* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown


- Không bên nào thắng trong ba cuộc chiến đầu tiên



tải về 2.16 Mb.
trang10/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   33

- Không bên nào thắng trong ba cuộc chiến đầu tiên

Ba cuộc chiến đầu tiên giữa các thuộc địa hai bên Anh và Pháp đã tiến hành rất ít. Người Pháp và các đồng minh da đỏ hiếu chiến của họ thường tấn công vào các vùng định cư của người Anh không được phòng thủ. Nhiều làng định cư ở vùng biên cương như Deerfield, Massachusetts thường trải qua những giờ phút kinh hoàng và khiếp sợ mỗi khi người da đỏ thình lình tràn tới. Nhiều gia đình đau khổ vì mất cha, mất mẹ, mất anh, mất em hoặc bị bắt mang đi hay bị đánh đập tàn nhẫn. Người Anh trả đũa lại bằng cách tấn công vào các đồn ải chính của người Pháp ở châu Mỹ – Quebec trên bờ sông Laurence, pháo đài Louisburg ở mũi Breton Island. (Xem hình các đồn ải này ở trang 131b). Họ thất bại không chiếm được Quebec mặc dù họ chiếm giữ được Louisburgh, nhưng khi hòa bình được tái lập, họ phải trả thành phố này lại cho người Pháp. Bù lại người Pháp phải nhìn nhận chủ quyền của Anh ở Acadia (Nova Scotia) và Newfoundland. Nhưng ba cuộc chiến tranh này đã không tạo được sự thay đổi nào trong các lãnh thổ của Anh cũng như của Pháp ở Bắc Mỹ, và không bên nào thâu đoạt được chiến thắng cụ thể. Mặc dù các cuộc chiến tranh ở Mỹ châu rất là ác liệt, nhưng đã bị lu mờ bởi các cuộc chiến rộng lớn hơn ở Âu châu.



- Cả Anh lẫn Pháp đều đòi quyền làm chủ vùng thung lũng Ohio

Cuộc chiến tranh thứ tư là cuộc chiến tranh với cả người Pháp lẫn người da đỏ. Cuộc chiến này khởi sự ở Bắc Mỹ và đã bùng nổ vì cả người Pháp lẫn người Anh đều muốn nắm quyền kiểm soát giải đất phì nhiêu dọc theo sông Ohio. Người Pháp muốn thiết lập một hệ thống các pháo đài và thương điếm để có thể liên kết các vùng định cư của họ ở hạ lưu sông Mississippi với các vùng ở Tân Pháp. Một kế hoạch như vậy không những củng cố đế quốc Pháp ở vùng này, mà còn có thể ngăn chặn không cho người Anh đến lập nghiệp ở vùng thung lũng sông Ohio. Tuy nhiên, người Anh không dễ dàng để cho người Pháp chiếm trọn giải đất này mà không đổ máu. Người Anh cũng không muốn bị giới hạn trong giải đất hẹp dọc theo bờ biển Đại tây dương. Trong khi ấy, mỗi năm lại có nhiều người Anh đến Mỹ châu lập nghiệp. Phần lớn những đất đai phì nhiêu dọc theo bờ biển Đại tây dương đã có người đến khai phá và chiếm hữu rồi, và càng ngày càng có nhiều người Anh định cư hăng hái muốn tiến về phía Tây để lập nghiệp. Cũng vào lúc này, một nhóm người định cư ở Virginia thành lập một công ty để chiếm giải đất ở vùng thung lũng sông Ohio. Anh hoàng ban cấp hai trăm ngàn mẫu cho công ty này, một công ty mệnh danh là công ty thổ địa Ohio.



- Người Pháp bắt đầu tăng cường trong vùng lãnh thổ tranh chấp (thung lũng sông Ohio)

Khi hay tin việc Anh hoàng ban cấp đất ở vùng thung lũng sông Ohio cho công ty này vào năm 1749, vị thống đốc Pháp gửi một đoàn quân đến vùng thung lũng sông Ohio. Ngay khi đoàn quân này đi dọc theo sông Allegheny và một phần sông Ohio, họ bắt đầu thiết lập những tấm bia để đánh dấu chủ quyền của Pháp ở vùng này. Đồng thời người Pháp cũng cảnh cáo những người da đỏ rằng họ không được hoạt động liên kết với người Anh. Liền sau đó, người Pháp thiết lập các đồn ải trên vùng bờ hồ Erie, và tại những cứ điểm ở phía Nam hướng về sông Ohio.







- Người Anh cố gắng đánh bật người Pháp ra khỏi thung lũng sông Ohio

Người Pháp tiến tới vùng thung lũng sông Ohio làm cho người Anh lo ngại. Mùa thu năm 1753, người Anh gửi một sứ giả băng qua các miền hoang dã đến các đồn ải của người Pháp ở vùng tranh chấp. Sứ giả này là George Washington lúc đó mới 21 tuổi. Ông mang lá thư của vị thống đốc thuộc địa Virginia gửi cho vị tư lệnh các đồn ải của Pháp ở vùng này. Lá thư này cảnh cáo người Pháp phải rời bỏ lãnh thổ này vì vùng này thuộc Anh quốc. Vượt các đường mòn khó khăn dưới trời mưa tuyết lạn, người thanh niên trẻ Washington đến nơi và trao thư này cho người nhận. Nhưng vị tư lệnh của người Pháp không hề chú ý tới lời cảnh cáo của người Anh, và Washington lại trở về. Trên đường về, chẳng may ông trượt chân té xuống sông gần chết đuối, nhưng may mắn ông đã thoát hiểm.

Năm sau, ông trở lại Ohio. Nhưng lần này ông trở lại với một toán nhỏ quân sĩ. Toán quân của ông được gửi đi để tiến chiếm đồn Duquesne ở nơi ngã ba các dòng sông tạo thành sông Ohio (xem bản đồ trang 131b). Vì quân sĩ của ông quá ít so với quân Pháp, nên toán quân của ông không những đã thất bại không chiếm được đồn Duquesne mà còn bị buộc phải đầu hàng và phải trở về Virginia. Cuộc xung đột này khởi sự cuộc chiến giữa Anh với cả người da đỏ và người Pháp. Để tiến hành cuộc chiến này, cả Anh lẫn Pháp đều gửi quân đến Mỹ châu để tăng viện.

- Tướng Braddock bị người Pháp đánh bại

Năm 1775 người Anh quyết định tấn công các pháo đài, đồn ải quan trọng của người Pháp. Tổng Tư Lệnh quân đội Anh ở Mỹ châu là tướng Edward Braddock tự thân chinh đi cầm quân tiến chiếm đồn Duquesne. Có George Washington đi theo, đạo quân lực lượng chính quy và lực lượng địa phương Virginia theo hướng Tây nhằm tiến đến đồn Duquesne. Đoàn quân vừa di chuyển vừa thiết lập đường tiến quân xuyên qua vùng đất hoang vu. Tướng Braddock rất ít chú ý đến lời khuyên của quân sĩ thuộc địa trong công cuộc chiến đấu chống lại người da đỏ. Ông nói: “Thực ra những quân mọi rợ này chỉ có thể là kẻ thù đáng sợ đối với dân quân Mỹ châu còn thiếu kinh nghiệm của các bạn, nhưng đối với quân đội có kỷ luật của nhà vua thì chúng không thể nào là mối đáng quan tâm”. Sự quá tự tin của ông đã đưa đến một hậu quả thảm hại. Ngay khi quân đội Anh chỉnh tề đi theo hàng dọc xuyên qua khu đất hoang vu thì một toán quân Pháp và da đỏ tấn công họ bất ngờ. Những chiếc áo đỏ của quân đội Anh quả là mục tiêu tốt đẹp cho đối phương đang ẩn núp. Đoàn quân dũng lược kiêu hùng của tướng Braddock bị thảm bại và phải rút lui. Tuy nhiên, con đường mà họ đã thiết lập khi di chuyển tiến quân sau này trở thành thông lộ chính cho những người đi định cư tiến vào thung lũng sông Ohio...



- Người Pháp thành công liên tiếp

Theo sau sự thất bại của tướng Braddock là sự may mắn liên tiếp của người Pháp. Người Anh không gửi đầy đủ quân lính tiếp viện, và vị tổng tư lệnh Braddock không phải là người chuyên đi chiến đấu ở nơi rừng rú hoang vu. Các thuộc địa của Anh ở Mỹ châu chưa kết hợp lại với nhau, chưa thể cung cấp tiền bạc cũng như binh sĩ đủ để chiến thắng. Kết quả là quân Pháp chiến thắng hầu hết trên các mặt trận trong suốt hai năm liền, chiếm được nhiều đồn ải của Anh.



- William Pitt ra tay hành động

Vận mạng của cuộc chiến bắt đầu thay đổi vào năm 1758. Người giữ vai trò quan trọng trong sự thay đổi này không phải là một quân nhân, mà là một vị lãnh đạo trong chánh phủ Anh quốc. Người đó chính là ông William Pitt. Ông Pitt thuyết phục các thuộc địa phải cung cấp thêm quân sĩ và tài chánh. Ông khuyến khích người Anh chiến đấu hăng hái hơn. Pitt cũng gửi sang Mỹ châu vị chỉ huy trẻ trung và cường tráng hơn. Đã đến lúc Anh quốc phải đạt chiến thắng liên tiếp. Một đồn lớn của người Pháp ở Louisburgh bị đạo quân đông đảo của Anh tấn công và buộc phải đầu hàng. Người Anh cũng có thể tấn chiếm các đồn ải dọc theo biên giới phía Tây, trong đó có pháo đài Duquesne. Sau đó người Anh đặt tên cho pháo đài này là pháo đài Pitt để vinh danh ghi công ông. Từ đó pháo đài nhỏ bé này phát triển thành thị trấn Pittsburgh, một trung tâm kỹ nghệ.



- Hai vị tướng lãnh dũng cảm đương đầu với nhau tại Quebec

Trận đánh quyết định thắng bại cho cuộc chiến diễn ra tại Quebec và đúng bốn năm sau khi tướng Braddock bị thảm bại. Lực lượng Anh dưới quyền chỉ huy của tướng James Wolfe. Wolfe là vị chỉ huy có tài và đã tham dự cuộc tấn chiếm Louisburgh. Đầu mùa hè năm 1759, theo lệnh của tướng Wolfe, một hạm đội Anh chuyển vận hàng ngàn binh sĩ ngược dòng sông St. Laurence tiến lên bỏ neo ở gần thị trấn Quebec. Tuy nhiên, quân Anh không thể tấn công trực tiếp thành lũy này của người Pháp được. Tọa lạc trên một thế dốc cao, Quebec được bảo vệ bằng những bức tường thành kiên cố và nhiều pháo đài.

Vị tướng chỉ huy quân đội Pháp ở đồn này là tướng Louis Montcalm thề liều chết bảo vệ Quebec. Ông hiểu rằng điều mà tướng Wolfe không ngờ đó là rất khó cho quân Pháp bảo vệ Quebec trong một thời gian rất lâu dài. Mặc dầu tướng Montcalm có nhiều quân sĩ hơn tướng Wolfe, nhưng phần lớn trong đám quân sĩ này lại không được huấn luyện kỹ càng. Trong thị trấn thì thiếu lương thực và không hy vọng gì nhận được quân lương và tiếp viện từ Pháp gửi tới, trong khi đó thì hải quân Anh kiểm soát chặt chẽ sông St. Laurence. Mối hy vọng duy nhất của tướng Montcalm là cầm cự giữ Quebec cho đến mùa đông dòng sông sẽ đông lại, và như vậy hạm đội anh buộc phải rút lui.

- Trận đánh ở Quebec quyết định số phận của Tân Pháp

Trong khi đó đại pháo của tướng Wolfe bắn qua sông nã vào thị trấn nhưng gây thiệt hại cho đối phương rất ít. Vì mùa đông gần tới nên tướng Wolfe quyết định một nước liều. Trong đêm tối, ông cho một toán quân leo lên một dốc đứng ở tại một nơi phía trái, nơi mà quân Pháp không canh chừng. Sáng hôm sau quân Pháp thất kinh thấy quân Anh chỉnh tề từng hàng trên một khu đất bằng rộng rãi ở ngoài thành lũy của thị trấn. Montcalm hạ lệnh tấn công địch quân. Mặc dầu chiến đấu rất gan dạ, nhưng quân Pháp không thể nào địch lại được với đạo quân chính quy tinh luyện của Anh. Chính tướng Montcalm bị thương nặng, và trong khi nằm hấp hối, ông nói: “Tôi cảm thấy sung sướng là không còn sống để chứng kiến cảnh đầu hàng của Quebec”. Tướng Wolfe cũng bị thương nặng. Khi hay tin địch quân đang rút lui, ông nói những lời chót: “Bây giờ thì tôi có thể chết trong hòa bình”.

Quân Anh tiến vào Quebec hạ cờ Pháp xuống và kéo cờ Anh lên. Trận đánh Quebec thường được coi như là một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử thế giới. Trận đánh này quan trọng vì nó quyết định Bắc Mỹ sẽ thuộc về người Pháp hay người Anh. Quân Anh tấn chiếm Montreal một cách dễ dàng, và ở Bắc Mỹ chỉ còn đánh nhau lẻ tẻ chút ít nữa thôi. Mặc dù chiến tranh còn tiếp diễn ở nhiều nơi, nhưng quân Anh vẫn liên tiếp đoạt nhiều chiến thắng. Sau cùng, cuộc xung đột chấm dứt vào năm 1763 bằng hòa ước Ba Lê.

- Pháp quốc từ bỏ mọi đòi hỏi ở Bắc Mỹ

Hòa ước Ba Lê 1763 là một điều sỉ nhục cho nước Pháp kiêu hùng. Theo hòa ước này thì ngoại trừ New Orleans, Anh quốc chiếm được của Pháp toàn thể lãnh thổ nằm ở phía Đông sông Mississippi. Nhìn vào bản đồ trang 131b, ta thấy giải đất mênh mông này bao gồm các vùng định cư mà ngày nay ta gọi là Gia Nã Đại cùng miền đất phía Nam vùng Đại hồ. Tây Ban Nha, một nước đồng minh của Pháp trong cuộc chiến, cũng phải trao cho Anh vùng Florida. Để đền bù cho sự thua thiệt này, Pháp nhường cho Tây Ban Nha New Orleans và Pháp đòi quyền làm chủ vùng đất nằm phía Tây sông Mississippi. Ngoại trừ hai hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi Newfoundland và một hòn đảo ở vùng West Indies (vùng biển Caribbean), Pháp mất hết lãnh thổ ở Tân Thế Giới.

*

* *


­MỤC III

CÁC TÂN QUỐC GIA

ĐƯỢC THÀNH LẬP TRONG KHI TÂN THẾ GIỚI LÀM RUNG CHUYỂN CÁC CHÍNH QUYỀN ÂU CHÂU
Mục III sẽ nói về Tân thế giới cắt đứt những liên hệ với cựu thế giới như thế nào. Đây là những chuyện ly kỳ về những trận chiến và những cuộc đấu tranh anh dũng cho tự do. Những người can đảm đã liều chết chống lại bất công để chiến đấu cho những gì mà họ tin tưởng là phải. Các cựu đế quốc mất đi và các Tân quốc gia được thành lập trong khi tinh thần tự do lan tràn khắp Tân thế giới.

Vào năm 1763, Anh quốc làm chủ lãnh thổ rộng lớn chạy dài từ Đại tây dương tới sông Mississippi và từ vịnh Mễ Tây Cơ tới vịnh Hudson. Tất cả những người sống trong lãnh thổ này đều là thần dân cuả Anh quốc và phải có bổn phận trung thành với Anh hoàng. Nhưng rồi chỉ 12 năm sau, tại sao lại xảy ra cảnh tượng quân đội Anh hoàng và dân quân Bắc Mỹ lăm lăm cầm súng đương đầu đối diện với nhau. Hiển nhiên là vào năm 1783 Anh quốc rất vững mạnh ở Mỹ châu nhưng cũng mất đi phần lớn các thuộc địa ở Mỹ. Trong một thời gian dài hơn, vào khoảng ba trăm năm, Tây Ban Nha đã thống trị một đế quốc chạy dài từ California tới mũi cực Nam Nam Mỹ. Nhưng tới đầu thế kỷ thứ XIX, quốc gia này cũng không còn nắm quyền kiểm soát đế quốc ấy nữa. Một lần nữa, biến cố đã xảy ra như thế nào?

Ba chương đầu của mục này sẽ nói về những biến cố xảy ra ở 13 thuộc địa của Anh. Chương VII sẽ nói về hình thức chính phủ phát triển ở các thuộc địa Anh và những liên hệ với nhau và với Mẫu quốc... Chương VIII sẽ nói về những luật lệ khắt khe do chính phủ Anh ban hành khiến cho người dân thuộc địa ngày càng trở nên chống đối mạnh mẽ về những ngôn từ mở đường cho cuộc chiến vào khi dân quân thuộc địa đương đầu với quân sĩ chính quy Anh ở Lexington và Concord. Chương IX sẽ nói về công cuộc chiến đấu giành độc lập của 13 thuộc địa.

Chương cuối cùng của mục III sẽ nói về những biến cố xảy ra liền sau đó tại các nơi khác ở Tân thế giới. Chúng ta sẽ tìm hiểu một nhóm nhỏ lãnh tụ nhiệt tâm lãnh đạo các thuộc địa Tây Ban Nha giành độc lập như thế nào. Và chúng ta cũng sẽ tìm hiểu Gia Nã Đại đã giành được quyền kiểm soát nội bộ như thế nào dẫu rằng Gia Nã Đại vẫn còn nằm trong đế quốc Anh.

... Cho nên, chúng tôi, những người đại biểu của Hiệp Chủng Quốc...long trọng tuyên bố những thuộc địa hợp nhất này phải là những xứ độc lập và tự do”. (Trích trong bản Tuyên ngôn Độc Lập).
CHƯƠNG VII

NGƯỜI ANH ĐÃ CAI TRỊ CÁC THUỘC ĐỊA NHƯ THẾ NÀO?
Nếu bạn là người Hoa Kỳ, có bao giờ bạn suy nghĩ rằng các bạn có những quyền nào không? Thí dụ như bạn và gia đình bạn đi nhà thờ, không có luật nào của Hoa Kỳ bắt các bạn phải đi nhà thờ nhất định nào. Các bạn có quyền quyết định cách thức và nơi chốn mà các bạn muốn đi lễ. Nói cách khác, đối với người Hoa Kỳ, tự do tín ngưỡng là một trong những quyền hành xử của họ. Hãy giả thử rằng thân phụ của bạn không thích một luật nào do Quốc hội đề nghị, nếu ông ấy muốn, ông ấy có thể chỉ trích hành động của Quốc hội với bạn bè của ông ấy. Ông ấy cũng có thể viết thư đến một tờ báo để nói lên những điều ông ấy nghĩ. Hay là nếu ông ấy muốn, ông cũng có thể thuê hội trường để làm nơi diễn đàn phản đối công khai. Đây là một thí dụ về tự do ngôn luận, và cũng là một quyền rất quý báu đối với người Hoa Kỳ. Có lẽ bạn cũng có thể suy nghĩ về các quyền lợi khác mà bạn đang được hưởng.

Chúng ta đã có những quyền đó như thế nào? Một vài quyền đó đã phát triển ở Mỹ châu. Chúng ta sẽ đọc trong chương này, dân đi lập nghiệp người Anh đã mang đến thuộc địa một số quyền khác mà họ rất quý báu. Chúng ta sẽ tìm hiểu các chính quyền cai trị những người dân thuộc địa. Chúng ta sẽ thấy rõ rằng những luật lệ của thuộc địa được soạn thảo bởi các cơ quan lập pháp của thuộc địa.

Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu Anh quốc điều hành công cuộc mậu dịch ở các thuộc địa như thế nào, và mẫu quốc đã bất đồng chính kiến với các thuộc địa về chính quyền thuộc địa và về công việc mậu dịch như thế nào. Dưới đây là những đề tài:

1. Dân thuộc địa đã du nhập những quyền nào vào Tân thế giới?

2. Hình thức chính phủ nào đã được bành trướng ở các thuộc địa Anh?

3. Tại sao Anh lại bất đồng chính kiến với các thuộc địa về các công việc của thuộc địa?

*

* *
PHẦN MỘT



DÂN THUỘC ĐỊA ANH ĐÃ DU NHẬP NHỮNG QUYỀN NÀO VÀO TÂN THẾ GIỚI?
- Đời sống dân thuộc địa của các quốc gia Tây Ban Nha, Pháp và Anh khác hẳn nhau

Chúng ta hãy đi thăm ba người sống vào năm 1750 ở rải rác ba nơi khác nhau ở Tân thế giới. Người thứ nhất là dân thuộc địa Tây Ban Nha tên là Fernando. Fernando là một thương gia sinh sống ở thị trấn Mexico. Như chúng ta đã thấy ở chương ba, Fernando có rất ít tự do. Mặc dầu ông ta là người Tây Ban Nha trung thành và là một người công giáo tốt, ông ta cũng không được tham dự vào chính quyền ở Tân Tây Ban Nha hay chính quyền của thị trấn Mexico. Các chính quyền này do vị phó vương kiểm soát tất cả. Fernando không được tự do phê bình chính phủ hay nhà vua. Ngay cả các công việc của ông ta cũng bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ.

Bây giờ chúng ta hướng về túp lều trong một đồn điền rộng lớn ở vùng thung lũng sông St. Laurence. Đây là gia đình của ông Pierre ở Tân Pháp. Đời sống của ông Pierre cũng không có nhiều tự do cho lắm. Giống như Fernando ở Tân Tây Ban Nha, ông Pierre là một người trung thành với giáo hội công giáo cũng như đối với nhà vua, nhưng ông cũng không có quyền được tham dự vào chính quyền. Các vị đại diện của nhà vua hầu như nắm trọn quyền cai trị tất cả những người dân sinh sống ở Tân Pháp. Ông Pierre cũng không làm chủ một miếng đất nào cả. Ông ta sinh sống trong một đồn điền cảu một vị điền chủ thế lực. Ông chỉ được phép giữ lại một phần hoa lợi mà ông ta trồng trọt, nhưng lại có nhiều bổn phận đối với vị điền chủ. Ngay đến việc hôn nhân của ông ta, ông cũng phải chấp nhận lời khuyên của ông chủ.

Sau cùng, chúng ta hãy ghé lại căn nhà nhỏ bé của ông Jonathan Blake ở thuộc địa Massachusetts. Jonathan là một người tự do từ Anh tới với hy vọng cuộc mưu sinh sáng sủa hơn và đời sống của ông ta ở Mỹ châu có nhiều tự do hơn đời sống của Fernando hay Pierre. Ông làm chủ một căn nhà và một sớ đất canh tác. Ông tự do điều hành công việc như ý muốn. Hơn nữa, ông có quyền tham dự vào chính quyền thuộc địa. Ông có thể bỏ phiếu để bầu đại diện vào cơ quan lập pháp cho toàn thể thuộc địa. Cơ quan lập pháp này quyết định nhiều vấn đề quan trọng, trong đó bao gồm cả vấn đề thuế khóa mà người dân thuộc địa phải đóng góp. Jonathan có một số quyền lợi khác. Thí dụ như ông không thể bị trừng phạt vì một tội nào đó trừ trường hợp ông ta bị một nhóm người đồng hương gọi là bồi thẩm đoàn xác nhận ông có tội.

Chính Jonathan đã không làm gì để có nhiều tự do hơn Fernando hay Pierre, mà chính những vị tổ tiên người Anh của ông, những người yêu chuộng tự do, đã khẳng định những quyền này và truyền lại cho ông. Dưới đây chúng ta hãy tìm hiểu những diễn tiến về những quyền này.

- Dân Anh giới hạn quyền lực của nhà vua

Vào thời kỳ người ta đổ xô đến Tân thế giới để định cư thì các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha đều là những nước quân chủ. Nhưng trong khi các vị vua chúa các nước Pháp và Tây Ban Nha nắm trọn quyền cai trị trong nước thì nhân dân Anh đã từ từ giới hạn quyền lực của nhà vua. Một khi nhà vua cố ý xâm phạm đến quyền nào mà dân Anh cho là quyền tự do riêng tư của họ thì họ phản đối. Chúng ta sẽ nói về ba vụ phản đối dưới đây là những bước tiến quan trọng trong công cuộc đấu tranh giới hạn quyền lực của các vị vua chúa Anh quốc và để tăng thêm các quyền lợi của người dân Anh.

1. Vụ thứ nhất của những bước tiến này đã xảy ra khá lâu, đó là vào năm 1215. Vào lúc ấy, một vị bạo chúa bất tài tên là John cai trị Anh quốc. Ông muốn cai trị đất nước theo ý thích của ông. Nhưng một nhóm nhà quý tộc đã buộc ông phải xác nhận một tài liệu chính thức thành văn gọi là Magna Carta, chữ Latin, có nghĩa là “Đại Hiến Chương”. Trong bản Magna Carta, vua John phải chấp nhận những giới hạn về quyền lực của ông. Ông đồng ý rằng các nhà quý tộc và các chủ điền sẽ không còn bị trừng trị do ý muốn trong lúc bốc đồng của nhà vua nữa, mà chỉ có thể bị đưa ra trước một bồi thẩm đoàn để xét xử theo luật về đất đai. Nhà vua cũng phải đồng ý là phải tham vấn với đại hội đồng quý tộc và các vị chức sắc trong giáo hội về nhiều vấn đề. Để cho được chắc chắn, các nhà quý tộc cũng phải tự kiểm soát họ trong khi họ cưỡng bách nhà vua phải chấp nhận tài liệu này. Tuy nhiên, vào lúc đó tất cả những quyền lợi xác định trong bản Đại Hiến Chương được áp dụng cho hết thảy mọi người dân Anh.

2. Một vị vua khác bị buộc phải chú trọng đến ý nguyện của dân chúng là vua Charles I. Vua Charles I là người cai trị đất nước theo ý muốn của ông. Ông lên trị vì đúng vào lúc người Thanh giáo lìa bỏ Anh quốc. Ông hầu như không chú ý đến Quốc hội, một cơ quan lập pháp gồm các nhà quý tộc và các vị đại diện dân chúng. Ông cũng thâu thuế mà không cần sự ưng thuận của Quốc hội. Sự phản đối chống lại hành động độc đoán của ông dữ dội đến nỗi chính vua Charles I phải chấp nhận bản tuyên ngôn mệnh danh là bản “Thỉnh nguyện quyền” (Petition of rights). Bản thỉnh nguyện quyền này định rằng nhân dân Anh sẽ không phải đóng thuế nếu không có sự đồng ý của Quốc hội. Sau này, khi vua Charles thất hứa không tuân hành những điều đã được ấn định trong bản thỉnh nguyện quyền trên đây, dân Anh nổi dậy lật đổ và sát hại ông.

3. Một vị vua Anh khác nữa tên là James II cũng chà đạp lên quyền lợi của Quốc hội và dân chúng Anh. Năm 1689, sau khi James II buộc phải trốn khỏi Anh quốc thì một bản tài liệu mệnh danh là bản Dân quyền (Bill of rights) được soạn thảo. Từ đó không còn vị Anh hoàng nào còn xâm phạm thật sự đến quyền lợi của nhân dân Anh đã được ghi trong bản Dân quyền.

- Những quyền hành của dân Anh được du nhập sang Châu Mỹ

Chấp nhận những tài liệu quan trọng trên đây – bản Đại hiến chương (Magnata Carta hay Greqt Charter), bản Thỉnh nguyện quyền (Petition of right), bản Dân quyền (Bill of rights)- Các vị hoàng đế Anh đã nhìn nhận rằng nhân dân Anh có những quyền quan trọng. Chẳng hạn như dân Anh (nếu chẳng may bị cáo) có quyền được xét xử công bằng và vô tư bằng một bồi thẩm đoàn, và có quyền gửi khiếu nại lên nhà vua. Nhân dân có quyền tuyển chọn đại biểu vào Quốc hội. Quốc hội có quyền thông qua các đạo luật và có quyền ấn định các sắc thuế. Các quyền hành này đối với chúng ta thật là quan trọng vì rằng người Anh đi lập nghiệp ở Mỹ châu sẽ đòi hỏi những quyền hành tương tự như vậy ở Tân thế giới. Trong những bản sắc dụ cấp phép khởi lập các thuộc địa ở Bắc Mỹ, nhà vua tuyên bố rằng người dân đi lập nghiệp ở Bắc Mỹ sẽ có “những quyền tự do...giống như họ cư ngụ và sinh sống ở trong lãnh thổ Anh quốc”. Đó là lý do tại sao Jonathan được hưởng nhiều tự do hơn Pierre và Fernando. Trong chương tới, chúng ta sẽ thấy rằng những quyền lợi này thật là vô cùng quan trọng đối với nhân dân thuộc địa Anh, cho nên họ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của họ.



- Tinh thần tự do phát triển ở Mỹ châu

Dân thuộc địa Anh không những có tất cả các quyền lợi của người dân Anh mà họ còn được hưởng tự do rộng rãi ở Tân thế giới hơn là đồng bào của họ được hưởng ở Anh quốc. Không có gì khó hiểu vì đó là sự thật. Như chúng ta biết, có một điều là công cuộc định cư ở các thuộc địa Anh phần lớn được thực hiện do các công ty mậu dịch và các nhà điền chủ thế lực. Khởi đầu các vị Anh hoàng ít chú ý đến những gì xảy ra ở Tân thế giới. Họ rất bận rộn với các công việc ở chính quốc nên không để tâm chú ý đến dân định cư vật lộn tranh đấu ở nơi hải ngoại. Sự việc chính quyền Anh ít chú ý tới các thuộc địa khiến cho dân định cư ở đây được tự do rộng rãi trong việc điều hành công việc nội bộ của họ.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng các thuộc địa cách xa Anh quốc hàng ba ngàn dặm đường biển. Người ta phải mất nhiều tuần lễ có khi nhiều tháng vượt Đại tây dương mới tới được thuộc địa. Dĩ nhiên là các thuộc địa này được hưởng tự do rộng rãi để tự trị hơn là mọi việc đều phải chờ mệnh lệnh ban hành từ Anh quốc gửi đến. Và chính Tân thế giới với những vùng đất rộng bao la bát ngát có biết bao nhiêu cơ hội khích động tinh thần tự do. Dân thuộc địa tin rằng đã có công trèo đèo vượt suối, thắng gian nguy ở chốn hoang vu thì họ phải có tiếng nói trong chính quyền của họ.

Tuy nhiên, thật là nhầm lẫn nếu nghĩ rằng người dân thuộc địa Anh được hoàn toàn làm chủ chính họ. Họ không có một số quyền lợi mà người dân Hoa Kỳ ngày nay coi đó như là dĩ nhiên phải có. Chẳng hạn như thật là dễ nguy hiểm cho người nào dám lớn tiếng chỉ trích nhà vua hay các viên chức của Hoàng gia. Hơn nữa, có nhiều dân thuộc địa như những người nô lệ da đen hay những công nhân có ký giao kèo (da trắng) không có tự do. Và ở một vài thuộc địa, dân định cư có ít tự do hơn là ở những thuộc địa khác. Nhưng dầu sao, vào năm 1750, chính quyền ở khắp các thuộc địa Anh đã cho dân chúng được hưởng tự do rộng rãi hơn mọi nơi nào khác ở Tân thế giới hay nhiều nơi ở Âu châu. Chúng ta sẽ bàn xem chính quyền ở các thuộc địa như thế nào.

*

* *
PHẦN HAI



HÌNH THỨC CHÍNH PHỦ NÀO ĐƯỢC PHÁT TRIỂN Ở



tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương