyền hành để thực thi các công việc của thuộc địa”.



- Các vị Thống đốc của các thuộc địa được tuyển chọn bằng nhiều cách

Các vị thống đốc của các thuộc địa không thừa hưởng các chức vụ thống đốc như Anh hoàng. Các vị này cũng không được tuyển chọn cùng một cách như nhau. Ở Rhode Island và ở Connecticut, các cử tri bầu cử để tuyển chọn thống đốc của mình. Như vậy dân chúng ở các thuộc địa này được hưởng nhiều quyền hành hơn chúng ở các thuộc địa khác. Ở trong ba thuộc địa khác: Maryland, Pennsylvania và Delaware- các vị điền chủ tuyển chọn các vị thống đốc. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, vị thống đốc do các vị điền chủ tuyển chọn phải được sự chấp thuận của nhà vua”.

“Bạn có thể muốn biết về các thuộc địa còn lại là: Massachusetts, Virginia, New Hamsphire, New York, New Jersey, North và South Carolina và Georgia. Hầu hết các thuộc địa này được thành lập do các công ty mậu dịch hay các nhà điền chủ, và lúc khởi đầu họ có quyền tuyển chọn các vị thống đốc. Nhưng sau này vì một lý do nào đó, nhà vua đã nắm quyền kiểm soát các chính quyền thuộc địa. Từ đó các vị thống đốc của các thuộc địa này do nhà vua bổ nhậm và phải chịu trách nhiệm với nhà vua. Cho nên các bạn thấy rằng người dân thuộc địa không có quyền nói lên tiếng nói về việc tuyển chọn các vị thống đốc”.

- Các cử tri tuyển chọn các nhà lập pháp

“Các vị thống đốc của chúng ta là những người rất có quyền thế và rất quan trọng”, Jonathan tiếp tục kể: “nhưng họ cũng chia sẻ công việc với cơ quan lập pháp. Đa số các cơ quan lập pháp có hai viện – Thượng viện và Hạ viện- thường được gọi là Hội đồng Lập pháp. Thượng viện là một cơ quan nhỏ. Các vị Thượng nghị sĩ do vị thống đốc bổ nhậm hơn là được bầu lên, và Thượng viện thì không quan trọng bằng Hạ viện. Hạ viện gồm các đại biểu do cử tri bầu lên. Mỗi tỉnh trong thuộc địa đều được bầu vào Hạ viện một hay nhiều đại diện. Cho nên qua các đại diện, dân chúng có tiếng nói trong việc làm luật và thông qua các đạo luật cũng như ấn định các sắc thuế.

“Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều có quyền bầu đại diện vào Hội đồng Lập pháp. Phụ nữ không được đi bầu. Tất cả nam cử tri dưới hai mươi tuổi cũng không được đi bầu. Thường thường chỉ những người tự do hay những ai làm chủ một số đất đai hoặc các tài sản khác mới được hưởng quyền đi bầu này. Ở một vài nơi khác, chủ nhân có tài sản cũng phải thuộc về một giáo hội nào đó mới được đi bầu. Ở thuộc địa Massachusetts Bay vào buổi đầu chỉ những tín hữu của giáo hội Thanh giáo mới được phép đi bầu”.

- Dân thuộc địa điều hành chính quyền địa phương của họ

Jonathan nói: “ Tôi hy vọng rằng tôi đã cho bạn một hình ảnh rõ ràng về chính quyền thuộc địa. Nhưng chắc chắn rằng bạn cũng muốn biết các địa phương được cai trị ra sao? Ở miền Tân Anh, mỗi tỉnh tự đảm nhiệm lấy các công việc riêng. Thỉnh thoảng có những phiên họp thành phố gọi là các phiên họp đại hội thành phố. Trong các cuộc đại hội này, tất cả các cử tri của làng xóm hay thành phố đều có thể tham dự vì thành phố thì rất nhỏ. Các cử tri có thể nói lên ý kiến của mình, bầu các viên chức địa phương, và quyết định phải làm gì cho công việc địa phương mình. Các bạn thấy rằng đại hội thành phố đã cho phép phần lớn các quyền tự trị địa phương”.

“ Dĩ nhiên, tôi đã không bao giờ đi khỏi nhà. Nhưng người ta thường nói với tôi rằng ở các thuộc địa miền Nam dân chúng không có đại hội thành phố. Bởi vì các đồn điền thì quá rộng lớn, dân chúng ở rải rác ở các miền đồng quê và có rất ít làng định cư. Cho nên chính phủ địa phương của họ để các tỉnh điều hành, và mỗi tỉnh bao gồm cả một miền rộng lớn. Công việc điều hành chính quyền của tỉnh thì nằm trong tay của vị cảnh sát trưởng (Sheriff), một vị sĩ quan và nhiều vị thẩm phán trị an. Những viên chức này do vị thống đốc bổ nhậm chứ không phải do dân bầu lên. Ở các thuộc địa miền Trung có sự trộn lộn của chính quyền thành phố và chính quyền tỉnh. Chính tôi cũng cảm thấy sung sướng được sống ở miền Tân Anh, nơi mà chúng tôi có đại hội thành phố”.

- Xung đột thường xuyên xảy ra trong chính quyền thuộc địa

Jonathan nói tiếp: “ Dĩ nhiên dù rằng cuộc sống của chúng tôi khá thuận thảo, nhưng chúng tôi cũng thường có những xung đột và tranh chấp. Đôi khi viên thống đốc cũng hành động theo ý muốn của ông ta mà không cần biết đến ý nguyện của dân chúng. Tuy nhiên, Hội đồng Lập pháp của mỗi thuộc địa đều có quyền bỏ phiếu về các dự luật thuế khóa. Và ở hầu hết các thuộc địa, hội đồng lập pháp bỏ phiếu quyết định về lương bổng của vị thống đốc. Cho nên các ông thống đốc không thể nào hành động quá độc đoán được.

“Và dân chúng cũng không phải là luôn luôn thỏa thuận với nhau đâu. Có thể có những bất đồng ý kiến giữa những người sinh sống ở các đô thị lớn và những người sinh sống ở các nông trại. Hoặc là có những sự tranh biện, cãi vả giữa những người định cư ở miền dọc theo duyên hải và những người sinh sống ở miền biên cương. Sự tranh chấp cũng có thể xảy ra giữa những người giàu có và những người khác. Không phải ai cũng hành động theo ý riêng của mình. Nhưng trên bình diện tổng quát, hình thức tổ chức chính quyền của chúng tôi tiến hành rất tốt đẹp. Tôi nghĩ rằng chúng tôi rất may mắn được tham dự vào chính quyền tự trị của chúng tôi”.

*

* *



Jonathan đã nói rất rõ ràng vào năm 1750, dân thuộc địa Anh đã tiến được một đoạn khá dài trên đường tiến tới chính quyền tự trị. Dân thuộc địa đã quen sống với một số quyền hành và quen với việc tham dự vào chính quyền của họ. Đó là những quyền hành quý báu, và những ai có quyền này sẽ không bao giờ chịu từ bỏ. Như chúng ta đã thấy người dân thuộc địa đã bảo vệ những quyền lợi này, và họ đã chiến đấu, và họ đã đổ máu cho quyền lợi này, và truyền lại những quyền lợi này cho con cái họ. Do đó, chúng ta ngày nay được thừa hưởng một gia tài quý báu mà chúng ta coi đó như là tự nhiên phải có.

*

* *


PHẦN BA
Mặc dầu dân thuộc địa Anh có những quyền hành và tiếng nói trong chính quyền của họ nhưng họ cũng bị mẫu quốc kiểm soát. Thật ra, Anh quốc có những ý tưởng rất rõ rệt về các thuộc địa và cách thức điều hành cai trị các thuộc địa. Những ý tưởng này như thế nào? Và cảm nghĩ của dân thuộc địa về những ý tưởng này ra sao?

ANH QUỐC CHO RẰNG CÁC THUỘC ĐỊA TỒN TẠI VÌ QUYỀN LỢI CỦA ANH QUỐC

Dân ở chính quốc Anh tin rằng các thuộc địa tồn tại cho quyền lợi của mẫu quốc. Họ lý luận rằng Anh quốc đã khởi lập các thuộc địa. Vì Anh quốc đã cho phép nên người dân thuộc địa mới được hưởng một số quyền hành, kể cả quyền tự trị. Anh quốc đã cung cấp vũ khí, tàu thuyền để trợ giúp công cuộc bảo vệ các thuộc địa chống lại người da đỏ và người Pháp. Cho nên cảm nghĩ người dân Anh ở chính quốc là các thuộc địa đã mang nợ mẫu quốc rất nhiều, và do đó các thuộc địa phải sẵn sàng tuân hành các luật lệ nhằm có lợi cho Anh quốc.

- Mậu dịch có nghĩa là làm giàu cho Anh quốc

Anh mong muốn các thuộc địa phải làm những gì? Anh quốc muốn các thuộc địa phải làm giàu cho mẫu quốc. Chắc chắn là Anh quốc không khám phá được mỏ vàng, mỏ bạc nào ở các thuộc địa để làm giàu như Tây Ban Nha. Tuy nhiên, có một cách mà các thuộc địa có thể làm giàu cho mẫu quốc, đó là việc buôn bán. Chẳng hạn như các thuộc địa phải sản xuất những hàng hóa và phẩm vật theo ý muốn của Anh quốc trong đó có thuốc lá, chàm, lúa gạo, và các vật liệu cần thiết cho việc đóng tàu. Mặt khác, dân thuộc địa cũng cần nhiều hàng hóa kỹ nghệ như quần áo, nồi xoong, chảo, vũ khí và các dụng cụ khác

Vì nhiều lý do, Anh quốc muốn rằng các thuộc địa ở Mỹ châu phải bán cho mẫu quốc hầu hết các nguyên liệu, và phải mua của Anh tất cả những sản phẩm kỹ nghệ nào mà họ cần dùng. Việc bán nhiều sản phẩm kỹ nghệ cho các thuộc địa sẽ mang lại công ăn việc làm cho nhiều người ở Anh, cũng như mang lại rất nhiều lợi cho các kỹ nghệ gia. Nếu việc chuyên chở các nguyên liệu và hàng hóa kỹ nghệ từ các thuộc địa về Anh và từ Anh sang các thuộc địa bằng các tàu thuyền của người Anh hay tàu thuyền chế tạo ở các thuộc địa Anh thì các chủ tàu và chủ đóng tàu cũng như các thương gia Anh sẽ hưởng lợi rất nhiều. Người Anh nghĩ rằng làm thế nào để họ có thể duy trì việc mậu dịch chỉ có lợi cho riêng họ như vậy được?

- Anh quốc thông qua các đạo luật để kiểm soát các thuộc địa

Để bảo vệ việc mậu dịch với các thuộc địa, Quốc hội Anh đã thông qua các đạo luật về hàng hải. Hai đạo luật quan trọng nhất trong các đạo luật này được Quốc hội Anh thông qua vào thập niên 1660. Các luật lệ hàng hải gồm các luật lệ (điều khoản) dưới đây:

1. Dân thuộc địa chỉ được xuất cảng một số sản phẩm sang Anh hay sang các thuộc địa khác của Anh. Lúc đầu chỉ có một số ít sản phẩm như đường, thuốc lá, và chàm để bán cho Anh quốc. Nhưng dần dần về sau dân thuộc địa lại sản xuất và xuất cảng thêm nhiều loại sản phẩm khác.

2. Tất cả các hàng hóa nhập cảng từ các quốc gia khác đến các thuộc địa, trước hết phải chở qua Anh quốc. Thí dụ như tàu chở trà từ Trung Hoa phải ghé qua Anh quốc trước đã rồi mới được đưa qua Philadelphia.

3. Mọi hàng hóa do các thuộc địa xuất nhập cảng đều phải được chuyên chở bằng tàu thuyền đóng tại Anh quốc hay tại các thuộc địa của Anh. Luật hàng hải định rằng ba phần tư thủy thủ đoàn của các tàu thuyền này phải là người Anh hay là dân thuộc địa Anh.

- Anh quốc kiểm soát việc sản xuất hàng hóa kỹ nghệ ở các thuộc địa

Lúc đầu dân định cư ở các thuộc địa có rất ít thời giờ và cơ hội để sản xuất các hàng hóa kỹ nghệ. Nhưng dần dần khi các thuộc địa ngày càng trở nên rộng lớn hơn, và càng ngày dân càng đến định cư đông đảo hơn thì một số thuộc địa bắt đầu sản xuất hàng hóa. Hàng hóa lúc bấy giờ không được chế tạo tại các cơ xưởng kỹ nghệ như ngày nay, mà trái lại được chế tạo tại ngay trong nhà của các kỹ nghệ gia. Tới khi việc sản xuất hàng hóa bành trướng đến độ có thể trở thành mối nguy hại cho việc bán hàng hóa chế tạo tại Anh quốc, Quốc hội Anh lại thông qua một số đạo luật khác để bảo đảm rằng các hàng hóa chế tạo ở các thuộc địa sẽ không ảnh hưởng đến việc tiêu thụ các hàng hóa của Anh . Thí dụ như dân thuộc địa có thể sản xuất quần áo để cho chính họ dùng, nhưng họ không được sản xuất những quần áo và mũ để bán sang các thuộc địa khác hay sang các quốc gia khác. Dân thuộc địa cũng có thể sản xuất sắt, nhưng họ không được phép biến chế sắt thành các hàng hóa.

Tuy nhiên, các đạo luật kiểm soát mậu dịch và sản xuất hàng hóa này đã không gây thiệt hại nhiều cho dân thuộc địa như các bạn tưởng. Vì rằng dân thuộc địa tin chắc Anh quốc là một thị trường tốt đẹp cho một số hàng hóa của họ. Việc đóng tàu và chuyển vận bằng tàu cũng được gia tăng vì các hàng hóa phải được chuyên chở bằng tàu của Anh hay tàu của thuộc địa. Sự thật là các luật lệ chế định ở các thuộc địa của Anh tương đối rất ít khắt khe nếu so với các thuộc địa của Tây Ban Nha. Nhưng dầu sao đi nữa thì Anh quốc đã tự ý điều hành công cuộc mậu dịch và sản xuất hàng hóa ở các thuộc địa mà rất ít chú ý đến ý nguyện của người dân thuộc địa.

DÂN THUỘC ĐỊA CHO RẰNG CÁC THUỘC ĐỊA TỒN TẠI CHO CHÍNH QUYỀN LỢI CỦA HỌ

Dân định cư ở Mỹ châu không đồng ý rằng mục đích của các thuộc địa là làm giàu cho Anh quốc. Sự thực họ cho rằng họ không mắc nợ Anh quốc. Họ nhớ lại rằng khi vượt đại dương đến định cư ở Mỹ châu, họ đã phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn nguy hiểm. Họ phải làm việc cực nhọc để tạo dựng nhà cửa ở giữa chốn hoang vu, và phải chiến thắng bọn người dã man thù nghịch. Mặc dù Anh quốc đã trợ giúp họ trong cuộc chiến chống Pháp, nhưng chính họ cũng tự đóng góp tiền bạc và quân sĩ vào cuộc chiến này. Thực ra dân thuộc địa cho rằng chính họ đã thực hiện hầu hết việc thiết lập tân đế quốc ở Mỹ châu. Vì lý do này mà họ tin rằng Anh quốc không nên điều hành công việc mậu dịch của họ.

- Nhiều luật lệ về thương mại không được dân thuộc địa tuân hành

Đã nhiều năm, những luật lệ của Anh về việc điều hành thương mại ở thuộc địa không gây ra những xáo trộn trầm trọng. Anh quốc vì quá bận rộn với các công việc ở tại chính quốc cũng như dồn hết nỗ lực để đánh bại Pháp quốc, nên không có đủ thì giờ để chú ý đến việc thực thi các luật lệ thương mại này. Mặc dầu một số viên chức được bổ nhậm để thực thi các luật lệ hàng hải, nhưng có nhiều người chẳng bao giờ vượt đại dương đi tới các thuộc địa để thi hành bổn phận (nhiều người chẳng bao giờ đến các thuộc địa nhậm chức). Các vị sĩ quan đồn trú tại các hải cảng thuộc địa lại không cố gắng hết mình để ngăn chặn dân thuộc địa khỏi buôn bán với các quốc gia khác. Cho nên việc buôn lậu xảy ra rất thường và rất có lợi cho dân thuộc địa. Chẳng hạn như thương gia thuộc địa đã nhập cảng lậu trà từ Hòa Lan thay vì mua trà của các thương gia người Anh với giá cao hơn. Khi các thương gia thuộc địa và các nhà trồng tỉa thuộc địa tụ tập ở quán rượu hay bàn tán với nhau bên cạnh lò sưởi, họ thường phàn nàn về các luật lệ của Anh quốc, nhưng họ cũng chỉ phàn nàn thôi.



- Dân thuộc địa bất đồng chính kiến với Anh quốc về chính quyền thuộc địa

Anh quốc và các thuộc địa ở Mỹ châu cũng có những ý kiến dị biệt về cách thức cai trị các thuộc địa. Mặc dầu dân thuộc địa trung thành với nhà vua nhưng họ tin rằng họ phải có quyền điều hành các công việc riêng của họ. Tinh thần tự do ở Mỹ châu rất mạnh, và Anh quốc thì quá xa đối với Mỹ châu. Dân thuộc địa cho rằng người Anh ở chính quốc kể cả nhà vua và luôn các vị cố vấn của nhà vua hiểu biết rất ít về tình hình ở Mỹ châu. Mặt khác, Anh hoàng và Quốc hội Anh lại nghĩ khác. Họ tin rằng Anh quốc có những quyền hành rộng rãi đối với dân định cư ở Mỹ châu. Một viên chức chính phủ Anh khi nói về các thuộc địa thì họ coi như là “những đứa con Mỹ châu này đã được chúng ta gây dựng, nuôi nấng cho đến trưởng thành và được bảo vệ trong vòng tay của chúng ta”.

Tuy nhiên, trước năm 1763 Anh quốc thường không khẳng định sử dụng quyền hành của chính quyền đối với thuộc địa. Chắc chắn là đôi khi có thể xảy ra một thuộc địa hay vị chủ nhân của thuộc địa bị thâu hồi mất bản hiến chương ban đặc quyền (giấy phép của nhà vua cho phép thiết lập thuộc địa), và chính quyền Anh vẫn tiếp tục đòi quyền đánh thuế dân thuộc địa mà không cần đếm xỉa đến những luật lệ do các thuộc địa thông qua. Tuy nhiên, ít khi Anh quốc sử dụng đến quyền hành này.

*

* *



Tóm lại dân thuộc địa hoàn toàn không đồng ý với Anh quốc về việc mẫu quốc có quyền kiểm soát các chính quyền và công việc mậu dịch của họ, tuy nhiên thường không xảy ra những xung đột thật sự. Nhưng có điều rất dễ nhìn thấy là bất cứ một hành động nào của Anh quốc muốn thi hành các luật lệ mậu dịch hay cai trị một cách chặt chẽ hơn ở các thuộc địa đều đưa đến xáo trộn.

*

* *



CHƯƠNG VIII

DÂN THUỘC ĐỊA MỸ CHÂU CHỐNG LẠI SỰ KIỂM SOÁT

GẮT GAO CỦA ANH QUỐC
Nếu năm 1775 có các đài truyền thanh và truyền hình thì có lẽ hai bản tin dưới đây đã được loan báo:

(Tháng 3 ngày 23) Chúng tôi tạm ngưng chương trình để gửi đến quý vị một bản tin đặc biệt. Hôm nay một vị lãnh tụ ở Virginia đã khuyên dân Mỹ chuẩn bị chiến tranh. Trong bài diễn văn trước hội nghị Virginia, ông Patrick Henry, một chính khách tiếng tăm đã nói rằng không còn hy vọng gì cho hòa bình nữa. Ông tuyên bố nếu người Mỹ muốn được tự do thì phải chiến đấu, và ông đã chấm dứt bài diễn văn nảy lửa của ông bằng những lời lẽ thách đố: “Tôi không biết những người khác sẽ tính toán hành động ra sao, còn về phần tôi thì hoặc là cho tôi được tự do hoặc là để cho tôi chết!”.

(Tháng 4 ngày 19) Tin mới nhất từ Boston. Hôm nay có đụng độ giữa dân thuộc địa Mỹ và quân đội Anh. Một toán quân sĩ Hoàng gia Anh tiến vào Concord, Massachusetts để tiêu hủy các đồ quân lương, quân cụ và đụng độ với dân thuộc địa tập trung ở làng Lexington. Súng nổ và nhiều dân thuộc địa bị giết. Sau đó có kịch chiến dữ dội ở cầu Concord.

*

* *



Chiến tranh đã bùng nổ giữa Anh quốc và dân thuộc địa Anh ở Mỹ châu. Mười hai năm trước đó, khi cuộc chiến với người Pháp và người da đỏ chấm dứt vào năm 1763, không ai có thể nghi ngờ rằng cơ sự đã xảy ra như thế này. Vậy thì phải có những lỗi lầm trầm trọng mới gây ra những lời lẽ thách đố cũng như hành động dữ dội như vậy. Trong chương này, chúng ta sẽ bàn về những biến cố xảy ra trong những năm 1763-1775 đưa đến cuộc chiến giữa mẫu quốc và các thuộc địa ở Mỹ châu. Để giúp cho chúng ta dễ dàng tìm hiểu rõ những biến cố này, chúng ta nên tìm hiểu các câu hỏi sau đây:

1. Anh quốc đã cố gắng kiểm soát chặt chẽ 13 thuộc địa như thế nào?

2. Dân thuộc địa Mỹ châu đã phản ứng lại sự kiểm soát chặt chẽ của Anh quốc ra làm sao?

3. Những việc gì đã xảy ra khi Anh quốc trừng phạt dân thuộc địa về công cuộc kháng chiến của họ?

*

* *
PHẦN MỘT



ANH QUỐC CỐ GẮNG KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ 13 THUỘC ĐỊA NHƯ THẾ NÀO?
- Anh quốc nghiên cứu những kế hoạch mới cho các thuộc địa

Nếu chúng ta có mặt tại cuộc họp Hội đồng Bộ Trưởng của nhà vua ở London vào khi cuộc chiến với người da đỏ trong năm 1763, thì có lẽ chúng ta đã nghe thấy Thủ tướng George Grenville nói với Hội đồng những lời lẽ sau đây:

“Thưa quý vị, trận đại chiến vừa chấm dứt. Sau những năm chiến đấu trường kỳ gian khổ, chúng ta đã đánh bại được kẻ thù hùng mạnh của chúng ta là nước Pháp. Chiến thắng đã mang lại cho chúng ta một giải đất rộng lớn ở Mỹ châu. Bây giờ Anh quốc đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông một đế quốc vĩ đại nhất trên thế giới.

“Tất cả đã làm cho chúng ta hài lòng. Nhưng chiến thắng này đồng thời cũng đặt chúng ta trước một vấn đề phải giải quyết. Hiện giờ chúng ta đã thâu đoạt được thêm đất đai ở Mỹ châu, chúng ta phải quản trị những vùng đất này. Chúng ta sẽ phải gửi quân đội đến các vùng đất mới này để duy trì trật tự.

“Quản trị các thuộc địa ở Mỹ châu của chúng ta và duy trì một đạo quân ở nơi đó sẽ rất tốn kém. Trong cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã tổn phí rất nhiều rồi. Chúng ta đã phải vay tiền, và giờ đây chỉ còn có một cách để trả món nợ này là chúng ta phải tăng thuế. Nhưng khi yêu cầu đóng thuế thêm thì các nhà điền chủ ở nước Anh này lại phàn nàn rằng họ phải đóng thuế nặng. Tôi không muốn bắt dân Anh phải chịu thuế thêm nữa. Hơn nữa, tôi tin rằng các thuộc địa phải đóng góp cho chúng ta một ít ngân khoản. Có những lý do mà các thuộc địa phải nên đóng góp. Nếu chúng ta duy trì một đạo quân ở Châu Mỹ thì dân thuộc địa sẽ chẳng hưởng lợi nhiều hơn người dân đóng thuế ở nước Anh này sao?”

Thật ra thủ tướng Grenville đã không nói những lời lẽ trên đây, nhưng chúng ta có thể tin chắc rằng người ta đã nói đúng những gì mà ông ta đang suy nghĩ lúc bấy giờ. Theo quan điểm này, ông Grenville đã lý luận rất hợp lý. Ông và các nhân viên trong chính phủ Anh cho rằng các thuộc địa phải được cai trị một cách hữu hiệu hơn, và chính các thuộc địa phải đóng góp nhiều tiền hơn để trang trải chi phí. Trong khi thủ tướng Grenville đang xúc tiến một kế hoạch nhằm để tăng cường quyền lợi của Anh ở Mỹ châu thì tin tức đưa về lại càng khiến cho ông tin rằng ông đã hành động đúng.



- Cuộc chiến của Pontiac khiến cho Thủ tướng Grenville tin là ông đang hành động hợp lý

Các bạn còn nhớ là có nhiều người định cư tiến đến lập nghiệp ở vùng Ohio, phía bên kia dãy núi Allegheny. Việc này làm cho người da đỏ ở vùng này trở nên giận dữ vì họ cho rằng vùng đất này là của họ. Mùa xuân năm 1763, họ thống nhất hành động trong một kế hoạch đánh đuổi người da trắng ra khỏi vùng đất của họ.

Lãnh tụ của người da đỏ là một quân nhân tên là Pontiac. Ông ta thuyết phục nhiều bộ lạc khác ở phía Tây nên tấn công các đồn ải của người Anh và các làng định cư ở vùng Ohio. Hành động như vậy cùng một lượt, người da đỏ sẽ đánh đuổi được người Anh ra khỏi vùng. Lúc đầu, các cuộc tấn kích của họ đều thành công. Hầu hết các đồn ải bị chiếm, nhiều dân định cư bị giết hại và nhà cửa bị thiêu rụi. Tuy nhiên, sau đó, quân đội Anh được gửi đến tăng viện cho dân định cư ở miền biên cương, và Pontiac bị đánh bại.

Thủ tướng Grenville nói cuộc chiến của Pontiac chứng tỏ rằng rất cần phải có một đạo quân ở Châu Mỹ để khống chế người da đỏ. Ông cũng cho rằng nếu dân định cư và dân da đỏ ở cách xa nhau, và nếu công cuộc định cư ở vùng Ohio được đình hoãn lại thì sẽ ít có xáo trộn lôi thôi hơn.



- Thủ tướng Grenville thi hành tân kế hoạch áp dụng cho các thuộc địa

Thủ tướng Grenville và chính phủ Anh xúc tiến việc kiểm soát gắt gao các thuộc địa ở Mỹ châu:

1. Bản tuyên cáo 1763. Năm 1763, Thủ tướng Grenville công bố một bản tuyên cáo nói rằng trừ trường hợp có giấy phép, không một làng định cư nào được thiết lập ở phía Tây dãy núi Allegheny. Nếu trước đây đã có những làng định cư ở vùng này rồi, thì dân làng ở vùng này phải di tản khỏi ngay tức khắc. Chính phủ Anh sẽ kiểm soát chặt chẽ mọi việc buôn bán với người da đỏ. Thủ tướng Grenville cũng đề nghị sẽ gửi 10 ngàn binh sĩ sang trú đóng ở các thuộc địa Mỹ châu để canh giữ biên thùy.

2. Thi hành nghiêm chỉnh các đạo luật hàng hải. Thủ tướng Grenville cũng kêu gọi phải thi hành nghiêm chỉnh các đạo luật hàng hải. Ông nhận định rằng nếu chặn đứng được mọi việc buôn lậu thì thương gia và kỹ nghệ gia người Anh sẽ hưởng lợi rất nhiều. Phải đánh thuế thêm vào các hàng hóa. Để thi hành kế hoạch của ông, nhiều sĩ quan được gửi sang Mỹ châu với chỉ thị nghiêm chỉnh ruồng bỏ bọn buôn lậu và trừng phạt những người phạm luật.

3. Luật con niêm. Cuối cùng, theo đề nghị của Thủ tướng Grenville, năm 1765, Quốc hội Anh thông qua luật con niêm để thâu thêm tiền của thuộc địa. Theo luật này thì các khoản giấy tờ hợp pháp, báo chí, niên giám và các loại bài giải trí đều phải dán con niêm do chính phủ Anh bán. Một vài loại con niêm chỉ đáng giá vài xu, nhưng những khoản khác thì thật hết sức mắc.

Chính phủ Anh cho rằng luật con niêm và các đạo luật khác là hợp lý. Nhưng họ đã không ngờ rằng bão tố đã nổi lên ở các thuộc địa.

*

* *


PHẦN HAI

DÂN THUỘC ĐỊA Ở MỸ CHÂU ĐÃ PHẢN ỨNG LẠI VIỆC

KIỂM SOÁT GẮT GAO CỦA ANH QUỐC NHƯ THẾ NÀO?
- Kế hoạch của Thủ tướng Grenville làm cho dân thuộc địa căm tức

Mỗi phần kế hoạch của Thủ tướng Grenville không bị nhóm này thì cũng bị nhóm khác của dân thuộc địa thù ghét. Thí dụ như dân định cư ở vùng Ohio thù ghét bản tuyên cáo 1763. Sau khi người Pháp bị đánh bại trong cuộc chiến giữa người Anh và người Pháp và với người da đỏ thì dân thuộc địa ở vùng Ohio nghĩ rằng họ sẽ được tự do đến vùng Ohio lập nghiệp. Họ không muốn một chính phủ ở nơi xa hàng ngàn dặm xen vào quấy rầy công cuộc làm ăn của họ. Cho nên họ coi thường bản tuyên cáo 1763 và tiếp tục đến lập nghiệp ở bất kỳ nơi nào họ muốn. Các thương gia và các chủ tàu chuyên chở ở thuộc địa thì lại không muốn luật lệ hàng hải được thi hành, bởi vì việc buôn lậu đã mang lại cho họ một nguồn lợi lớn lao.

DÂN THUỘC ĐỊA HOẠT ĐỘNG CHỐNG LẠI LUẬT CON NIÊM



tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương