Thử lạm bàn phát triễn tỉnh Cao Bằng



tải về 154.42 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu03.10.2016
Kích154.42 Kb.
#32599
  1   2   3
Hiểu rỏ hơn về một tỉnh Đông Bắc Việt Nam, địa đầu biên giới giáp Trung Quốc , tộc dân Kinh là thiểu số :

Thử lạm bàn phát triễn tỉnh Cao Bằng

G S Tôn Thất Trình



Hùng Vương đô ở Châu Phong ,

Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang

Đặt tên là nước Văn Lang,

Chia mười lăm bộ , bản chương cũng liền…

Định yêu Hà Nội đổi thay ,



Ấy châu Giao Chỉ xưa nay còn truyền.

Tân Hưng là cõi Hưng Tuyên,

Vũ Ninh tỉnh Bắc , Dương Tuyền tỉnh Đông .

Thái, Cao hai tỉnh hôn Đông,

Ấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh ….

( Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca )



Phần I khái quát .
Vị trí

Diện tích
Cao Bằng là một tỉnh đồi núi cao vùng Đông Bắc , một tỉnh địa đầu biên giới xung yếu chiến lược xã hội, quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Lảnh thổ tỉnh phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc; đường biên giới dài 314 km. Phía tây là Hà Giang và Tuyên Quang, phía nam là Bắc Kạn, phía đông Nam là Lạng Sơn. Chiều dài từ đông sang tây là 170 km và từ nam lên bắc là 50- 60 km.

Diện tích tự nhiên nay ghi là 6637, 98 km2 ( 663,798 ha) .Tài liệu năm 2004 còn ghi là 6690. 72 km2 và năm 2006 là 6724.8 km2 , vì sửa đổi ranh giới với các tỉnh lân cận hay vì sau kết thúc cắm mốc biên giới Việt Nam và Trung Quốc tháng 12/2009 đã phải chịu mất một số lảnh thổ như suối rừng Bản Giốc ? … tiếp theo chiến tranh với Trung Quốc xâm lăng Việt Nam, năm 1979 ? . Diện tích này chiếm 2.02 % diện tích cả nước.

Kết cấu dân số, tộc dân

Dân số năm 1999 là 491 055 người; năm 2004 là 508 200 người; năm 2006 là 518 900 người; đầu năm 2010 là 611 000 người. Với dân số này năm 1999, Cao Bằng chỉ xếp trên Bắc Cạn, Kon Tum, đứng hàng thứ 59 trong tổng số 61 tỉnh thành cả nước . So với các tỉnh thuộc trung du và và miền núi phía bắc, Cao Bằng đứng áp chót, chỉ trên Bắc Cạn. Tỉ xuất gia tăng tự nhiên của Cao Bằng tương đối cao, thường vượt quá 2% . Nhưng nhờ hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình. Mức sinh giảm nhanh từ 3.68% năm 1991 xuống 2 02% và chừng 1.69% năm 2000. Tuy tỉ xuất gia tăng tự nhiên vẫn còn khá cao, nhưng tốc độ phát triễn dân số thực tế lại thấp, vì cường độ xuất cư khá mạnh. Đất canh tác ít, thiếu việc làm nên dòng xuất cư Cao Bằng tương đối lớn , phần lớn là hai tộc dân Tày, Nùng, chủ yếu vào các tỉnh Tây Nguyên .Riêng ở tỉnh Đắc Nông , ước lượng nay có đến trên 100 000 người hai tộc dân Tày, Nùng .



Cao Bằng có 22 tộc dân chung sống. Trong số này có 7 tộc dân chủ yếu xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp theo thống kê năm 1999 là Tày ( chiếm 43.9 % ), Nùng (32.8% ), Dao hay Mán ( 10.7 % ), H’Mông hay Mèo ( Miêu ) ( 6.8 % ), Kinh ở hàng thứ năm về số lượng ( 3.9% ), Sán Chay (1.0 % ), Hoa ( 0.1%). Các tộc dân khác còn lại, mỗi tộc dân số lượng ít hơn 500 người, chỉ chiếm 0.72 % tổng số dân Cao Bằng. Người Tày đông nhất tập trung chủ yếu ở các huyện Hòa An, Trùng Khánh, và rải rác khắp các huyện thị còn lại. Phân đông người Tày cư trú ở vùng thấp , khai khẩn các lòng chảo, thung lũng và trên các sườn đồi làm thành ruộng bậc thang. Người Nùng đứng thứ hai về số lượng, phân bố nhiều nhất ở huyện Quảng Hòa, sau đó là Hà Quảng, Hòa An. Địa bàn của họ là nơi chuyễn tiếp vung núi thấp và vùng núi cao. Người Dao cư trú xen kẻ với nhiều rộc dân khác như Lô Lô , Sán Chỉ , Sán Chay … ) cùng sinh sống trên vùng núi cao. Người H’ Mông tụ cư trên vùng núi cao, những thung lũng có địa hình hiểm trở với độ cao trung bình 800- 1000m và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Địa bàn cư trú của người H’Mông và Dao phần lớn ở các huyện vùng cao như Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thông Nông và một số xã vùng cao thuộc huyện Hòa An, Hà Quảng. Người Kinh tập trung ở thị xã Cao Bằng và các huyện Hòa An và Nguyên Bình ( ở Nguyên Bình và Tĩnh Túc ). Người Sán Chay và các tộc dân ít người khác ( Lô Lô, Sán Chỉ, Sán Dìu , Ngái … ), cư trú ở các huyện vùng cao Bảo Lạc, Nguyên Binh .
Phân chia hành chánh qua dòng lịch sử

Cao Bằng là địa danh xuất hiện từ lâu đời ở nước ta . Trải qua các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Dậu , Gò Mun của nền văn minh Sông Hồng đến giai đoạn Đông Sơn các đời vua Hùng, vùng đất Cao Băng thuộc bộ Vũ Định, đất nước người Việt cỗ, tên nước là Văn Lang . Chúng ta được biết rằng hơn 100 năm sau Câu Tiễn ( năm 333 trước Công Nguyên ), nước Việt ở Triết Giang bị quân Sở diệt, lìa tan xuống Giang Nam, rải rác theo miền bờ biển và lục địa như Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Lĩnh Nam. Ở đấy, họ hỗn hợp với thổ dân địa phương , thành lập các bộ lạc hay quốc gia nhỏ , tên chung là Bách Việt. Nhưng các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính , chỉ còn lại 5 nhóm Việt tộc có hình thức quốc gia là Đông Việt ở Ôn Châu , hay Đông Âu Việt , Mân Việt ở Phúc Châu , Nam Việt ở Quảng Châu, Tây Âu và Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và Bắc phần Đông Dương ngày nay.

Khi các tộc dân trên nước Việt Nam vươn lên định hình văn minh và nhà nước đầu tiên thì cũng là lúc ở phương Bắc một đế chế lớn, đế chế Tần thành lập và bắt đầu bành trướng xuống phương Nam . Năm 214 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng Đế - Shin Huang Ti sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía Nam, vựợt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra 3 quận là Quế Lâm ( Kueili, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây) Nam Hải ( Nan Hai tức Quảng Đông ) và Tượng Quận ( Hsiang vùng Bắc Việt ngày nay). Người Việt cỗ của nước Văn Lang - Âu Lạc đã anh dũng và bền bỉ đấu tranh đánh bại cuộc xâm lược qui mô lớn của đế chế Tần. Đồ Thư bị người địa phương kháng cự giết chết. Nhà Tần cử Nhâm Ngao ( hay Nhâm Hiêu ) làm hiệu úy quận Nam Hải và Triệu Đà (Chao T’o ) làm huyện lệnh Long Xuyên ( Lung Chuan ) thủ phủ quận Nam Hải. Cuộc đấu tranh của người Việt gian nan bội phần. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bị nhận chìm trong máu lữa ( Khởi nghĩa hai bà Trưng năm 40, bà Triệu, họ Mai, họ Phùng, họ Khúc… nổi dậy giành chính quyền năm 905 … ).

Theo Hán tự, Âu Việt, Tàu đọc là Où Yuè, là những tộc dân sinh sống tại những vùng Việt Bắc núi non xa nhất nước ta, các vùng đất phía tây tỉnh Quảng Đông , và miền Nam tỉnh Quảng Tây thuộc Trung Quốc ngày nay , ít nhất là ba thế kỷ trước Công Nguyên. Lạc Việt là những tộc dân đồng bằng ( phân chia theo sự tích “ Con Rồng Cháu Tiên “ ,Lạc Long Quân và Âu Cơ hay sự tich Sơn Tinh và Thủy Tinh ? và Âu Lạc tộc dân sống ở vùng núi. Thủ đô của Âu Lạc nằm trong phạm vi tỉnh Cao Bằng- Việt Nam ngày nay . Năm 258 trước Công Nguyên Thục Phán, dòng dõi vua Thục ở Tứ Xuyên ( Se Chuan ) , bị nhà Tần diệt mất nước vào năm 316 trước Công nguyên, đánh bại vua Hùng cuối cùng, nhập Lạc Việt ( người Việt đồng bằng ) với Âu Lạc , xây thành trôn ốc tại Cỗ Loa, xưng hiệu là An Dương Vương để nhớ lại lại cố hương là Hoa Dương và đặt tên nước là Thục, ở Tứ Xuyên ( Ba Thục ) đã mất với Tần. Nhưng đến năm 208 trước Công nguyên, nước Âu Lạc lại bị Triệu Đà thôn tính, đặt tên nước mới là Nam Việt. Năm 111 trước Công Nguyên, quân nhà Hán đánh bại Nam Việt của Triệu Đà , thôn tính đất nước Văn Lang -Âu Lạc và trong thời gian đầu, cả nước Chăm ( Chàm, Chiêm Thành ) cỗ, tiếp tục chánh sách đô hộ hà khắc các đế chế Trung Hoa , dùng những mưu mô đồng hóa rất thâm độc. Mãi đến chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 do Ngô Quyền lảnh đạo, nhân dân ta mới chấm dứt được nhục mất nước trên nghìn năm, dành lại độc lập dân tộc.

Đời Lý, Cao Bằng thuộc đất Thái Nguyên. Đáng nêu ra là vào đời Lý , tướng Lý Thường Kiệt là vị tướng Việt duy nhất dám đánh quân Tàu xâm lược, tiến lên tận các vùng đất Quảng Tây , Quảng Đông Triệu Đà thôn tính của Văn Lang, làm bài ca hùng tráng, trử tình bất hủ sau đây : Nam quốc sơn hà Nam Đế cư



Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư . Lý Thường Kiệt ( 1019 - 1105 )

Đất nước Nam này, Nam đế chủ,

Sách trời định phận rỏ non sông.

Cớ sao nghịch tặc hòng xâm phạm ?

Bay hãy chờ coi , chuốc bại vong !

( bản tạm dịch của Ngô Linh Ngọc )

Vào đầu triều Lê, Cao Bằng thuộc Bắc đạo, rồi đặt vào Ninh Sóc thừa tuyên, sau đổi thành Cao Binh Phủ. Nhà Mạc thất thế chạy lên Cao Bằng ( Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527 ), đóng đô ở Cao Bình, cách thị xả Cao Bằng 9 km , làm được ba đời vua tổng cọng 70 năm. Tuy Mạc Đăng Dung làm nhiều điều sỉ nhục cuối năm 1540, để cũng cố ngai vàng ( cắt đất, đúc người vàng làm đồ cống nạp cho Tàu, lên tận cửa ải tự cởi trần, trói mình, quỳ mọp trước sứ giả nhà Minh), nhưng chính nhà Mạc đã đưa nhiều người lên cư trú, tổ chức cai trị, mở các khoa thi … đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống xã hội của mảnh đất biên cương này. Nhà Lê dẹp xong nhà Mạc mới đặt tên vùng này là Cao Bằng và không để thuộc vào Thái Nguyên nữa.

Điều đáng nói qua là năm 1958, Trung Quốc nhìn nhận một tộc dân nhỏ Trung Quốc ở 3 đảo nhỏ bờ biển tỉnh Quảng Tây ( thuộc thị trấn Jangpin là Shanxi, Wutu và Wanwi, nay đã đuợc nối liền vào lục địa ) gọi đó là tộc dân Jing ( một số nhà Việt học cho đó là giọng Tàu đọc tên tộc dân Kinh ( tên Việt, tiếng Tàu đọc la yuè ), nhưng theo từ điển Hán Việt, Jing lại có thể là một nước miền Nam sông Dương tử, tuồng như là nước Yên ( ? ) vùng Ngũ Hồ trong truyện “ kiếm hiệp giang hồ mới “ của Kim Dung, bị các tộc dân Hoàng Hà tiêu diệt; đàn bà đội nón lá, đàn ông chít khăn đóng như dân Lạc Việt vùng đồng bằng bờ biển sông Hồng. Trung Quốc hình như cũng ghi tộc dân Jing là dân “ Lạc Việt- Kinh “ di cư từ Việt Nam sang Quảng Tây, vào thời vua Lê cách đây 500 năm.

Đến thời Nguyễn, Cao Bằng được đặt là Hiệp Trấn, sau đổi thành phủ Trùng Khánh. Đến năm 1831, đặt thành tỉnh Cao Bằng, bỏ chế độ thổ mục, thổ hào. Ngày 27-12- 1875, Cao Bằng hợp nhất với Lạng Sơn, thành tỉnh Cao Lạng. Ngày 29 - 12- 1978, tỉnh Cao Bằng đựợc tái lập. Hiện nay, tỉnh Cao Bằng bao gồm 1 thị xã ( Cao Bằng ) và 12 huyện: Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An ( Nước Hai ), Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên, Thạch An ( Đông Khê ), Thông Nông, Trà Lĩnh ( Hưng Quốc ), Trùng Khánh. Một điều đáng buồn là năm 1979, Đặng Tiểu Bình gốc Ba Thục - Tứ Xuyên ( hay gốc Chuang hay Zhuang , tiếng Việt là Tráng, Quảng Tây ? , vì Đặng tiểu Bình đã khuấy động dân Tráng nổi dậy chống chánh thể Quốc Dân Đảng Trung Hoa ) lại như các triều đại Tống, Minh, Thanh … xua 300 000 ( có sách nói là 600 000) quân 3 tỉnh Quảng Tây , Quảng Đông dòng dõi Bách Việt như Âu Việt, và Vân Nam xâm lăng Việt Nam, tàn phá 20 thị trấn, huyện lỵ , tỉnh lỵ quan trọng thuộc tỉnh Lạng Sơn như tỉnh lỵ Lạng Sơn, Đồng Đăng, Lộc Bình: tỉnh Lào Cai như Cam Đường , Mường Khương, Bát Xát , Sa Pa - Chapa , Phố Lu- Bảo Thắng, Cốc Xam ; tỉnh Lai Châu như Phong Thổ và tỉnh Cao Bằng như tỉnh lỵ Cao Bằng, Phục Hòa, Quảng Uyên, Hạ Lang, Thoát Lãng, Hòa An, Đông Khê, Trùng Khánh, Thông Nông , Sóc Giang.

Địa hình

Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng , tiếng khóc nỉ non.

Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

Ca Dao
Địa hình Cao Băng chia cắt phức tạp thành nhiều dãy núi xen kẻ sông suối, thung lũng hẹp; cao dần về phía tây - tây bắc và thấp dần về phía đông - đông nam. Phía tây và tây bắc các khối núi cao sừng sửng trên dưới 1000m, phần nhiều là núi đá vôi các đỉnh nổi lên là đỉnh Phia Đa ( 1980m) , Phia Oắc ( 19 30m ).. Phía đông và đông nam địa hình thấp dần , sau khi qua đèo Mã Phục ( 620m ) là vùng Ba Châu chỉ cao từ 800m trở xuống. Núi đá vôi tương đối phổ biến, có nhiều hang động và sông ngầm . Phần trung tâm của tỉnh là thung lũng sông Bằng ( Bằng Giang ) , kéo dài từ tây bắc xuống đông nam, dài 100km. Thung lũng này có cánh đồng Hòa An ( Nước Hai) tương đối rộng. Thị xã Cao Bằng ở vào nơi gặp nhau của các con sông, độ cao chỉ còn 150m.

Về phát sinh, địa hình Cao Bằng chia thành các dạng :

- tại khu vực Tân kiến tạo nâng lên với nền địa chất là trầm tích từ Cổ sinh đến Trung Sinh. Dưới tác đồng chủ yếu quá trình bào mòn, xâm thực, đã tạo ra các núi cao trung bình, xen lẫn núi thấp và thung lũng xâm thực tích tụ ( như vùng Phia Oắc, Phia Đa …) hay các đồi trung bình, đồi cao xen lẫn thung lũng xâm thực - bồi tụ ( vùng Nước Hai, sông Hiến, phía tây và đông Hòa An ).



- Dạng phổ biến nhất là dạng cácxtơ (Karst), phát triễn tại các khu vực Tân kiến tao nâng lên ( từ trung bình đến yếu và rất yếu ) với nền địa chất ưu thế là đá vôi. Do ảnh hưởng mạnh của các quá trình ngoại sinh đã tạo ra hàng loạt dạng địa hình cácxtơ như các khối cácxtơ trụi thấp ( đông và tây Hà Quảng ), núi cácxtơ xâm thực thấp, đồi cácx tơ xâm thực, cánh đồng cáxtơ ( Quảng Yên ).

Đồi núi Cao Bằng cũng như ở vùng Đông Bắc tỏa ra theo hai hình cánh cung. Cánh cung Ngân Sơn, nằm phần lớn ở địa bàn Cao Bằng, trải dài từ Bắc Kạn lên tới Đồng Văn , phía tây thung lũng Sông Cầu. Xin nhắc lại là trên cao nguyên đá Đồng Văn có điểm Cực Bắc của Việt Nam là Lũng Cú, được mệnh danh là “nóc nhà của Việt Nam “ , nơi nổi tiếng “ cúi mặt sát đất , ngẫng mặt đụng trời “. Cánh Cung sông Gấm cao trung bình 1000m, trải dài từ Tuyên Quang qua Cao Bằng lên tới Hà Giang.

Về mặt sinh thái, lảnh thổ Cao Bằng có thể chia ra làm 4 tiểu vùng :

-tiểu vùng núi đá vôi phía bắc và đông bắc, địa hình cao , chia cắt nhiều .Những thung lũng hẹp thiếu nước , xen kẻ các dãy núi đá vôi là đặc trưng chủ yếu của tiều vùng này

- tiểu vùng núi, đất phía tây và tây nam tỉnh, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn

- tiểu vùng núi thấp và đồi thuộc thượng nguồn sông Hiến, địa hình thoảng dần xuống bồn địa trung tâm, nhưng vẫn còn bị chia cắt mạnh, độ dốc còn lớn.

- tiểu vùng bồn địa trung tâm Cao Bằng, địa hình thấp, tương đối bằng phẳng và là nơi trồng lúa lớn nhất của tỉnh Cao Bằng

Địa hình núi cao , độ dốc lớn, chia cắt mạnh làm hạn chế đất canh tác, gây khó khăn cho một tỉnh nghèo, chủ yếu trông cậy vào sản xuất nông nghiệp; tạo nhiều cản trở cho việc giao lưu với các tỉnh lân cận, các trung tâm đô thị lớn nước nhà, cũng như trong phạm vi nội tịnh..



Khí hậu

Một chiều rừng mưa,



Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Biết tin em gái mất

Trước tin em lấy chồng …

Hửu Loan ( 1916- )


Án ngữ phía bắc vùng Đông Bắc, lại có địa hình núi cao nên nền nhiệt độ Cao Bằng giảm đi nhiều so với các tỉnh khác; nhiều nơi chỉ còn là tiêu chuẩn á nhiệt đới, bán ôn đới. Mùa đông Cao Bằng nằm trong phạm vi ảnh hưởng của khối khí cực đới rìa phía Nam cao áp Sibetria tràn xuống, có xen khối khi nhiệt đới hóa cao áp phụ Đông Trung quốc tràn sang. Mùa đông lạnh và khô. Mùa hạ gió mùa tây nam thịnh hành, hội tụ với tín phong Bắc bán cầu .

Mùa đông nhiệt độ lạnh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Phần lớn lãnh thổ Cao Bằng có 3 tháng nhiệt độ trung bình dưới 15 0 C. Vùng Nước Hai, Sông Hiến , Cao Bằng , Phục Hòa, thời kỳ lạnh ngắn hơn, chỉ có 1 tháng dưới 150 C . Vùng thượng lưu sông Nheo, vùng Phia Oắc và phía tây Hà Quảng rét đậm hơn cả, thông thường có 1-2 tháng nhiệt độ xuống dưới 100 C. Ở các vùng cao, thường xuất hiện sương muối, băng giá. Sương mù kéo dài 4- 5 tháng. Khi lạnh nhất, nhiệt độ có thể xuống dưới 0 0 C, thường xảy ra vào tháng giêng.

Mùa hè , mát mẻ , ở vùng núi trung bình và núi thấp , trừ khu vực Nà Sản - Nà Vài. Phần lớn lãnh thổ còn lại đều có mùa hè nóng, nhiệt độ trung bình tháng vượt quá 26 0 C. Nhiệt độ thời kỳ nóng nhất có khi lên tới 350 - 36 0 C ,vào tháng 7. Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối đều dưới 00 C . Nhiệt độ tối cao tuyệt đối có thể trên 400 C.

Ở Cao Bằng, mưa tập trung vào mùa hè. Có nơi mùa mưa đến sớm và có chế độ mưa xuân - hè như Trà Lĩnh, Trùng Khánh, phía tây Hà Quảng. Mùa mưa kéo dài sang thu, từ tháng 5 đến tháng 11, ở vùng núi thấp và núi trung bình. Lượng mưa trung bình hàng năm của toàn tỉnh là 1500-1800mm. tập trung vào 4 tháng; cao nhất là ở Trùng Khánh, trung bình là Nguyên Bình, bắc Hà Quảng, Thông Nông, Ttà Lĩnh, Quảng Uyên cũ, Hạ Lang; thấp nhất ( 1300-1500mm) là Thạch An, Bảo Lạc .

Theo các đặc điểm khí hậu vừa kể, Cao Bằng có khi hậu á nhiệt đới ( bán ôn đới ) gần giống bang Florida hay miền nam Texas, Louisiana … hơn là khi hậu Ca Li, Hoa Kỳ .

Thủy văn
Nguồn nước mặt phân bố chủ yếu trên các sông suối, hồ đầm. Mạng lưới sông suối Cao Bằng thuộc các lưu vực sông Bằng ( Bằng Giang), sông Gấm( hay Gầm ), sông Quây Sơn . Quan trọng nhất là sông Bằng. Sông Bằng bắt nguồn từ Nà Vài ỏ cao độ 600m, chảy theo hướng tây bắc- đông nam, qua thị xã Cao Bằng đến Thủy Khẩu ( Tà Lùng ) sang Trung Quốc. Sông Bằng là một hệ thống sông lớn ở vùng Đông Bắc, chiều dài 108 km, diện tích lưu vực 4560km2, có đến 26 phụ lưu, chảy qua gần như giữa tỉnh. Trước khi vào bồn địa Cao Bằng, sông chảy trên vùng đồi sa diệp thạch, nhận một phụ lưu là sông Chi Lao. Ngang thị xã Cao Bằng, sông nhận thêm 2 phụ lưu quan trọng nữa là sông Hiến ở hữu ngạn và sông Trà Lĩnh ở tả ngạn. Các sông khác là sông Gấm ( huyện Bảo Lạc ) do sông Nheo và sông Nho Quế hợp thành, rồi chảy qua địa phận tỉnh Hà Giang. Sông Quây Sơn, sông Bắc Vọng chảy qua huyện Trùng Khánh. Trên sông Quây Sơn, đoạn chảy qua Trùng Khánh có thác Bản Giốc đẹp nổi tiếng . Bên cạnh Thác Bản Giốc là động Ngườm Ngao, dài 3km, là một trong những động đẹp của Viêt Nam. Thác Bản Giốc nói riêng và quần thể sông Quây Sơn , động Ngườm Ngao có giá trị lớn vê du lịch và thủy điện.

Cao Bằng còn có một số hồ . Nổi tiếng là hồ Thang Hen nằm trên đỉnh núi cheo ,leo, cách mặt biển hàng nghìn mét, một thắng cảnh có giá trị du lịch. Hồ hình thoi, rộng 300m, dài 100m, ẩn giữa rừng trám trắng, trám đen nhô lên nhiều khối đá tai mèo ở huyện Quảng Hòa. Đặc biệt nước hồ hàng ngày có 2 đợt lên xuống giống như thủy triều . Nước hồ trong xanh quanh năm, kể cả mùa nước lũ. Cạnh hồ Thang Hen còn có hồ Thang Luông với một hòn núi nhô lên giữa hồ, rất ngoạn mục .

Nguồn nước ngầm, nước khóang Cao Bằng khá phong phú. Nguồn nước khoáng Tân An có giá trị du lịch. Tuy nhiên nước ngầm nằm sâu hơn 100m, có nơi tới 1000m, nên việc khai thác có nhiều khó khăn.
Tài nguyên đất đai
Thổ nhưõng Cao Bằng rất phức tạp, chia ra một số đất chính sau đây :

- Đất mùn vàng đỏ và đỏ vàng trên núi (Humic Ferralsols ) phân bố ở khu vực Phia Oắc, Phia Đa , thượng nguồn sông Hiến, có độ phong hóa ferralit ít hơn đất đỏ vàng (Ferralic Acrisol). Phản ứng hơi chua , độ no bazờ thấp , tầng mùn dày vi ở cao độ. Trên núi Phia Oắc, Phia Đa còn rải rác đất mùn alic ( Humic Alisols), đá phong hóa yếu tầng đất mỏng trên cùng là lớp thảm lá mục, có lá lẫn rêu ; xen lẫn với đất feralit. Tại các vùng núi đá vôi, phía đông và Tây Hà Quảng có loại đất mùn nâu đỏ, hàm lượng NPK không nhiều .

- Đất feralit (Ferralic Acrisols) phát triễn trên các đá trầm tích, phổ biến hơn cả ở vùng đồi núi. Bao gồm đất feralit đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất, phản ứng chua, nghèo dinh dưỡng. Đất feralit vàng đỏ phát triễn trên các đá mácma acid, nghèo đạm, nghèo lân .

-Ở bồn địa Cao Bằng có đất phù sa, đất sialit - feralit ( nhiều hơn hết ), và đất ferralit. Đất phù sa chỉ gặp dọc theo các thung lũng sông suối.

- Cũng hay gặp đất vàng tích vôi ( Haplic Calcisols, ), hình thành tại các thung lũng đá vôi, xung quanh là núi đá vôi khép kín, địa hình khó thoát nước, chứa nhiều calcium và magnesium, pH cao. Đất nâu thẩm tích ( Luvic Calcisols) các thung lũng phụ thuộc rất nhiều vào tính chất đất đai các đồi núi xung quanh, màu nâu thẫm hay nâu vàng, lớp mặt đã kết von sắt, măngan. Đất đen carbonat ( Calcic Luvisols ), hình thành trên phong hóa đá vôi địa hình sườn dốc .,

Tài nguyên rừng - thú vật
Tài nguyên rừng và động vật Cao Bằng rất phong phú vì hai lý do : vị trí Cao Bằng đứng giữa hai vương quốc thực vật miền Toàn Bắc - Holartic và miền Nhiêt đới cỗ sinh - Paleotropic và điều kiện thiên nhiên ( tự nhiên ) đa dạng. Rừng thiên nhiên Cao Bằng chỉ còn ở những nơi cao, có địa hình phức tạp như vùng núi Phia Oắc, Phia Đa hay trên các vùng đá vôi. Ở đây có một số kiểu rừng: rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh với quần hợp dẽ - sồi họ Fagaceae như loài Fagus longepetiola ở Sapa , loài Dẻ Cao Bằng Castanea mollissima đã được trồng trọt , Dẽ Bắc Giang Castanopsis boisii trái ăn được , Dẻ cau ( Dẻ đen , Dẻ óc ) Castanopsis cerebrina , Kha thụ Sapa Castanopsis chapaensis , Kha thụ the Castanopsis fabrei, Kha thụ Lecomte Castanopsis lecomtei ở Sa pa trái cũng ăn được, Dẻ mang gai Lithocarpus echino phorus , Dẻ lỗ Lithocarpus fenestratus , Dẻ Lào Lithocarpus laotica , Dẽ cọng dài Lithocarpus longepediocellata , Dẻ trái nhiều Lithocarpus pleiocarpus, Dẻ xanh ( sồi lông ) Lithocarpus pseudosundaicus , Sồi sapa Quercus chapaensis, xen lẫn một số loài cây rụng lá ; rừng nhiệt đới hơi ẩm rụng lá rừng nhiệt đới ẩm xanh quanh năm.

Lên các vòng đai cao , thường gặp các rừng ôn đới trên núi với thực vật họ đổ quyên Ericaceae chiếm ưu thế. Trên núi đá cao xuất hiện loại hình rừng lá kim như rừng Vân Xam vùng Hạ Lang.

Thảm thực vật rừng thiên nhiên Cao Bằng bị tàn phá nhiều. Những nơi bị tàn phá mạnh mẽ , thì phát triễn rừng thứ sinh gồm cây gỗ hổn tạp , trảng cây lùm bụi và các loại trảng cỏ. Trong rừng có một số loài gỗ quý như thông tre ( kim giao trước đào , faux pemou ) Podocarpus neriifolius, đổ quyên tiểu mộc như đổ quyên madden Rhododendron maddenii, đổ quyên nuttal Rhododendron nuttalii, đổ quyên vân nam Rhododendron yunnanensis, sơn trâm sapa Vaccinium chapaensis , ( nhắc lại cho người Huế đổ quyên fortune Rhododendron fortunei ở núi Bạch Mã là một tiểu mộc), đổ quyên đại mộc như đổ quyên cây Rhododendron arboretum , đổ quyên chén lá dạng lá Dầu Rhododendron sinofalconeri…, kim giao kết lợp ( thông nang ) Podocarpus imbricatus , La Hán tùng ( thông tre lá ngắn ) Podocarpus brevifolius , pơ mu ( thông mụ, kim giao wallich Podocarpus ( nay tên mới là Nageia ) hay Decussocarpus wallichianus một loài gỗ quý hiếm. Hoặc nhiều dược liệu như đảng ( đẳng ) sâm ( còn gọi là Ngân đằng Codonopsis javanica họ hoa chuông Campanulaceae , sa nhân Amomum villosum var xanthoides ( Amomum xanthoides ) đã được trồng trọt làm gia vị , ngũ gia bông ( bì) rừng còi Rubus cochinchinensis , một loại dum mâm xôi hoa trắng trái đỏ ), hà thủ ô Streptocaulon griffitii thuộc họ thiên lý Asclepiadaceae . ..

Khi rừng thiên nhiên bị tàn phá thú vật rừng cũng giảm sút nhiều. Tuy nhiên ở Cao Bằng vẫn còn một số loài có giá trị như báo ( beo ) , cầy hương , hươu xạ, vọoc đen… Cao Bằng đang dự trù thiết lập 3 khu vực Bảo Tồn Thiên Nhiên là khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Trùng Khánh, khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Núi Phia Oắc và khu Bảo Tồn Văn hóa Lịch sử Pắc Bó . Tổng cọng chỉ là 21 908 ha , ít hơn 18 % tổng số rừng thiên nhiên toàn tỉnh là 122 486 ha .

Năm 1994 , Việt Nam liệt kê 8 loài họ Mèo Felidae : Mèo Rừng . Mèo Ri , Mèo Cá , Mèo Gấm , Báo Lữa , Báo Gấm , Báo Hoa Mai và Hổ ( Cọp ). Ngoại trừ Mèo rừng, 7 loài còn lại năm 2000, đều đã ghi vào Sổ Đỏ Việt Nam, danh sách CITES, sổ ghi những loài vật bị đe dọa nghiêm trọng và có nguy cơ tuyệt chủng, cấm săn bắt. Kích thước lớn nhất lẽ dĩ nhiên là Hổ. Loài hổ Việt Nam đã được các nhà khoa học gọi là Hổ( Cọp ) Đông Dương để tách biệt chúng với các loài hổ khác trong khu vực Châu Á . Tới vườn thú Hà Nội, chúng ta sẽ thấy loài hổ lớn nhất nặng đến 300 kg ở con trưởng thành là hổ Amua ( Amur ) của vùng Siberia lạnh giá , phía Bắc Châu Á và loại hổ Đông Dương có ở Việt Nam. Theo kiểm kê sơ bộ của Cục Kiểm lâm Việt Nam, hiện nước ta chỉ còn khoảng trên 100 con hổ, rải rác từ miền Trung ra đến phía Bắc. Đứng thứ nhì về kích thước cơ thể phải kể đến nhóm Báo Gấm và Báo Hoa Mai .Báo Gấm nhỏ hơn Báo Hoa Mai chút đỉnh , nhưng chiều dài cơ thể tương đương nhau. Báo Hoa Mai có mặt khắp nước, ngoại trừ vùng đồng bằng Nam Bộ. Loài Báo Gấm chỉ mới ghi nhận ở một số tỉnh phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và tại Tây Ninh. Ở loài Báo Hoa Mai, đôi khi xuất hiện một kiểu hình hoàn toàn đen được gọi là Báo Đen , nhưng nhìn kỷ vẫn thấy những đốm tròn lờ mờ của báo Hoa Mai, rỏ nhất ở gáy , đùi sau và phần bụng gần đùi sau. Loài thứ ba là con Báo Lữa hay Beo Lữa , nhờ bộ lông màu vàng da bò hơi sậm màu . Thảo Cầm viên Sài Gòn đã nghiên cứu thành công việc sinh sản Beo Lữa trong điều kiện nhốt loài thú này .

Một trong những loài hiếm gặp và ít thông tin về chúng là Mèo Gấm, trọng lượng khoảng 2- 5 kg. Bộ lông màu gần giống Báo Gấm, nhưng các hoa vân nhỏ, không tách biệt rỏ rệt. Chúng sống trong rừng sâu có nhiều cây gỗ lớn. Hai loài sau cùng cần bảo vệ ở Việt Nam là Mèo RiMèo Cá . Tại Việt Nam chỉ mới ghi nhận chúng có mặt ở tỉnh Tây Ninh ( theo sách đỏ Việt Nam năm 2000 ). Mèo Cá to hơn Mèo Ri và bộ lông màu xám tro có đốm sậm. Mèo Cá chủ yếu ăn tôm cá, thường có mặt ở vùng đầm lầy ao hồ như U Minh Đồng Tháp v.v...



Việt Nam có 22 loài thú linh trưởng - primates , chia ra 4 nhóm chính là Cu Li , khỉ , khỉ ăn lá ( còn gọi là vọoc ) và vượn. Pháp luật Việt Nam và quốc tế nghiêm cấm khai thác các loài cu li, khỉ ăn lá và các loài vượn. Sách Đỏ Việt Nam đã liệt kê các loài thú linh trưởng thuộc các nhóm vừa kể vào các hạng mức bị đe dọa khác nhau, ngoại trừ hai loài là khỉ vàng và khỉ đuôi dài số lượng còn nhiều. Nhóm cu li chỉ có 2 loài là culi nhỏ- pygmy loris Nycticebus pygmaeuscu li lớn- slow loris Nycticebus bengalensis . Cu li lớn là loài có phân bố hẹp ở phia bắc Việt Nam . Nhóm khỉ Macaca sp . bao gồm khỉ đuôi lợn ( heo ) khỉ đuôi dài , khỉ mặt đỏ ( khỉ cộc ), khỉ vàng - rhesus macaque Rhesus macaque và khỉ mốc. Nhóm khỉ ăn lá còn gọi là vọoc-langur Trachypithecus sp., có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng rất cao. Nhóm vọoc lại có tới 4 loài đặc hửu nước nhà như vọoc Cát Bà , ( còn gọi là vọoc đầu trắng) Trachypithecus poliocephalus , vọoc mông trắng (hay vọoc quần đùi trắng ) Trachypithecus delacouri , chà vá chân xám Pygathrix cinerea và vọoc mũi hếch Rhinopithecus avunculus.Cuối cùng là nhóm vượn dễ phân biệt vì chúng không có đuôi và tay dài. Việt Nam có 5 loài vượn là vượn đen tuyền -western black - crested gibbon Nomascus ( tên cũ là Hylobates ) concolor , vượn đen Cao Bằng ( còn gọi là con cao vít)- Eastern black -crested gibbon - được xác định là loài riêng biệt năm 2002 Nomascus nasatus , vượn đen má trắng - northern White - cheeked gibbon Nomascus leucogenys leucogenys, vượn đen má trắng Siki - Suothern white cheeked gibbon Nomascus leucogenys sikivượn đen má hung- Yellow - cheeked gibbon Nomascus grabriellae. Vượn ăn các chồi lá non và một số trái ( quả ) rừng. Các loài vuợn hay hót ( hú ) vào sáng sớm trước lúc bình minh và không hót những ngày mưa.

Cầy hương cho xạ hương là một dược liệu quý. Thịt nó rất mềm, thơm, ngọt và ngon là một món ănđặc sản trong nhà hàng khách sạn, có giá trị cao. Tên khoa học là Viverricula indica, họ cầy Viverridae , bộ ăn thịt Carnivora. Việt Nam nhận diện 11 loài cầy hương. Con đực có tuyến xạ nằm giữa hai tinh hoàn. Cầy hương nhỏ hơn cầy nhông , nặng 2- 4kg, chiều dài thân 540-630mm, đuôi dài 300- 430 mm. Cầy hương không sống trong rừng, sống đơn độc, kiếm ăn ban đêm. Chúng ăn côn trùng và chuột, một số chim , một số loài bò sát ( rắn , nhông ), một số loại quả ( trái) cây và rễ cây … Cầy hương trong thiên nhiên ngày càng khan hiếm, nên người ta đã phải tổ chức nuôi. Cầy hương mỗi năm đẻ 1 lứa mỗi lứa 3- 5 con.Tuổi thọ của nó khoảng 8- 9 năm. Cầy hương làm giống cân nặng 1- 1.5 kg Cầy hương nuôi chăm sóc tốt khối lượng tăng rất nhanh , có thể đạt 0.7- 1.0 kg /con / tháng.

tải về 154.42 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương