Thử lạm bàn phát triễn tỉnh Cao Bằng



tải về 154.42 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu03.10.2016
Kích154.42 Kb.
#32599
1   2   3

Khóang sản
Nhờ có lịch sử phát triễn địa chất phức tạp, Cao Bằng có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại và đa dạng loại hình. Nghiên cứu địa chất cho biết Việt Nam đã hoàn tất bản đồ địa chất mọi vùng quốc gia theo tỉ lệ thang đo 1:200 000 và năm 1991 đã hoàn thành 41 % bản đồ vùng địa chất có tiềm năng khoáng sản theo tỉ lệ 1:50 000. Năm 1995 đã thám hiểm sơ khởi 500 nơi có khoáng sản. Mỏ đã xác định gồm có antimoine, bô xít, đá carbonat, đất sét, chromite, than đá, đồng, khí dầu thiên nhiên, đá quý, vàng, graphit, quặng sắt, chì, măngan, nickel, dầu lữa thô, đất hiếm, cát silica, đá phosphat apatit, pyrophyllite , thiếc, titanium, tungsten, kẻm và zirconium. Năm 2000, thám hiểm khoáng sản ở Việt Nam đã chậm lại vì thiếu tư bản và giá kim loại thấp trên thị trường thế giới, chỉ còn 2 công ty hoạt động khám phá vàng và kim loại không phải là sắt mà thôi.

Các khoáng sản có trữ lượng tương đối lớn năm 1999 ở Cao Bằng là quặng sắt ( trữ lượng khoảng 100 triệu tấn ), bô xít ( 200 triệu tấn), măng gan ( 7 triệu tấn ) , và đặc biệt mỏ thiếc Tĩnh Túc ( huyện Nguyên Bình ) trử lượng khoảng 20 triệu tấn.



Quặng sắt phân bố ở Thạch Lâm, Bảo Lạc, thị xã Cao Bằng. Đây là những mỏ hình thành ở chỗ tiếp xúc giữa các khối granit của phức hệ Cao Bằng với tầng đá vôi tuổi Cỗ sinh - Paleozoic thượng. Các mỏ Na Lũng, Nà Rua tổng trữ lượng khoảng 50 triệu tấn chủ yếu là manhêtít hàm lượng sắt ( Fe ) trên 60% , trong khi quặng sắt ở Thái Nguyên ( chủ yếu ở Trại Cau ) lại gồm hai loại là manhêtit và limonit có hàm lượng Fe chỉ 50- 55 % , và hàm lượng măngan cao (Mn 3 - 4 % ).

Quặng bô xít Cao Bằng cũng như ở miền Bắc Việt Nam tại Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La thuộc nguồn trầm tích diaspor, hàm lượng Al2O3 39- 65 % , mô đun silic khoảng 6-8 . Nhắc lại là bô xít Tây Nguyên các huyện Bảo Lộc Tân Rai - Lâm Đồng , các huyện tỉnh Đắc Nông và huyện Krong Nừng ( tỉnh Gia Lai - Pleiku ) trữ lượng lớn hơn nhiều 2258 triệu tấn trong tổng số trữ lượng toàn quốc là 2 772 triệu tấn; nguồn gốc là gypsít latêriít - basalt biến thành, sau khi tuyễn rữa hàm lượng Al203 là 47- 50% , mô đun silic 10- 20 .

Quặng thiếc và vonfram tập trung ở vùng Phia Oắc.Thiếc Tĩnh Túc đã được khai thác từ thế kỷ thứ 15, chủ yếu là sa khoáng. Thời Pháp thuộc thiếc đã được khai thác mạnh mẽ và sau chiến tranh chống Pháp, công nghiệp khai thác và luyện thiếc đã được đẩy mau hơn nhiều. Vonfram phần lớn là quặng gốc, trữ lượng khoảng 23 000 tấn SnO2 . Ít hơn ở vùng Qùy Hợp Nghệ An ( 36000 tấn thiếc sa khoáng và 50 000 tấn thiếc gốc ). Và có lẽ cũng ít hơn trữ lượng ở Lâm Đồng nữa.

Măngan phân bố ở vùng Trà Lĩnh nhưng còn có thể mở rộng ra ở vùng Trùng Khánh, Hạ Lang. Tổng sản lượng quặng măngan ở nước nhà khoảng chừng trên 3 triệu tấn quặng, hàm lượng 15- 35% . Một số mỏ ở Tuyên Quang, không phải ở Cao Bằng, đang được khai thác phục vụ ngành luyện kimThái Nguyên và hóa chất làm pin.

Ngoài ra Cao Bằng còn có nhiều loại khoáng sản khác như đồng, nickel, kẻm chì, antimoiny, vàng ( vùng đáng kể ở Cao Bằng là Ngân Sơn ) … nhưng trữ lượng nhỏ , ít giá trị về phương diện kinh tế.

Cao Bằng có trữ lượng đá vôi rất lớn , tập trung ở khu vực phía bắc và đông bắc tỉnh nhà, nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất xi măng và công nghiệp vật liệu xây dựng . .
Danh lam thắng cảnh, di tich văn hóa lịch sử

Ba thắng cảnh Cao Bằng đáng kể trước tiên là hồ Thang Hen, thác Bản Giốc và động Ngườm Ngao. Thật ra cả 3 thắng cảnh này đều thuộc hệ thống cácxtơ hai vùng biên cương Nam Trung Quốc Quảng Tây và vùng phía Bắc một số tỉnh Việt Nam. Một cảnh quan thần tiên mung lung các hình thành đá, thác dội ầm ỉ và sông suối ngầm, nơi nhiều cộng đồng tộc dân cô độc sinh sống và những bức tranh cỗ họa đồ trên vách núi chênh vênh bí ẩn khắc họa đã trên 2500 năm, cao 40m trên sông Minh Giang - Mingjiang . Lớn nhất là bức tranh 44x125m mô tả truyền tích tộc dân Tráng. Và cũng là nơi khai sinh của Trung Quốc cận đại và quốc gia Việt Nam độc lập giải phóng khỏi ách đô hộ Pháp. Địa hình cácxtơ đáng kinh ngạc, bắt đầu từ vùng thượng lưu sông Mê Kông miền đông tỉnh Vân Nam trải dài những lô nhô đá vôi cắt xé lởm chởm dọc theo hơn 400 km biên giới Khu Tự Trị tộc dân Tráng - Zhuang ( Choang ) tỉnh Quảng Tây và vùng Đông Bắc Việt Nam đến tận Vịnh Bắc Bộ. Ở biên cương viễn tây, trên Vân Nam kéo dài 220km từ thủ phủ Quảng Tây là Nanning- Nam Ninh là thị trấn Baise ( tiếng Hán Việt? ) mơ màng giấc điệp, đã trở thành quan yếu, nằm 1929, khi Đặng Tiểu Bình tổ chức dân Tráng địa phương nổi dậy thiết lập cọng sản Trung Hoa. “Bảo tàng “ cácxtơ khỏi sự từ phía nam thị trấn Baise gần biên giới Việt Nam tại Tĩnh Tây - JingXi và nhóm hẻm núi Tống Lĩnh - Quế Long Son ( ? ) Tongling-Gulongshan Canyon Group . Phía Việt Nam bên kia sông Tĩnh Quí ( ? ) - Chingui River là hệ thống cacxtơ tỉnh Cao Bằng. Xa hơn về phía tây là dãi núi vôi phong cảnh đẹp nhất là núi rừng và 3 hồ Ba Bể cùng thác Đầu Đẳng, đổ nước từ trên cao hơn 1000m theo ba bậc cấp đến động Puông tỉnh Bắc Kạn. Phía Đông Nam là địa chất hiếm có tỉnh Lạng Sơn với động Tam Thanh, động Nhị Thanh, núi Mẩu Sơn, rặng hẻm núi Chi Lăng …



Cụm hồ Thang Hen ( lấy hồ lớn nhất đặt tên ) có 36 hồ ( Thang Hoạt , Thang Hoi , Thang Luông … ) tách rời nhau vào mùa khô và nối liền thành một dải tràn đầy nước mùa mưa , nắm chót vót trên núi, gắn liền với truyền thuyết 36 bước chân vội vã về kinh của chàng Sung, sau đại đăng khoa ( thi đổ ) và tiểu đăng khoa ( lấy vợ ) .

Sung là một chang trẻ đẹp trai và thông minh. Mẹ Sung mong muốn cho con làm quan và cưới vợ đẹp. Thời Khổng giáo xa xưa , muốn làm quan phải thi đổ. Sung thi đổ .nhờ thông minh. Chàng nhận được một bức thư ra lệnh phải về kinh đô hoàng cung, tuần lễ tới. Con đã thi đổ ra làm quan, mẹ Sung vội vã cưới cho Sung một cô gái đẹp tên là Biooc Lương ( Hoàng Hoa hay Hoa Vàng ). Nhưng vì quá say mê tuần trăng mật, Sung quên bẳng lệnh xuôi kinh, mãi cho đến đêm cuối cùng mới nhớ đến. Biết mẹ sẽ vô cùng thất vọng nếu Sung trễ hẹn, không còn được bổ ra làm quan nữa, Sung cầu khẩn thần thánh giúp chàng nhảy vọt đến hoàng cung. Rủi thay, Sung quên mất thần chú và nhảy đến 36 bước, không kiểm soát được phương hướng và tốc độ, tạo ra 36 miệng hố, cuối cùng khi đến đỉnh đèo Mã Phục, thì Sung chết vì mệt lữ, biến thành khối đá. Mùa mưa làm rộng miệng hố thành những hồ lớn, nhỏ đầy nước. Mùa khô đa số hồ đêu cạn nước , ngoại trừ Thang Hen. Nhưng lúc này, nước hồ hạ thấp, làm hiện ra một động lớn, có thể thám hiểm bằng bè tre. Hiện tại không có nhà hàng ăn và khách sạn ở Thang Hen, cách tỉnh lỵ Cao Bằng 20 km đến Đèo Mã Phục, đi thêm 1km dến ngã ba rẽ trái, tiếp tục thêm 4km thì đến nơi.



Thác Bản Giốc ( có khi gọi là Bản Dốc ) là một thác dân Việt biết rỏ nhất, vì hình ảnh thác được treo ở phòng chờ đợi mọi nhà khách rẽ tiền khắp nước. Đây là một cảnh quan ngoạn mục, nhưng rất ít du khách viếng thăm. Thác lớn nhất nhưng không phải cao nhất Việt Nam. Chảy thẳng đứng 53m và trải dài 300m. Một vùng cuối thác nay thuộc Trung Quốc ( chiếm đoạt của Việt Nam từ năm 1979 ) , phần cuối phía kia là địa phận nước nhà. Thác rất hùng vĩ mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 , nhưng tắm hồ ở chân thác rất nguy hiểm vì nước xoáy . Thác gồm ba tầng bặc thang cấp và đủ nước quanh năm. Nữa phần thích thú cuộc viếng thăm là đến chân thác, băng xuyên qua nhiều ruộng lúa. Nước đổ vào thác từ sông Quây Sơn. Một đường lằn vô hinh chắn ngang sông làm ra biên giới hai quốc gia và bè tre sẽ chống sào đứng lại cách đường lằn chia đôi vài mét cả hai phía. Những năm gần đây, phía Trung Quốc thiết lập nhiều cơ sở tiện nghi mới, kể cả một khu nghĩ mát lớn, nhưng phía Việt Nam thì không có gì cả, ngoài một cầu tre đi bộ và vài bè tre. Không có công an biên phòng, nhưng cần có giấy phép công an để viếng thăm. Tuy nhiên khỏi cần xin phép trước, vì đã có trạm công an gần thác .

Động Ngườm Ngao là một trong những động đẹp miền Đông Bắc. Có hai khu vực đáng xem, nhưng cổng vào chánh lại ở cách thác Bản Giốc 2km, trên đường đi về thị xã Cao Bằng. Nay đã thiết đặt điện ở động chánh và ánh sáng điện rất đẹp so với màu sắc lờ mờ ở nhiều động Việt Nam khác. Mất 45 phút để thám hiểm toàn động . Động thứ hai lớn hơn và một nhánh động này tiến ra xa đến thác . Nơi đây có một cửa vào «  bí mật « . Xem hết động này cần đến hai giờ và cần có đuốc ( đèn pin ).

Về di tích văn hóa lịch sử phải kể ra thành Nà Lữ, thành nhà Mạc , đền Kỳ sầm ( thờ Nùng chí Cao , hinh như thuộc tộc dâng Tráng ,sớm đầu tối đánh nhà Tống và nhà Lý sử Việt Nam cho là kẻ phản bội vì đánh lại Lý Thường Kiệt khi tướng Việt này đánh sang Quảng Tây ) đền vua Lê ( một thời là đại bản doanh tướng sĩ nhà Mạc ). Cao Bằng lại còn năm ở khu vực người Việt cỗ cư trú cách đây hàng vạn năm . Nhà nước Việt Nam đà xếp hạng hơn 20 di tich lịch sử, trong đó có 16 di tích lịch sử cách mạng. Di tích Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, sát biên giới Việt Trung là nơi ông Hồ chí Minh ngày 8/2/ 1941 về lại Việt Nam ở hang Cốc Bó, sau 30 năm xa quê hương, xây dựng căn cứ địa và thành lập mặt trận Việt Minh, tháng 5 năm 1941. Phía Nam Pắc Bó là khu rừng Trần Hưng Đạo, châu Nguyên Bình, nơi thành lập đội tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Các di tích khác là hang Bó Hoài, nơi in báo Độc lập, di tích chiến thắng Đông Khê huyện Đông Khê ….

Cao Băng có nhiều lễ hội rộn rã, đủ khả năng thu hút được du khách như hội mời Mẹ Trăng của người Tày ở Đông Khê kéo dài 10-15 ngày đầu mùa xuân, hội Chùa, hội Thanh Minh ( tháng 3 âm lịch hàng năm ). Cao Bằng còn có làng Rèn Phúc Sen, huyện Quảng Hòa thiết lập cả một ngàn năm rồi. Đặc biệt ngày nay là các chợ phiên người dân tộc, tổ chức cứ một lần 5 ngày , theo âm lịch. Lớn nhất là chợ phiên Nước Hai ( các ngày mồng 1, 6 , 16, 21 và 26 ), chợ phiên Nà Giang ( 1, 6, 11, 16 , 21 ,26 ). Đây là những chợ phiên tập hợp người Tày, người Nùng và người Hmong - Mèo. Chợ Phiên Trà Lĩnh họp các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 mỗi tháng âm lịch. Chợ phiên Trùng Khánh các ngày 5, 10, 15, 25, 30 . Đặc điểm của chợ phiên là người bán không nói thách , không gian lận , bán đồng giá cho mọi du khách và dân cư địa phương. Nhưng không rỏ tập tục tốt này có còn không, dưới sự tấn công ồ ạt của ngành du lịch tương lai ?


Phần II : Lạm bàn phát triễn Cao Bằng

Phát triễn Cao Bằng tiến lên với điểm xuất phát thấp, nhiều mặt mất thăng bằng nghiêm trọng trước những thách thức to lớn. Cơ cấu chủ yếu vẫn còn là nông nghiệp , trong khi diện tích đất canh tác có hạn, đa số trồng cây lương thực , sản xuất độc canh .Trước thời đổi mới năm 1979, còn bị quân đội xâm lăng Trung Quốc phá tan tành nhiều cơ sở công nghệ phôi thai, tiểu công nghệ biến chế nông nghiệp , nông dân bản làng phân tán vì chiến cuộc dữ dội. Trong thời kỳ 1991, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Cao Bằng ở mức tương đối thấp, đạt trung bình mỗi năm 7.03% Thời kỳ 1996- 2000 tốc độ phát triễn mau hơn nhiều, trung bình năm lên tới 13% . Có nghĩa là trong vòng 10 năm, GDP Cao Bằng tăng gấp hơn 3.5 lần. Tuy nhiên Cao Bằng phụ thuộc nhiều vào khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, tỉ xuất trong GDP năm 2000 là 53.56 % .Trong lúc đó, khu vực dịch vụ dần dần khẳng định được vị trí, chiếm 30.8%. Chỉ khu vực công nghiệp và xây dựng, tuy cũng có gia tăng, nhưng chỉ ở mức 15.64 % . GDP bình quân theo đầu người, năm 2000 chỉ mới bằng khoảng 53% mức trung bình của cả nước. Số xã thuộc diện nghèo đói, vào năm 2000, vẫn còn trên 106 xã trong tổng số 175 xã tỉnh nhà . 22 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm.

‘ Tốc độ phát triễn cả nước, theo tài liệu của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, là 8% các năm 1990 - 1997 và 6.5 % các năm 1998 - 2003. Từ năm 2004 đến năm 2007 GDP Việt Nam tăng trung bình là 8% mỗi năm, nhưng chậm lại chỉ còn 6.2% năm 2008 . Từ năm 1990 đến năm 2005, nông nghiệp Việt Nam tăng gấp đôi, biến nước nhà từ một nước nhập khẩu nông phẩm thành quốc gia đứng hàng thứ hai xuất khẩu gạo, chỉ sau Thái Lan. Tính đến tháng 8/2009, Việt Nam đã xuất khẩu 37.3 tỉ đô la Mỹ, giảm mất 14 % so với năm 2008, nhưng giảm ít hơn mức dự liệu. Nhập khẩu Việt Nam thời gian này là 42.4 tỉ đô la, cũng giảm mất 28% so với năm 2008. Thế nhưng cán cân thương mãi Việt Nam vần thiếu hụt khoảng 5 tỉ đô la Mỹ. Mức đầu tư trực tiếp ngoại quốc foreign direct investment, FDI, đã tăng gia nhiều kể từ khi cho phép ngoại quốc đầu tư năm 1988, tuy rằng khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng nhiều đến FDI. Cũng tính đến 8/ 2009, FDI đăng ký là 10.4 tỉ đô la, giảm bớt 8. 2% so với 2008 vào cùng thời gian. Thanh tóan tư bản FDI tổng cọng là 6.5 tỉ đô la đến 8/ 2009, giảm đi 8.5% so với cùng thời gian 2008 . Năm 2008 , FDI đăng ký là 71.7 tỉ đô la, FDI hiện hửu là 11.5 tỉ . Lợi tức mỗi đầu người Việt Nam tăng từ 220 đô la năm 1994, lên 1 024 đô la năm 2008. Sác xuất tiết kiệm trung bình của mỗi người Việt Nam là 30%. Điều đáng quan tâm là mức thất nghiệp ở đô thị đã tăng những năm gần đây và mức thất nghiệp đô thị và khiếm dụng nông thôn, ngoài ngày mùa, ước lượng khoảng chừng 25- 35%.

Vai trò thương mãi Trung Quốc cho phát triễn các tỉnh biên giới Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh và cả Sơn La , Điện Biên nữa .

Giữa Cao Bằng và Quảng Tây là 3 cửa khẩu : Tà Lùng , Hùng Quốc , Sóc Hà. Tà Lùng là một trong những cửa khẩu lớn quốc gia., bên kia phía Quảng Tây là Suấy khẩu , tạo giao lưu kinh tế Cao Bằng với bên ngoài. Nằm kề tỉnh Quảng Tây vừa thuận lợi vừa khó khăn đối với việc phát triễn kinh tế . Quảng Tây là tỉnh nghèo Trung Quốc , đất rộng, dân đông, 100 lần hơn dân số Cao Bằng , nên có thị trường đa dạng về các mặt hàng nông lâm ngư sản, đồng thời có sự cạnh tranh gay gắt , phần thắng sẽ nghiêng về phía bên nào có chất lượng hàng hóa tốt hơn, rẻ hơn. Tuyến giao thông quan trọng nhất là quốc lộ 3, gần như chia Cao Bằng thành hai phần phía đông và phía Tây , có thể đi từ Hà Nội qua Thái Nguyên , Bắc Kạn, Nà Phặc , đèo Lê A tới thị xã Cao Bằng ( 315 km ) và đi tiếp lên Trà Lĩnh đến biên giới Việt Trung. Quốc lộ 3 là tuyến giao thông huyết mạch liên kết Cao Bằng với các tỉnh Trung du và đồng bằng sông Hồng ở phía nam và Trung Quốc ở phía bắc. Tuyến cần xây dựng, nâng cấp , phía Cao Bằng là đường vành đai biên giới từ Đông Khê ( Thạch An ) đi Tà Lùng , Hạ Lang, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc. Và đường sông, đặc biệt là khúc đoạn sông Bằng từ thị xã Cao Bằng đến cửa khẩu Tà Lùng. Cùng phương án xây dựng đường sắt Hà Quảng - thị xã Cao Bằng - Phục Hòa, thông đến tỉnh Quảng Tây ( ? )



Bình thường hóa Việt Trung năm 1991, đã đem đến một cải thiện hợp tác giữa hai quốc gia có lợi thực tiễn đôi bên, cho đến năm 2009. Thương mãi Việt Trung đã cũng cố mạnh mẽ từ 1998 đến 2008. Năm 2000, xuất nhập khẩu chỉ mới đạt 3 triệu đô la Mỹ. Hai nước đặt một mục tiêu thưong mãi là 5 tỉ đô la Mỹ cho năm 2005, nhưng mục tiêu này đã thực hiện năm 2003, hai năm trước dự liệu. Năm 2006, đã thực hiện mục tiêu dự liệu cho năm 2010 ,với trị giá xuất nhập khẩu là 10.4 tỉ đô la. Nhờ mức gia tăng trung bình là 33.95 % , Trung Quốc đã vượt Nhật Bổn , trở thành quốc gia thương mãi lớn nhất với Việt Nam. Đến tháng 11 năm 2008 , tổng số xuất nhập Việt Trung là 17. 810 tỉ đô la. Tháng 4 /2009, hai thủ tướng Việt -Trung gặp nhau ở tỉnh Hải Nam đặt mục tiêu tăng thương mãi song phương Việ Trung lên 25 tỉ đô la năm 2010 . Tưởng cũng nên lưu ý là kể từ khi Việt Nam ký kết Thương Mãi Song Phương - Bilateral Trade Agreement năm 2001, thương mãi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng đã gia tăng đáng kể từ 2.91 tỉ đô la năm 2002 lên đến 15.7 tỉ năm 2008. Tính từ tháng giêng đến tháng 7/2009, thương mãi song phương Hoa Kỳ - Việt Nam giảm đi 5.5 % , chỉ còn 7.7 tỉ . Tuy vậy ngày nay Hoa Kỳ là nước giao thương thứ nhì của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc .

Xuất khẩu sản phẩm Việt Nam sang Trung Quốc, trị giá năm 2008 là 4.010 tỉ đô la và nhập khẩu tổng cọng là 13.8 tỉ. Xuất nhập khẩu Việt Trung chiếm 12 % tổng số xuất nhập Việt Nam, trong khi Việt Nam chỉ chiếm 0. 78% tổng số xuất nhập khảu Trung Quốc. Việt Nam đứng hàng thứ 27 trong số các nước buôn bán với Trung Quốc. Từ năm 2004 , thương mài đã bất lợi cho Việt Nam, cán cân thương mãi đã thiếu hụt 1.724 tỉ đô la, 3 lần hơn năm 2002 và năm 2007 mức thâm thủng đã rất đồ sộ lên đến 9. 146 tỉ đô la. Hai lý do thâm thủng này là : trước hết biên giới Việt Trung rất phức tạp ( phần lớn là rừng và biển ) mà lại thiếu kiểm soát , dẫn tới nạn buôn lậu hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam. Thứ đến là đa số công ty Việt Nam thiếu ưu điểm so sánh cạnh tranh thắng lợi với các hảng Trung Quốc, vì công ty Việt thiếu thông tin thị trường và hệ thống luật lệ thích nghi. Thành quả là sản phẩm, hàng hóa Trung Quốc rẽ hơn, đa dạng hơn và phong phú hơn, thỏa mãn được yêu cầu, thị hiếu của những nhóm kinh tế xã hội rộng lớn, đặc biệt là nhóm lợi tức thấp kém.

Việt Nam xuất khẩu hơn 100 loại hàng hóa sang Trung Quốc . Chia ra thành 5 nhóm chánh: nguyên liệu ( than đá , cao su thiên nhiên, quặng sắt ) ; nông phẩm ( thực phẩm , trà , rau cải ( rau đậu ) hột điều (đào lôn hột ) : thủy sản ( tôm, cua , cá ) ; hàng tiêu thụ ( đồ tiểu công nghệ , đô mỹ thuật - fine arts , giày dép, sản phẩm nội thất cao phẩm ).

Giá trị các nguyên liệu chiếm 60 % tổng số hàng xuất khẩu. Dầu lữa thô chiếm 45 % tổng số xuất khẩu năm 2002, năm 2004 chiếm 53.8% . Xuất khẩu cao su thiên nhiên tăng từ 5.9 % năm 2002 đến 13.2 % năm 2006. Xuất khẩu than đá sang Trung Quốc cũng theo chiều hướng tương tự. Một chiều hướng trái ngược là giá trị xuất khẩu nông phẩm , đã gia giảm đáng kể. Năm2002 , trị giá xuất khẩu hải sản là 173. 5 triệu đô la . Năm 2006 chỉ còn 65 triệu, chưa bằng phân nữa trị giá năm 2002. Giá trị rau hoa xuất khẩu sang Trung Quốc cũng gia giảm. Các năm 1998 - 2008, xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc còn gồm có sản phẩm biến chế công nghệ, kể cả vải vóc , tơ sợi, giày dép, máy computer và một vài ứng dụng điện tử . Mức tăng các loại này đáng kể, nhưng thị trường nhỏ hẹp.

Hàng hóa Việt Nam nhấp khẩu từ Trung Quốc thời gian 1998- 2008 gồm 214 món, gấp đôi số món Viện Nam xuất khẩu. Chia ra 5 nhóm chánh: máy móc và thiết bị dùng ở công nghệ xi măng và các nhà máy đường ăn , các máy móc cơ học , xe vận tải, dụng cụ y tế, đồ dan len, và nông cơ, dầu xăng và các nguyên liêu ( tỉ dụ xi măng , sắt , chất nhuộm , thuốc trừ dịch sâu - bệnh cây-cỏ dại và phân bón , các thực phẩm như rau đậu , bột lúa mì , dầu thực vật , táo , lê và hột giống; các sản phẩm tiêu thụ như thuốc đông y ( và có khi cả nhiều loại thuốc tây loại tương thích- generics nữa ? ) , các sản phẩm điện tử, vải vóc và đồ chơi - toys .

Kim ngạch xuất khẩu tỉnh Cao Bằng , phần lớn qua Trung Quốc , tăng từ 637 000 đô la năm 1991 lên đến 6 . 315 triệu đô la năm 2000. Các mặt hàng Cao Bằng xuất khẩu chủ lực năm 2000 gồm có quặng sắt ( chừng 200 000 tấn ) thiếc thỏi ( 220 tấn , quặng Măng gan ( 4065 tấn ), chiếu trúc ( 156 992 tấm ), mành treo ( 50 043 tấm ). Năm 1991 kim ngách nhập khẩu của tỉnh là 83 500 đô la tăng lên đến 8. 294 triệu năm 1995 , giảm xuống năm 1999 chỉ còn 3.506 triệu và chỉ còn 2. 345 triệu năm 2000. Các mặt hàng nhập khẩu năm 2000 là than cốc ( 1745 tấn ), thuốc tăng trọng , kính xây dựng ( 81, 940 m2 ), máy xay xát , xe máy. Phát triễn thương mãi - dịch vụ tổng hợp điển hình là thị xã Cao Bằng và cửa khẩu Tà Lùng Nhưng thương mãi biên giới ở 3 cửa khẩu Cao Bằng ( Tà Lùng huyện Phục Hòa, Hùng Quốc huyện Trà Lĩnh và Sóc Giang huyện Hà Khẩu) và 7 chợ biên giới còn thua kém các cửa khẩu Lạng Sơn (4 cửa khẩu trong đó hai cửa khẩu quốc tế là Đồng Đăng và Hửu Nghị ) và Quảng Ninh ( thị xã Móng Cái , 2 cửa khẩu đất liền là Hoành Mô và Quảng Đức ) . Thua xa cửa khẩu quốc tế thị xã Lào Cai và Hà khẩu ( He kou ) tỉnh Vân Nam, mức mậu biên song phương đã lên đến 430 triệu đô la Mỹ năm 2009 .

Khác biệt giao thương thành phần hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam ,chẳng hạn nhập khẩu phân lớn từ Trung Quốc thuộc loại căn bản máy móc và xuất khẩu từ Việt Nam phần lớn là nguyên liệu, phản ảnh nhưng mức độ phát triễn kinh tế giữa hai quốc gia. Việt Nam không đủ khả năng xâm nhập thị trường Trung Quốc theo sác xuất xâm nhập hàng hóa các công ty Trung Quốc vào thị trường Việt Nam. Hơn nữa, Trung Quốc khai thác các tài nguyên thiên nhie6n của Việt Nam để tăng cường phát triễn kinh tế. Vài nhà học giả cho rằng cơ cấu thương mãi Việt Nam -Trung Quốc là một thí dụ điển hình liên hệ thương mãi Nam - Bắc giữa một nuớc chậm tiến, đang mở mang Nam Bán Cầu và moột nước đã mở mang Bắc Bán Cầu. Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu giá trị thấp qua Trung Quốc và nhập khẩu hàng hóa giá trị cao và kỷ thuật cao hơn từ Trung Quốc.



Thực hiện mau lẹ hơn nâng cấp hay xây dựng mới giao thông, các ngành du liich cho khu vực dịch vụ thành phát triễn kinh tế hạng nhất tỉnh Cao Bằng .
Nhắc lại là công nghệ và xây dựng Cao Bằng, năm 2000, chỉ có sác xuất 15,64 % GDP , so với lảnh vực dịch vụ chiếm 30.8 % và nông lâm ngư nghiệp chiếm 53.64 %. Nông nghiệp chỉ dự trù tăng thêm 5.55 % mỗi năm, nên dịch vụ tăng trưởng có thể giúp Cao Bằng vượt cao hơn sác xuất nông nghiệp . Theo khuynh hướng chung của quốc gia, nông nghiệp đã giảm từ 42 % năm 1989, xuống chỉ còn 21.99 % GDP năm 2008. Công nghệ và xây dựng Cao Bằng chỉ dự trù đạt 26% GDP trong thời gian 2006 - 2010 ( sác xuất quốc gia là 27.3% GDP năm 1985 và 39.86% năm 2008 ).
Giao thông vận tải
Mạng lưới giao thông vận tải Cao Bằng nhìn chung kém phát triễn. Loại hình vận tải duy nhất là đường bộ , tổng chiều dài thương đối ít, mật độ đường thấp và chất lượng xấu. Những năm qua Cao Bằng đã chú trọng đến lảnh vực giao thông vận tải, một trong những điều kiện hạ tầng cơ sở ảnh hưỏng bậc nhất đến việc phát triễn kinh tế - xã hội, đã xây dựng được một số tuyến chính đi từ thị xã đến trung tâm các huyện. Hiện có 10 tuyến nội tỉnh. Tuyến quan trọng là đường 203 nối Cao Bằng đến Pắc Bó, dài 55km, đường 204 nối Nậm Thoong- Mỏ Sắt , Thông Nông. Đường 206 nối Quảng Yên- Trùng Khánh- Đàm Thủy - Bằng Ca, đường 207 nối Quảng Yên - Hạ Lanh - Bằng Ca, đường 208 nối Thạch An ( Đông Khê ) - Bằng Ca , đường 208 nối Thạch An --Phục Hòa. Chất lượng đường và cầu chưa bảo đảm, hầu hết lòng đường còn hẹp. Số mặt đường được rải nhựa và bê tông còn ít, một số tuyến bị ích tắc trong mùa mưa. Cho đến năm 2010 hướng phát triễn giao thông Cao Bằng là nâng cấp các trục giao thông quan trọng như quốc lộ 3 đã nói trên , quốc lộ 4 A chạy song song với đường ranh giới giữa Cao Băng và Lạng Sơn , quốc lộ 34 , hoàn thiện các tuyến đường nội tỉnh , va nhất là xây dựng hệ thống vành đai bên giới cũng đã nói trên . Khi mà cả hai hành lang phát triễn kinh tế Việt Trung- economic corridors đều không dự trù cải thiện gì đường xá tỉnh Cao Bằng :

- hành lang thứ nhất bao gồm một diện tích là 80 000 km2 , dân số tổng cọng là 19 triệu người, chạy từ thủ phủ Côn Minh --Kunming tỉnh Vân Nam đến Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng

- hành lang thứ hai nối Nanning - Nam Ninh thủ phủ Quảng Tây với Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, diện tích tổng cọng là 60 000 km2 , dân số tổng cọng là 20 triệu ngưòi.

Cả hai hành lang dự trù đề cao mậu dịch biên giới hai nước, phát triễn một số công trình giao thông vận chuyễn hạ tầng cơ sở tân tiến ; nâng cấp đường sắt và đường bộ nối liền Côn minh với Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng ; xây dựng một xa lộ mới mẽ cũng nối Côn Minh đến Lào Cai , Hà Nội, Hải Phòng , Quảng Ninh và tiếp theo sau là một đường sắt Xuyên Á - transAsia railway line. Cũng như xa lộ hửu nghị nối Lạng Sơn với Nam Ninh cũng sẽ được cải tiến. Điều đáng lưu tâm là trong thực hiện giao thông và công tác xây dựng thời gian 1997- 2009, theo Peter N. Sheridan của Venture Group Inc. ước lượng chỉ khoảng 70% ngân khoảng dự trù là chi tiêu thực sự vào các dự án , 30 % thất thóat cho tham nhũng , thâm căn cố đế ở ngành này tại nước nhà, cũng như ở nhiều nước khác như Trung Quốc và ngay cả ở Hoa Kỳ thời mới thiết lập chế độ tư bản - capitalism , thời « các nam tước ăn cướp - robber barons «  thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20 .

Cũng xin nói thêm là vào năm 2005, Côn Minh và Nam Ninh đã phát triễn mạnh mẽ , mọi thừa tố phát triễn sản xuất hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đều tập trung vào hai thành phố này. Hành lang thứ nhất sẽ làm dễ dàng xuất khẩu Côn Minh đến các nước khác qua các hải cảng Việt Nam. Còn vòng đai kinh tế sẽ liên kết các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, các thành phố Hồng Kông, Ma Cao với 10 thị trấn bờ biển Việt Nam.
Du lịch
Phần I khái quát đã đề cập đến các danh lam thắng cảnh, lich sữ, văn hóa tỉnh Cao Bằng. Mặc dù tiềm năng du lịch dồi dào, khí hậu luôn luôn mát mẽ , núi cao lởm chởm , nhiều cảnh quan mỹ lệ có thể là nơi nghĩ mát, xã hơi thuận tiện ( nhưng chưa xây dựng gì ; chẳng hạn ở phần thác núi rừng Bản Giốc ở phần còn lại cho Việt Nam khác hẳn phía Trung Quốc chiếm đoạt, đã thiết lập cơ sở du lịch, nơi nghĩ mát … phần ) , thám sát - khám phá sinh thái ; số khách đến còn qúa ít. Năm 2000 số khách lưu trú ở Cao Bằng rất ít ỏi, chỉ là 46 400 người theo thống kê tỉnh, trong đó có 14000 du khách ngoại quốc , với tổng số ngày lưu trú là 53 300 ngày. Số người trong nước du lịch ước lượng sẽ là 25 triệu năm 2010 , tăng 15 % so với năm 2009. Tổng số khách du lịch ngoại quốc năm 2009 , ước lượng là 3.94 - 4 triệu người, giảm 10% so với năm 2008. Năm 2010, ước lượng sẽ gia tăng 8- 10 % , thêm 400 000 người so với năm 2009. Khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam từ 63 000 người năm 1995 đã lên đến 778 000 năm 2004 , trong tổng số du khách ngoại quốc năm đó là 2.93 triệu. Ngoại tệ du khách đem lại cho Việt Nam năm 2009 là 3.8 tỉ đô la, góp phần không nhỏ cho phát triễn kinh tế xã hội quốc gia đáng cho Cao Bằng suy ngẫm.

Cao Bằng đang cố tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn du khách. Về mặt lảnh thổ đã xác định 4 cụm du lịch chính sau đây :

- cụm thị xã Cao Bằng và phụ cận , tập trung vào việc tôn tạo , bảo vệ các khu di tích, xây dựng các làng văn hóa, đường cảnh quan dọc bờ sông Bằng và các khu văn hóa - thể thao.

- cụm Pắc Bó và phụ cận ( xã Trường Hà, Hà Quảng ) trung tâm là hang Pắc Bó với quần thể lán Khuổi Nậm, bảo tàng Pắc Bó …

- cụm Bản Giốc- Ngườm Ngao (xã Đàm Thủy,Trùng Khánh ) gắn với thác nước, hang động, những cánh rừng thưa, nhất là rừng dẻ Trùng Khánh, rât thích hợp du lịch sinh thái ( thực vật, động vật, thú rừng… ở Cao Bằng, một số đã được trình bày sơ lược ở phần I khái quát, còn khiếm khuyết khảo cứu .

. - Cụm rừng Trần Hưng Đạo( các xã Tam Kim, Hoa Thám, Minh Thanh huyện Nguyên Bình ) , khu du lịch vừa văn hóa vừa sinh thái …


Tiến xa hơn công nghệ khai khóang, xuất khẩu nguyên liệu ?

Ngoài giao thông vận tải , hạ tầng cơ sở khác cần cải tiến, xây dưng, bổ sung mới mong phát triễn công nghệ tỉnh nhà được. Năm 2000 giá trị công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước chỉ moới là 9.2 % tổng trị giá công nghiệp Cao Bằng. 85 Km mạng lưới 110 KV và 600km mạng lưới 35 KV , hầu đưa điện vào cả 13 / 13 thị xã và thị trấn huyện lỵ, đ ãthiết lập. Nhờ các đập thủy điện như trên dòng sông Cun ở gần thị xã Cao Bằng, đập Na Tàu ở huyện Quảng Hòa và đập lớn nhất tỉnh hiện nay là Na Lòa . Một số đập thủy điệ cực nhỏ , tạo điều kiện cho việc điện hóa nông thôn vùng núi, nhất là ở những nơi lưới điện quốc gia chưa tới đựợc. Thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông Cao Bằng cũng chưa tiến mạnh. Cả tịnh hiện có 1 bưu cục trung tâm, 10 bưu cục cấp huyện và 23 bưu cục cấp khu vực ;16 tổng đài điện thoại trang bị điện tử kỷ thuật số ; một đường cáp - cable liên tỉnh Cao Bằng - Lạng Sơn - Bác Kạn , Tuyên Quang ; 5 đường dây nội quang - internal optical line ; 3 trạm thông tin di động ở thị xã Cao Bằng , thị trấn Hòa An, Phúc Hòa ; 4 trạm thông tin vệ.tinh ….

Công nghiệp chánh Cao Bằng gồm có chế biến nông lâm nghiệp , sản xuất vật liệu xây dựng và nhất là công nghiệp khai khoáng, tập trung vào các mỏ kim loại đen như sắt ( Thạch Lâm , Bảo Lạc , thị xã ), Măngan ( Trà Lĩnh ) và kim loại màu như thiếc ( Tĩnh Túc , Nguyên Bình ) và năm 2009 dự liệu khai thác bô xít ( ? ). Nhưng như đã lưu ý ở phần hợp tác phát triễn song phương Việt Trung, giai đoan mới là Cao Bằng cũng như Việt Nam càn chuyễn đổi cơ cấu, tiến xa hơn việc xuất khẩu quặng, lập các nhà máy tinh luyên kim , chế biến hợp kim, làm các máy móc bộ phận cơ khí hợp kim v.v… nhiều giá trị thêm hơn, có lợi hơn cho tỉnh nhà. Việc Cao Bàng nay không cho phép xuất khẩu hay xuất tỉnh quặng sắt, để dành cho công nghệ. sắt -thép Cao Bằng dự trù tương lai, việc đầu tư làm nhà máy chế biến măng gan dioxide ( đầu tư Phi Luật Tân tháng 4 năm 2008 ở Trùng Khánh ? ), cũng như việc Cao Bằng cấm xuất khẩu nguyên liệu tre sang Trung Quốc dùng làm Tre Ép Khối - Pressed Bamboo tháng 7 năm 2008 , sản xuất giá rẽ hơn Trung Quôc và xuất khẩu với máy móc chế tạo ở Việt Nam,tương tự máy chế biến vỏ trấu ở miền Nam… là đúng đường hướng nâng cao địa vị công nghiệp tỉnh nhà, mau đuổi kịp khuynh hướng, sác xuất trung bình cả nước vào năm 2015 - 2020 . Hoàn thành mau lẹ hai khu công nghệ tập trung : khu Đề thám ở thị xã Cao Bằng và khu Chu Trinh ( ? ) - Phúc Hòa vùng Tà Lĩnh, sẽ cũng cố thêm đường hướng này, có cơ hội tốt hơn thu hút được đầu tư trực tiếp ngoại quốc , mà đến năm 2000 vẫn chưa có ở Cao Bàng.



tải về 154.42 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương