Mã số: 62225005 DỰ thảo tóm tắt luậN Án tiến sĩ LỊch sử



tải về 295.69 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích295.69 Kb.
#37947
  1   2   3
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------

NGUYỄN DƯƠNG ĐỖ QUYÊN

VAI TRÒ CỦA SANYUTEI ENCHO

TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI - VĂN HÓA NHẬT BẢN

THỜI KỲ MINH TRỊ
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới cận đại và hiện đại

Mã số: 62225005


DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


Hà Nội - 2015

Công trình được hoàn thành tại:
Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Kim

Giới thiệu 1: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Giới thiệu 2: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Cơ sở chấm luận án tiến sĩ

họp tại : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

vào hồi giờ ngày tháng năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong nghiên cứu lịch sử Nhật Bản trên thế giới, cải cách thời Minh Trị là một đề tài được quan tâm sâu sắc. Tuy vậy, nghiên cứu ở Việt Nam hầu như chỉ mới dừng lại ở việc phân tích những chuyển biến về chính trị, kinh tế hay giáo dục, và đề cao vai trò của các nhà lãnh đạo và lực lượng võ sĩ - trí thức tinh hoa. Trong khi đó, quá trình chuyển biến của quần chúng góp phần quan trọng trong thành công căn bản của hiện đại hóa xã hội Minh Trị, cũng như quá trình tiếp biến của các truyền thống văn hóa trong xu thế tiếp nhận mạnh mẽ văn minh phương Tây lại ít được quan tâm khảo cứu.

Trong lĩnh vực văn hóa, chính quyền Minh Trị sớm nhận thức tầm quan trọng của hiện đại hóa nghệ thuật đại chúng nhằm khẳng định vị thế đồng đẳng với các cường quốc phương Tây. Quá trình chuyển biến của nghệ thuật đại chúng không chỉ phản ánh, mà còn góp phần thúc đẩy chuyển biến về tinh thần, nhận thức và tư tưởng của chính quyền và công chúng Nhật Bản.

Sanyutei Encho (1839-1900) là một danh nhân văn hóa, tác gia và nghệ sĩ kể chuyện-tấu nói Rakugo đại diện cho nền nghệ thuật đại chúng thời Minh Trị. Ông sống 29 năm cuối thời Edo (1600-1868) và 32 năm đầu thời Minh Trị (1868-1912), là một thị dân gốc sống trọn đời tại đô thị trung tâm Edo - Tokyo. Việc xem xét và đánh giá vai trò của Encho với tư cách một nghiên cứu trường hợp nhằm khảo cứu quá trình chuyển biến và vai trò của văn hóa - nghệ thuật đại chúng và tầng lớp thị dân Edo là cách tiếp cận mới, góp phần lý giải mức độ toàn diện và sâu sắc của cải cách Minh Trị ở Nhật Bản.



2. Mục tiêu nghiên cứu

Từ góc độ lịch sử, nghiên cứu sự nghiệp hoạt động và những đóng góp tiêu biểu của Sanyutei Encho, một nhà văn hoá, nhà hoạt động nghệ thuật đại chúng thời kỳ cuối Edo - đầu Minh Trị trong đời sống văn hoá - xã hội Nhật Bản. Thông qua nghiên cứu trường hợp Sanyutei Encho, xác định vai trò lịch sử của văn nghệ sĩ đô thị trong việc lôi cuốn quần chúng xã hội, cũng như quá trình tiếp biến của truyền thống văn hoá Edo, một tiền đề và nội lực quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa xã hội Nhật Bản thời cận đại.



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp của Sanyutei Encho trong lịch sử nghệ thuật kể chuyện - tấu nói và lịch sử văn hoá - xã hội Nhật Bản thời Minh Trị được tập trung khảo cứu. Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu một số chân dung văn nghệ sĩ, nhà báo, chính khách, nhà tư bản tiêu biểu, cũng như nghệ thuật tạp kỹ Yose và Rakugo có quan hệ mật thiết với sự nghiệp và ảnh hưởng xã hội của Encho góp phần cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu sử liệu (bao gồm các tư liệu tiểu sử, văn bản chính quyền, báo chí và ghi chép trong thời Minh Trị), phương pháp lịch đại và đồng đại, phương pháp thống kê, so sánh, phê phán tài liệu, thực địa và phỏng vấn, phân tích tác phẩm…

5. Đóng góp của luận án

Là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về lịch sử Nhật Bản thời Minh Trị từ cách tiếp cận khảo cứu sâu một danh nhân văn hoá đương thời, đồng thời là nghiên cứu đầu tiên tiếp cận vấn đề từ góc độ lịch sử nghệ thuật. Đặc biệt, trong bối cảnh nghiên cứu lịch sử cận thế và cận đại Nhật Bản thường có xu hướng khảo sát các vấn đề nghiên cứu của mỗi thời kỳ một cách riêng rẽ, tính mới của luận án là khảo cứu một nhân vật lịch sử sống trọn giữa hai thời kỳ, một mặt kế thừa nền tảng quan trọng của văn hóa và xã hội thời Edo, mặt khác tham gia tích cực vào công cuộc cải biến xã hội thời Minh Trị.

Trong nghiên cứu Sanyutei Encho, luận án là công trình nước ngoài có quy mô đầu tiên, cũng là công trình đầu tiên nghiên cứu trường hợp Encho nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử - xã hội có liên quan trong thời Minh Trị.

Tác giả luận án hy vọng đóng góp một nghiên cứu mới và một tài liệu tham khảo trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử Nhật Bản nói riêng, lịch sử thế giới cận đại - hiện đại nói chung tại Việt Nam.



6. Bố cục luận án

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được kết cấu thành 5 chương gồm: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, Chương 2: Sanyutei Encho - Con người và thời đại, Chương 3: Sanyutei Encho trong đời sống văn hóa Nhật Bản thời Minh Trị, Chương 4: Sanyutei Encho trong đời sống xã hội Nhật Bản thời Minh Trị, Chương 5: Vai trò của truyền thống văn hóa thị dân Edo và văn nghệ sĩ đô thị trong hiện đại hóa Nhật Bản thời Minh Trị - từ nghiên cứu trường hợp Sanyutei Encho. Phần Phụ lục trình bày các tư liệu hình ảnh, niên biểu và bảng biểu góp phần làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Khái quát về nghiên cứu lịch sử Nhật Bản thời Minh Trị

Trong một thời gian dài cho đến thập niên 60 của thế kỷ XX, một xu hướng nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô về mô hình phát triển của Nhật Bản được các học giả phương Tây đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, do sử dụng hệ lý thuyết phương Tây để tranh luận về "tính hiện đại" của cải cách Minh Trị, những nghiên cứu này sau đó đã bị phản biện là mang nặng cách nhìn thiên kiến văn hoá hoặc đánh đồng quá trình "hiện đại hoá" Nhật Bản với "Âu hoá". Một đề tài tranh luận khác chưa ngã ngũ là việc thống nhất cách định danh cho quá trình hiện đại hoá thời Minh Trị là một cuộc "cải cách" hay "cách mạng" hay "duy tân", càng cho thấy tính chất phức tạp và lý thú của vấn đề.

Vài thập kỷ gần đây, nghiên cứu lịch sử cận đại Nhật Bản đi đến nhận thức phổ quát về tính đặc thù của "hiện đại hoá" Nhật Bản, cũng như vai trò quyết định của các yếu tố bên trong (endogenous factors). Bên cạnh những mặt tích cực, khía cạnh tiêu cực của tăng trưởng "nóng" hay "bệnh lý của hiện đại hóa" (theo Donald H.Shivley) cũng được quan tâm nghiên cứu.

Tại Việt Nam, trong khoảng ba thập niên gần đây xuất hiện một số công trình chuyên khảo hoặc dịch thuật có tính mở đường trong nghiên cứu lịch sử Minh Trị như "Nhật Bản cận đại" (Vĩnh Sính), "Minh Trị Duy tân và Việt Nam" (Nguyễn Tiến Lực), "Cải cách Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912)” (Nguyễn Văn Kim), "Bunmei kaika và sự biến đổi trong đời sống vật chất của người Nhật" (Phan Hải Linh), "Cải cách giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị Duy tân" (Đặng Xuân Kháng), "Phúc Ông tự truyện" (Fukuzawa Yukichi, Phạm Thị Thu Giang dịch)... Trong bối cảnh nghiên cứu trên thế giới ngày càng phát hiện, khảo cứu nhiều vấn đề hẹp và sâu của lịch sử xã hội Minh Trị, nghiên cứu tại Việt Nam rất cần những tìm tòi mới tương tự.



1.2. Nghiên cứu lịch sử nghệ thuật đại chúng và tiến trình hiện đại hoá xã hội - văn hóa đô thị Nhật Bản thời Minh Trị

1.2.1. Nghiên cứu quá trình chuyển biến của nghệ thuật đại chúng thời Minh Trị

Kurata Yoshihiro là nhà nghiên cứu hàng đầu về lịch sử nghệ thuật cận đại Nhật Bản. Trong “Shibai koya to yose no kindai - “Yugei” kara “Bunka” he” (Thời cận đại của Kịch quán và Nhà hát tạp kỹ bình dân - Từ "Du nghệ" đến "Văn hoá"), ông nhận định: việc lý giải những chuyển biến chuyển của nghệ thuật đại chúng Nhật Bản trong hiện đại hóa thời Minh Trị phải dựa trên cơ sở nắm bắt những thay đổi về phong tục tập quán và cảm thức đương thời. Các phân tích của ông cho thấy xã hội Nhật Bản từ thời Minh Trị đã phải vận động rất mạnh mẽ để có được những chuyển biến hiện đại hóa.



1.2.2. Nghiên cứu quá trình chuyển biến của đời sống xã hội - văn hóa đô thị thời Minh Trị

Bên cạnh khuynh hướng chủ đạo khảo cứu sự phát triển của từng lĩnh vực giáo dục, kiến trúc, đất đai, giao thông, hạ tầng..., một cách tiếp cận khác được nhiều nghiên cứu quan tâm là khảo sát quá trình chuyển biến của đô thị Nhật Bản từ thời Edo sang thời Minh Trị trong một nội hàm rộng hơn như “tính liên tục” và “phi liên tục” trong văn hóa thị dân hay không gian đô thị. Philippe Pons trong "Edo kara Tokyo he - Chonin bunka to shomin bunka" (Từ Edo đến Tokyo - Văn hóa thị dân và văn hóa bình dân) đã đề cao các “di sản” và “tính liên tục” của truyền thống văn hóa Edo, trong đó coi nghệ thuật kể chuyện-tấu nói là một “văn hoá mang tính liên tục". Tác giả cũng không bỏ qua những “hình tượng hiện đại mang tính đặc thù” từ thời Minh Trị như các khu đô thị mới nổi (Ginza, Shinjuku) hay phim ảnh. Kogi Shinzo trong “Edo Tokyo - seikatsu kukan no kenkyu” (Edo Tokyo - nghiên cứu không gian sống) chỉ ra: trong khi các khu đô thị truyền thống như Asakusa vẫn bảo lưu "tính liên tục" của văn hoá thị dân từ Edo sang Minh Trị, thì Shibuya hay Ikebukuro vốn là những vùng nông thôn có tốc độ đô thị hoá chậm trong thời Edo, lại chuyển biến lớn với tốc độ đô thị hoá và hiện đại hoá nhanh chóng.



1.2.3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nghệ thuật đại chúng và xã hội đô thị

Kawauchi Yukie trong “Edo no toshi seisakuga geinoni ataeta eikyoni kansuru kenkyu” (Nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách đô thị Edo đối với nghệ thuật) nhận xét: nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật lâu nay mang nặng xu hướng nghiên cứu cục bộ mà chưa quan tâm khảo cứu nền nghệ thuật như một chỉnh thể hoặc trên quy mô địa vực. Tác giả đánh giá khá khắt khe rằng mối quan hệ giữa quần chúng đô thị và nghệ thuật sân khấu kể từ thời Minh Trị không mật thiết như trong thời Edo hay ở các nước phát triển Âu - Mỹ.

Nhà lịch sử kiến trúc Fujimori Terunobu trong “Meiji no tokyo keikaku” (Kế hoạch kiến thiết Tokyo thời Minh Trị) và Philippe Pons đều nhận định: Trong quá trình du nhập ồ ạt văn hoá Âu - Mỹ, chính quyền Minh Trị đồng thời áp dụng quan điểm giá trị coi nghệ thuật phải là “văn hoá thể hiện sức mạnh quốc gia với bên ngoài” và Edo phải trở thành thủ đô Tokyo mang đặc trưng văn hóa ngang tầm quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, nhiều nghệ thuật quy mô nhỏ thịnh hành của Edo, do không được gán giá trị “văn hoá” nên thoái trào hoặc suy vong. Từ nhận thức đó, trong nghiên cứu “Thời cận đại của Kịch quán và Rạp hát tạp kỹ bình dân Yose - từ “Du nghệ” đến “Văn hóa””, Kurata đã khảo sát nỗ lực thích nghi, tồn tại và phát huy vai trò trước chính sách văn hoá mới thời Minh Trị của các nghệ thuật đại chúng quy mô nhỏ.

1.3. Nghiên cứu về Sanyutei Encho

Tại Nhật Bản, nghiên cứu về Sanyutei Encho được tiến hành hơn một thế kỷ qua trên các phương diện lịch sử, văn học và nghệ thuật.



Trên phương diện lịch sử, nghiên cứu tiểu sử Encho được tiến hành ngay lúc Encho sinh thời bằng các bản chấp bút tự thuật được đánh giá cao như của Kanagaki Robun và Sansantei Arindo (1885) hay Rogetsu Sanshi (1890). Thời hiện đại, các nghiên cứu tiểu sử tiếp tục phát triển, tiêu biểu như “Sanyutei Encho” của Nagai Hiroo (1999). Góp phần xác thực những dữ kiện lịch sử liên quan đến Encho, Kurata Yoshihiro nhấn mạnh giá trị của việc khảo cứu các tư liệu báo chí đương thời. Một khía cạnh nghiên cứu khác là giá trị lịch sử trong các sáng tác của Encho, xuất phát từ thực tế ông là tác giả có nhiều khảo cứu thực địa công phu được đánh giá cao là một nguồn tư liệu lịch sử. Các nghiên cứu sử dụng chính phương pháp thực địa, phỏng vấn, đối chiếu tư liệu với các địa danh, nhân vật và sự kiện mà Encho đã khai thác. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nobuhiro Shinji hay Mori Mayumi.

Trên phương diện văn học có hai khuynh hướng chủ yếu: nghiên cứu văn học sử thủ pháp sáng tác của Encho và sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn bộ “Encho toàn tập”. Ngoài các nhà nghiên cứu Nhật Bản có tiếng, còn góp mặt một số nhà nghiên cứu nước ngoài như Sam de Flint với mối quan tâm làm rõ mức độ tiếp thu văn nghệ phương Tây của Encho qua các phỏng tác tiểu thuyết nổi tiếng “La Tosca” (Victorien Sardou), “Pauline” (Alexandre Dumas), “Un Parricide” (Guy de Maupassant).

Nghiên cứu về Sanyutei Encho - một số vấn đề còn bỏ ngỏ

Tại Việt Nam, các nghiên cứu xem xét chuyển biến lịch sử xã hội thường có xu hướng quan tâm một cách khá thiên lệch tới các triều đại, thể chế, các nhà chính trị - tư tưởng - quân sự lỗi lạc mà ít khảo cứu quá trình chuyển biến của quần chúng hay vai trò truyền dẫn của các nhà văn hoá - xã hội, những nhân tố góp phần phản ánh bản chất chân thực của sự phát triển xã hội, tựu chung, càng góp phần vào tình trạng thiếu hụt tư liệu nghiên cứu.

Do tài năng xuất sắc của Encho trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật, các nghiên cứu thường đi sâu vào đặc điểm và giá trị sáng tác mà ít quan tâm cuộc đời và sự nghiệp của ông như đối tượng của nghiên cứu lịch sử - xã hội.

Hai thập niên gần đây, kể chuyện-tấu nói Rakugo thu hút nhiều nghiên cứu nước ngoài khi nổi lên thành một hiện tượng văn hoá hiện đại Nhật Bản. Mặc dù đây đó vai trò của Encho được đề cập nhưng khó khăn ngôn ngữ và tư liệu cản trở lớn các nghiên cứu trực tiếp về ông. Luận án tiến sĩ của Ian McArthur “Mediating Modernity - Henry Black and Narrated Hybridity in Meiji Japan” (2002) nghiên cứu vai trò của Henry Black - nhà hoạt động tự do - dân quyền, nghệ sĩ Rakugo và môn đệ ngoại quốc của Encho - trong việc kết nối Nhật Bản với những tư tưởng hiện đại phương Tây thông qua văn nghệ truyền thống, đặt ra hướng nghiên cứu mới về Encho với tư cách một đại diện người Nhật tiêu biểu cho sự tiếp biến văn hóa từ truyền thống đến hiện đại, giữa Nhật Bản với thế giới. Nghiên cứu Encho cũng gợi mở một cách tiếp cận về quá trình chuyển biến và vai trò mà thị dân và văn hóa thị dân trong thời Minh Trị - một vấn đề lịch sử thú vị còn bỏ ngỏ.


CHƯƠNG 2

SANYUTEI ENCHO - CON NGƯỜI VÀ THỜI ĐẠI

Chương này khái quát những chuyển biến hiện đại hóa căn bản của xã hội thời Minh Trị, mặt khác xem xét quá trình tiếp biến của văn hóa thị dân Edo - Tokyo cũng như nghệ thuật tạp kỹ Yose và Rakugo với ý nghĩa bối cảnh thời đại và môi trường hoạt động của Sanyutei Encho. Thân thế và sự nghiệp của Encho được trình bày sơ lược làm tiền đề đi sâu phân tích vai trò và đóng góp của ông trong các chương tiếp theo.



2.1. Bối cảnh chính trị - xã hội Nhật Bản những năm cuối thời Edo

Trong khi nhiều quốc gia tiến hành hiện đại hóa trong tình trạng nội chiến triền miên, thì ở Nhật Bản, dân chúng hầu như đã không bị cuốn vào cuộc đổ máu. Đây là một đặc thù khác biệt của xã hội Nhật Bản khi chính giới võ sĩ - một tầng lớp luôn có đặc quyền trong một lịch sử lâu dài, đã từ bỏ lợi ích giai cấp và tự mình thực hiện cách mạng lật đổ thể chế vì tương lai của đất nước.



    1. Quá trình hiện đại hóa Nhật Bản thời Minh Trị

Trong bối cảnh các xã hội phong kiến châu Á bị chủ nghĩa tư bản và thực dân phương Tây uy hiếp, xâm lược, trong một nửa thế kỷ thời Minh Trị (1868-1912), Nhật Bản gần như là quốc gia duy nhất chủ động tiến hành cải cách. Với khẩu hiệu “Phú quốc cường binh”, “Văn minh khai hóa”, “Học tập, đuổi kịp và vượt phương Tây, những thành tựu trong phát triển thể chế chính trị - kinh tế - xã hội, văn hoá - giáo dục, ngoại giao - quốc phòng đã giúp nước Nhật bảo toàn được nền độc lập, xác lập vị thế khu vực và thế giới.

Con đường hiện đại hóa nước Nhật thời cận đại chồng chất khó khăn, trở ngại nhưng đã thành công nhờ tầm nhìn dài hạn, thực tiễn, ý chí quyết tâm cao độ và tinh thần học hỏi của chính quyền và các lực lượng cấp tiến của Nhật Bản, cũng như trên những nền tảng kinh tế, xã hội, giáo dục và văn hóa quan trọng từ thời Edo. Theo Marius B. Jansen, "Minh Trị Duy tân là một sự kiện trọng đại đối với lịch sử Nhật Bản, Đông Á và toàn thế giới".



2.3. Chuyển biến xã hội và văn hóa đô thị từ thời Edo đến thời Minh Trị

2.3.1. Chuyển biến xã hội và văn hóa thị dân từ Edo đến Tokyo

Trong quá trình hiện đại hóa thời Minh Trị, những chuyển biến trong đời sống đô thị biểu hiện với quy mô và mức độ lớn nhất, có tính điển hình, dẫn dắt sự phát triển của toàn xã hội Nhật Bản. Tiêu biểu là Edo, từ vai trò thành thị trung tâm của thể chế phong kiến quân sự, đã chuyển mình thành Tokyo trong sứ mệnh mới là thủ đô của nước Nhật hiện đại.

Dưới chế độ chính trị phong kiến Mạc phủ và nền tảng tư tưởng Nho giáo, giới võ sĩ chiếm vị thế ưu việt về chính trị. Trong khi đó, giới thương nhân, thị dân nắm giữ sức mạnh kinh tế, đã sáng tạo nên những tập quán văn hóa và nghệ thuật mới. 267 năm tương đối hòa bình và ổn định thời Edo là điều kiện lý tưởng phát triển những nền tảng học vấn và văn hóa thị dân Edo mới mẻ và khoáng đạt, sản phẩm sáng tạo của người Edo và di dân từ các vùng miền.

Thủ đô Tokyo được bổ sung một lực lượng xã hội mới từ khắp các địa phương với mong muốn lập thân xuất thế tại thủ đô của Văn minh khai hoá. Bộ mặt đô thị thay đổi to lớn trong quá trình “Âu hoá”. Nhờ đã dung dưỡng những nền tảng kinh tế và sức mạnh văn hóa quan trọng, cần thiết trong gần ba thế kỷ dưới thời Edo, thị dân Edo đã vượt qua cú sốc biến chuyển thời đại, chấp nhận dung nạp một cách khá dễ dàng các yếu tố mới lạ, cùng các cộng đồng nhập cư nhanh chóng tạo dựng một tập quán văn hóa Tokyo mới.



2.3.2. Nghệ thuật tạp kỹ Yose và kể chuyện-tấu nói Rakugo - truyền thống văn hoá thị dân Edo trong lòng thủ đô Tokyo

Rạp đại chúng Yose là một không gian văn hóa thị dân truyền thống của xã hội đô thị Edo. Mặc dù bị chính quyền Mạc phủ thẳng tay đàn áp, đặc biệt trong Cải cách năm Tenpo 13 (1842), số lượng Yose vẫn gia tăng mạnh mẽ, từng có lúc lên tới khoảng 700 rạp vào cuối thời kỳ. Các chính sách của chính quyền tỏ ra bất lực trước sức phát triển và nhu cầu thưởng thức văn hóa của giới thị dân và bình dân.

Trung tâm của Yose là nghệ thuật kể chuyện-tấu nói Rakugo. Lịch sử phát triển của Rakugo gắn liền với lịch sử phát triển của văn hóa đô thị Edo. Là một thành tố quan trọng trong đời sống thị dân, chất hài hước ở Rakugo thể hiện trí tuệ và bản lĩnh thị dân trước áp lực của xã hội phong kiến quân sự. Rakugo góp phần xóa đi những khác biệt văn hóa và ngôn ngữ vốn tồn tại trong các mối quan hệ phức tạp và tính đa dạng phương ngữ mà các cộng đồng nhập cư mang đến Edo. Bước sang thời Minh Trị, văn hoá Tokyo kế thừa phần lớn truyền thống văn hoá Edo trong đó có nghệ thuật Yose và Rakugo, trong nỗ lực dung hợp và sinh tồn cùng những yếu tố văn hoá mới.
CHƯƠNG 3

SANYUTEI ENCHO TRONG VĂN HÓA NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ

Chương này xem xét những tác động của cuộc biến chuyển lịch sử đối với những truyền thống văn hoá mà Encho là một trường hợp, cũng như những ứng xử của Encho trước những xung đột văn hoá và đóng góp của ông trong việc kế thừa và tiếp biến văn hoá Nhật Bản thời kỳ quá độ bằng sự nhạy cảm của một văn nghệ sĩ tinh hoa và bản tính năng động của thị dân gốc Edo.



3.1. Đóng góp của Sanyutei Encho trong việc kế thừa truyền thống văn hóa đô thị Edo

3.1.1. Vai trò thủ lĩnh trong bảo lưu truyền thống văn hoá đại chúng Edo

Ở độ tuổi 30 khi nước Nhật bước sang thời Minh Trị, Encho là vị thủ lĩnh đã vực dậy và phát triển phái Sanyutei thành môn phái kể chuyện-tấu nói lớn mạnh nhất.

Tuy vậy, năm Minh Trị 5, khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp bằng thể loại truyện Shibai-banashi (mô phỏng Kabuki), ông đột ngột dấn thân vào lĩnh vực diễn mộc Ninjo-banashi (truyện Nhân tình thế thái dài kỳ) đầy thách thức. Cùng thời điểm, chính quyền Duy tân ban hành Tam điều chi giáo hiến (chủ trương giáo hóa dân chúng theo nền chính trị lấy Thiên hoàng làm trung tâm). “Với những tác phẩm dài kỳ, thủ lĩnh kể chuyện-tấu nói Sanyutei Encho đã nhẹ nhàng giải thích tinh thần “khuyến thiện, trừng ác” (chủ trương của chính quyền). Là người đứng đầu giới Rakugo, màn diễn của ông mang tính giáo huấn cao" (nhật báo Tokyo Nichinichi Shinbun).

Trong bối cảnh chính trị - xã hội có nhiều động hướng mới, Encho đại diện cho xu hướng cố gắng hòa hợp với chủ trương của chính quyền, song vẫn kiên trì bảo lưu những tinh túy của truyền thống văn nghệ Edo. Vì vậy, nghệ thuật của ông sở hữu nhiều lớp khán giả sâu rộng. Trên thực tế, tuy sử dụng chất liệu cập nhật xu thế thời đại, không phải nhiều sáng tác được công chúng đón nhận hay trở thành những tác phẩm đích thực trường tồn. Năm Minh Trị 21, Encho triệu tập cuộc họp lớn của môn phái với kế hoạch cải cách nhằm đáp ứng những đòi hỏi thời đại, nhưng hơn hết vẫn gìn giữ những lý tưởng nghệ thuật truyền thống. Kế hoạch được cố vấn của Thiên hoàng là Inoue Kaoru ủng hộ, nhưng không thành công do vấp phải sự bất hợp tác của giới chủ rạp và thế hệ nghệ sĩ mới chủ trương đáp ứng thị hiếu dễ dãi.



3.1.2. Phát triển truyền thống văn nghệ Edo trong sáng tác mới Rakugo

Trong thời Minh Trị, vượt khỏi truyền thống của Rakugo, Encho đã phát triển khuynh hướng mới, là trình diễn tác phẩm tự sáng tác với một kho tàng tác phẩm đồ sộ và sâu sắc nhất trong thế giới Rakugo, được Tsubouchi Shoyo - người đứng đầu văn đàn Minh Trị thừa nhận như một nhà văn, tiểu thuyết gia thực thụ. Bằng phương pháp sáng tác mới như thực địa khảo chứng, kết cấu tiểu thuyết chương hồi, gia công miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, các mối quan hệ phức tạp, đồng thời bổ sung nhiều yếu tố cập nhật thời đại, Encho đã xác lập một chuẩn mực mới về thị hiếu đối với Rakugo thời Minh Trị: “Shin’uchi (cấp độ cao nhất) phải diễn Truyện nhân tình thế thái”.

Việc đông đảo công chúng đô thị thời Minh Trị tiếp tục mến mộ sáng tác kỳ thú của Encho lấy bối cảnh, cốt truyện, nhân vật chủ đạo là phong tục đời sống văn hóa cũ của đô thị Edo đã cho thấy tâm lý, nhu cầu tinh thần của thị dân, bình dân không dễ gì đoạn tuyệt với truyền thống. Những triết lý về sự luân hồi, luật nhân quả trong Phật giáo đã trở thành mạch nguồn, chiều sâu sáng tác của Encho và là đỉnh cao của nghệ thuật kể chuyện-tấu nói Rakugo.

3.1.3. Hoạt động của Encho trong các hội văn nhân đô thị

Encho còn là một nhà văn hóa am tường truyền thống như nghệ thuật trà đạo, điền viên, thơ Waka (Hòa ca) và Haikai (Bài hài)… Vốn tri thức văn hóa này được nâng tầm nhờ hoạt động tích cực của ông trong các hội văn nhân, qua đó ông đã tạo dựng những mối quan hệ mật thiết và sâu rộng với các nhân sĩ danh tiếng. Nhà báo - nhà nghiên cứu văn hóa tên tuổi thời Minh Trị Yamamoto Shogetsu đánh giá Encho là một “danh nhân thời cận thế” với bề dày di sản tinh túy của văn hóa truyền thống Edo.



3.2. Đóng góp của Encho trong sáng tạo văn hóa mới thời Minh Trị

3.2.1. Sự mở rộng chiếm lĩnh tác phẩm Encho trên sân khấu cận đại

Trong trào lưu Văn minh khai hóa, chính quyền Tokyo quyết tâm cách tân nghệ thuật đại chúng trong nỗ lực xây dựng một thể chế quốc gia Nhật Bản hiện đại, lấy trung tâm là việc nâng tầm sân khấu đại chúng thị dân Kabuki. Tuy vậy, phong trào này đã không thành công do chịu sự chi phối chủ yếu của các nhân tố chính trị - ngoại giao chứ không thực sự xuất phát từ nhu cầu nội tại của nghệ thuật cũng như thị hiếu của công chúng.

Trong bối cảnh đó, "nghệ sĩ Rakugo và Kodan giống như nhà buôn tác phẩm. Ninjo-banashi của Encho là chất liệu được ưa chuộng đặc biệt. Chỉ cần là tiêu đề tác phẩm Encho là đã mang danh tiếng của ông.” (theo Aeba Koson), các sáng tác sâu sắc và kỳ thú của Encho góp phần quan trọng mang tới sức sống mới, khỏa lấp khoảng trống của sân khấu Kabuki thời kỳ quá độ, điều không phải tiểu thuyết gia hay nhà viết kịch nào có thể làm được.

Đặc biệt nổi bật từ năm Minh Trị 25 là chuỗi dự án sân khấu chuyển thể sáng tác của Encho với dàn diễn viên gạo cội tại nhà hát Kabuki-za danh tiếng - trung tâm của nỗ lực cách tân nghệ thuật của chính quyền. Các vở kinh điển “Truyền ký Shiobara Tasuke”, “Đèn lồng hoa mẫu đơn” đón nhận không khí ca ngợi chưa từng có cũng như đánh giá cao từ các nhà chuyên môn. Sự phụ thuộc vào các sáng tác mang tinh thần truyền thống của Encho tiếp tục trong một thời gian dài mặc cho những động thái xã hội mới.

Kịch nói hiện đại cũng manh nha trong thời gian này. Với sự góp mặt các sáng tác của Encho, sân khấu kịch nói đã thu hút đông đảo khán giả trí thức với mục đích học tập hình thức và phương pháp kịch Tây Âu cũng như các luồng tư tưởng cận đại của thế giới.

3.2.2. Đóng góp của Encho trong phổ biến văn hóa chữ in đại chúng

Năm Minh Trị 17, màn diễn 15 đêm tác phẩm “Đèn lồng hoa mẫu đơn” của Encho được chọn thử nghiệm phiên bản Nhật hóa mới hình thành của kỹ thuật tốc ký phương Tây. Xuất bản này ngay lập tức trở thành hình mẫu của sách tốc ký (Tsubouchi Shoyo).

Bằng sự xuất hiện lần đầu tiên của một tên tuổi lớn của kể chuyện-tấu nói trên văn đàn, xuất bản tốc ký màn diễn Rakugo nhanh chóng chiếm lĩnh văn đàn Minh Trị và mở đầu một thời kỳ toàn thịnh với sự đua tranh của các nhà xuất bản, tạp chí văn nghệ, nghệ sĩ và nhà tốc ký. “Phát hành sách tốc ký màn diễn của Encho đã lấp vào khoảng trống của lịch sử văn học đầu thời Minh Trị, hỗ trợ xuất bản, đặc biệt trong 15-20 năm đầu tiên…” (Nobuhiro Shinji).

Việc Encho chủ động tiếp nhận tốc ký là bước ngoặt quan trọng thứ hai trong sự nghiệp của ông, thể hiện thái độ ứng xử tích cực của Encho đối với các khuynh hướng biến chuyển thời đại và là một dấu ấn đột phá trong sự nghiệp hoạt động của Encho, biểu hiện khả năng “chuyển sinh” của ông từ văn hóa nghe nhìn truyền thống thời Edo sang văn hóa chữ in cận đại.

Từ một nghệ sĩ kể chuyện-tấu nói, Encho mở rộng ảnh hưởng về phong cách đối với nhiều nhà văn đương thời như Natsume Soseki, Lafcadio Hearn, Kurokawa Ruiko, Futabatei Shimei. Được sự giới thiệu của người đứng đầu văn đàn Tsubouchi Shoyo, Shimei tham khảo ngôn ngữ độc đáo của Encho để sáng tác “Ukigumo” (Đám mây phù thế) - tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản đầu tiên, mở đầu trào lưu hợp nhất giữa văn nói và văn viết. Các nhà nghiên cứu đồng tình với nhận định “Chủ nghĩa "ngôn văn nhất trí" nếu nói theo cách không hay thì là sự bắt chước ngôn ngữ của Encho, còn nếu khen thì là sự hình thành văn chương mới của Nhật Bản” (theo Shimei).

Vượt lên khó khăn thời đại, Encho là đại diện cho xu hướng kiên trì truyền thống, nhờ đó văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được bản sắc dù trải qua cuộc cách tân, hiện đại hóa mãnh liệt. Ông cũng tích cực, chủ động đón nhận những tri thức và phương tiện văn hóa hiện đại, đóng góp vào việc xác lập những giá trị văn hóa của thời đại mới. Encho đã tiếp biến cùng với nghệ thuật Rakugo với vai trò một cầu nối trong sự vận động phát triển của văn hoá Nhật Bản từ truyền thống đến hiện đại.

Năm Minh Trị 19, Bộ trưởng Ngoại vụ Mutsu Munemitsu, một khán giả thân tình và mến mộ Sanyutei Encho, mang về Nhật Bản chiếc máy ghi âm đầu tiên của Mỹ, nhưng đã không kịp lưu lại nghệ thuật Encho bằng kỹ thuật mới này. May mắn thay, trong những bước ngoặt sự nghiệp, nhờ chủ động tiếp nhận kỹ thuật tốc ký, liên kết với báo chí và giới xuất bản, nghệ thuật của Encho vẫn trường tồn trong văn hóa Nhật Bản cho đến ngày nay.


Каталог: userfile -> User -> songtran -> files
files -> Phan thành nhâm quan niệm về nhà NƯỚc và XÃ HỘi dân sự trong triết học pháp quyền của g. W. F. Hegel
files -> Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 56 01
files -> TRẦn thị ngọc thúY ĐẢng lãnh đẠo cuộc vậN ĐỘng quốc tế chống đẾ quốc mỹ XÂm lưỢc việt nam
files -> Mã số: 62. 22. 50. 05 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ SỬ HỌC
files -> Mã số: 62. 32. 01. 01 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ BÁo chí
files -> ­­­­­­­­­­­­ nguyễn công oánh nhân học kitô giáo và vai trò CỦa nó trong đỜi sống đẠO
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văN ­­­­­­­­­­­­ nguyễn thúy thơM
files -> HÀ NỘI – 2015 CÔng trình đƯỢc hoàn thàNH
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC

tải về 295.69 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương