Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 56 01



tải về 135.98 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích135.98 Kb.
#12865
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------




NGUYỄN VĂN CHUNG

§¶NG L·NH §¹O GI¶I QUYÕT VÊN §Ò D¢N TéC ë VIÖT NAM

Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 62 22 56 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2015

Công trình được hoàn thành tại:

Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

Đại học Quốc gia Hà Nội


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển

Giới thiệu 1:

Giới thiệu 2:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng cấp cơ sở chấm luận án tiến sĩ họp tại:

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

vào hồi…..giờ…..ngày……tháng….. năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội




MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề dân tộc (ở đây là vấn đề quốc gia dân tộc) có nội dung rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo, gắn với từng quốc gia dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Từ khi thực dân Pháp đặt ách xâm lăng trên đất nước ta (năm 1858), Việt Nam đã mất độc lập, tự chủ và phải chịu sự áp bức, bóc lột của chúng. Năm 1887, thực dân Pháp lập ra cái gọi là Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, gồm Việt Nam và Cao Miên. Năm 1899 có thêm Lào. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân ba nước Đông Dương đã mất độc lập, tự do; bị xóa tên trên bản đồ thế giới.

Việt Nam, thuộc địa chủ yếu của thực dân Pháp, nơi mang lại cho chính quyền thực dân những nguồn lợi to lớn, đồng thời là nơi có phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam tồn tại nhiều mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Do vậy, yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam là có một giai cấp tiên phong dẫn đường, với đường lối cách mạng đúng đắn; một tổ chức đủ sức để đoàn kết, tập hợp nhân dân đứng lên làm cách mạng đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc.

Trong thời kỳ 1930-1945, để đề ra được chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, khơi dậy tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, đồng thời phát huy tinh thần độc lập, tự chủ của cách mạng mỗi nước, Đảng đã đưa ra những chủ trương, quan điểm, nhận thức khác nhau trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Nếu như tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thì đến Luận cương chính trị tháng 10 - 1930 và các chỉ thị, nghị quyết sau đó, Đảng chủ trương giải quyết song song, đồng thời vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, chống đế quốc và chống phong kiến, giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương. Đến Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng đã trở lại với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc như tại Hội nghị thành lập Đảng: đặt nhiệm vụ giải quyết vấn đề dân tộc lên trên hết, trước hết, vấn đề giai cấp phải phục vụ và không làm tổn hại đến vấn đề dân tộc, quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi nước Việt Nam… Sự khác nhau trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng qua mỗi giai đoạn là một thực tế lịch sử.

Cũng trong thời gian này, do có những quan điểm và chủ trương trái ngược tinh thần chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản trên nhiều vấn đề, trong đó có chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, nên trong một thời gian dài, Nguyễn Ái Quốc đã chịu sự phê phán gay gắt và đối xử lạnh nhạt của Quốc tế Cộng sản… Sự đánh giá sai lệch đó đã gây ra hậu quả xấu cho phong trào cách mạng Việt Nam cũng như ảnh hưởng đến hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 30 của thế kỷ XX.

Nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945, đã làm sáng tỏ nhận thức, quan điểm và sự điều chỉnh của Đảng ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong điều kiện chịu sự chỉ đạo sâu sắc của Quốc tế Cộng sản và việc áp dụng một cách dập khuôn, máy móc sự chỉ đạo đó, cách mạng Việt Nam khó tránh khỏi những hạn chế, thậm chí là sai lầm ở những thời điểm cụ thể, đặc biệt là việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Tuy nhiên, trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng, xuất phát từ thực tiễn trong nước, cũng như tư duy và năng lực sáng tạo của mình, Đảng ta đã có sự điều chỉnh quan điểm, nhận thức trong việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 mở đầu cho sự thay đổi chiến lược của Đảng và Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã bổ sung và hoàn thiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, với những quyết sách đúng đắn, giải quyết một cách thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, chống đế quốc và chống phong kiến.

Từ những vấn đề trên, nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 góp phần làm sáng rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền; những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc; bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó bài học quan trọng nhất là xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn để đề ra chủ trương, đường lối, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam.

Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích


- Góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945. Từ đó, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm.

2.2. Nhiệm vụ


- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chủ trương, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng;

- Phân tích có hệ thống những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930-1945;

- Nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng để giải quyết vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận án là những chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết vấn đề dân tộc trong mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất; giữa giành độc lập cho dân tộc Việt Nam với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của hai dân tộc Lào và Campuchia.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


- Vấn đề dân tộc mà luận án nghiên cứu là thuộc phạm trù dân tộc quốc gia, không phải vấn đề dân tộc tộc người hay dân tộc thiểu số.

- Về mặt nội dung, luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc; nhận xét và rút ra bài học kinh nghiệm của Đảng giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ 1930 - 1945.

- Không gian nghiên cứu là ở Việt Nam và phạm vi thời gian là thời kỳ 1930 - 1945 từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành chính quyền.


4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận của luận án


Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.

4.2. Nguồn tư liệu


Nguồn tư liệu được sử dụng để nghiên cứu của luận án bao gồm:

- Các tài liệu kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin;

- Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập, chủ yếu trong thời kỳ 1930 - 1945;

- Những công trình chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước (sách và những bài viết trên các tạp chí) có liên quan đến đề tài;

- Những tư liệu có liên quan đến đề tài đang được lưu trữ tại các kho lưu trữ của Đảng, Nhà nước và các cơ quan khoa học.

4.3. Phương pháp nghiên cứu của luận án


Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận án là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,… để làm rõ nội dung luận án đề cập.

5. Đóng góp của đề tài nghiên cứu

5.1. Về mặt khoa học


- Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945;

- Góp phần làm rõ sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin của Đảng và Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa và phụ thuộc, đóng góp và làm phong phú thêm kho tàng của lý luận Mác - Lênin;

- Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng giải quyết vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay;

- Rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử cho Đảng giải quyết mối quan hệ với các nước trên thế giới.


5.2. Về mặt tư liệu


- Sưu tầm, hệ thống một số tư liệu về chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

- Luận án làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng trong các học viện, các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng.



Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thứ nhất, những công trình, những bài nghiên cứu về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc nói chung, thời kỳ 1930-1945 nói riêng.

Có thể kể đến những công trình của PGS. Lê Mậu Hãn, như: Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Nxb.CTQG), Hà Nội, 2003; Các Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003; Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc của cố GS.TS. Phan Ngọc Liên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008; Hồ Chí Minh con người của sự sống của GS.TS. Mạch Quang Thắng, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2010; Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh của Trịnh Nhu, Vũ Dương Ninh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996; Cách mạng Tháng Tám - Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, của GS.TS. Trịnh Nhu và TS. Trần Trọng Thơ, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945 của Viện Lịch sử Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995; Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1963; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập III, Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997; Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay của GS.TS. Trần Hữu Tiến, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam của các tác giả Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999…

Bên cạnh các cuốn sách đã được xuất bản, còn có hàng trăm bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, báo cáo khoa học, phản ánh, lý giải những chiều cạnh khác nhau và cả những tổng kết bước đầu về vấn đề này. Có thể kể đến những bài viết tiêu biểu sau:

Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập lập dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 - 1990, Tư tưởng độc lập, tự do với chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12-2009; Thắng lợi của khối đại đoàn kết dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 9 - 2006; Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2013… của PGS. Lê Mậu Hãn.

Các bài viết của PGS.TS. Vũ Quang Hiển: Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-2010; Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, in trong sách Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, Về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 8-2013…

Đề cập đến vấn đề này, GS, TS. Trịnh Nhu có một loạt bài viết, như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, in trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo và đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003; Phát huy sức mạnh dân tộc, một yếu tố quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; Sự vững mạnh của Đảng, một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do và kháng chiến, kiến quốc (1930-1954); Chủ trương thay đổi chiến lược của Đảng, nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, in trong sách Mấy vấn đề lịch sử Việt Nam tái hiện và suy ngẫm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị thành lập Đảng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc của TS. Trần Hải, Những luận điểm thống nhất và khác biệt giữa Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận cương chính trị của GS.TS. Phan Ngọc Liên, in trong sách Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, do Triệu Quang Tiến chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005…

Thứ hai, là những công trình đề cập trực tiếp đến chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương.

Có thể kết đến các bài viết: Mặt trận Việt Minh vấn đề dân tộc và giai cấp, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4-1990 và bài Nguyễn Ái Quốc và một giải pháp cho vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-1993 của PGS, TS. Nguyễn Tri Thư. Tác giả Phạm Sang cũng có những bài viết đáng chú ý: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước Đông Dương, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-1993 và bài Chủ tịch Hồ Chí Minh vơi sự ra đời của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1993. PGS. TS. Hồ Tố Lương có bài Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 9-2001.

Về vấn đề này, PGS. TS. Vũ Quang Hiển có các bài: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương - cơ sở của liên minh chiến đấu và quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 10-2009; Đảng giải quyết vấn đề dân tộc, xây dựng khối đoàn kết ba nước Đông Dương trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, in trong sách Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010 hay bài viết Sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản ở nước Việt Nam thuộc địa, in trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.

Thứ ba, những công trình, bài viết về Quốc tế Cộng sản và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với Quốc tế Cộng sản nói chung, giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản nói riêng.

Ở trong nước có các công trình: Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh của GS. TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999; Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam, của Hồ Tố Lương, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007; Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản (1920-1943) do PGS. TS. Lê Văn Tích chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009; Hồ Chí Minh con người của sự sống của GS, TS. Mạch Quang Thắng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010; Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 1930-1941, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, do PGS, TS. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên); Nguyễn Ái Quốc qua hồi ức của một bà mẹ Nga của Tác giả Sơn Tùng, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2007.

Bên cạnh đó, còn có một loạt bài viết đăng trên các tạp chí: Quốc tế Cộng sản và cách mạng Việt Nam của GS. Đinh Xuân Lâm, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-1989; Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam của Hồ Tố Lương, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2-2008; Quốc tế Cộng sản đối với việc chuẩn bị và thành lập Đảng ta (1920-1930) của Hoàng Phong, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-1993; Nhìn lại quan hệ giữa I.Xtalin và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5-2011…

Nghiên cứu về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với Quốc tế Cộng sản cũng như quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản cũng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, học giả nước ngoài. Có thể kể đến các công trình: Quốc tế Cộng sản và Việt Nam của Xôcôlốp, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999; Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa của Điacốp Xớckin, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960; Đồng chí Hồ Chí Minh của Côbêlép, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2000; Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới của Furuta Motoo, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007; Hồ Chí Minh của J.Lacouture, Hypersion, Paris, 1967; Hồ Chí Minh - những năm tháng chưa được biết đến của Sophie Quinn Judge, Horizon Books, Singapore, 2003; Hồ Chí Minh - Ông tiên sống mãi của Supri Phanomjong, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2012; Báo cáo của V.Vaixilieva (6-1935), Lưu trữ Lịch sử chính trị - xã hội Nga, Bản chụp lưu tại Kho Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh; Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam 1925 - 1945 của Huỳnh Kim Khánh, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng…



1.2. Tóm lược những kết quả nghiên cứu

1. Nội dung của những nghiên cứu này đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc; sự điều chỉnh chiến lược, những sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất; chủ trương đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng toàn dân tộc cho mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.

2. Những nghiên cứu này bước đầu phản ánh, phân tích quá trình đấu tranh trong nội bộ Đảng để đi đến được đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất. Đây là một quá trình đấu tranh lâu dài giữa một bên là quan điểm, đường lối đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với một bên là quan điểm đặt vấn đề dân tộc và giai cấp, chống đế quốc và chống phong kiến ngang hàng nhau.

3. Các công trình nghiên cứu trên cũng phản ánh, phân tích sự tương đồng và khác biệt trong quan điểm, chủ trương giữa Quốc tế Cộng sản và một số lãnh tụ tiền bối của Đảng Cộng sản Đông Dương với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh; lý giải nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó. Đặc biệt, vì những quan điểm trái ngược với Quốc tế Cộng sản, nên trong những năm 30 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán, nghi ngờ và chịu sự đối xử lạnh nhạt của Quốc tế Cộng sản và những đồng chí của mình.

4. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương cũng được một số tác giả quan tâm nghiên cứu và lý giải, đặc biệt là chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc tại Hội nghị Trung ương tháng 5-1941. Những nghiên cứu này đã khẳng định chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là đúng đắn và sáng tạo; phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa của mỗi nước Đông Dương; là sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết.

5. Những vấn đề mà các công trình nghiên cứu đề cập là toàn diện, ở tất cả mọi chiều cạnh. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề đã được làm sáng tỏ, mà vẫn còn đó rất nhiều “khoảng trống” cần được tiếp tục đầu tư nghiên cứu. Trong đó, có chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Những công trình đã công bố mới chỉ đề cập đến một giai đoạn cụ thể, là những phân tích, lý giải bước đầu mà chưa phải là những nghiên cứu hệ thống và toàn diện về quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Vì những tồn hiện đó, đây sẽ là một chủ đề cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ.


1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu


Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930-1945, luận án tập trung làm rõ:

1. Cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945;

2. Quá trình nhận thức và chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tôc với cách mạng ruộng đất; giữa việc giành độc lập dân tộc của Việt Nam với việc giành độc lập dân tộc ở hai nước Lào và Campuchia trong thời kỳ 1930-1945.

3. Đưa ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc thời kỳ 1930 - 1945, vận dụng giải quyết vấn đề dân tộc, mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình hiện nay.

Luận án của chúng tôi cố gắng tìm tòi bổ sung tư liệu, sự kiện, phân tích, lý giải vấn đề bằng phương pháp khoa học lịch sử.

Với tất cả sự cố gắng, nỗ lực, chúng tôi hy vọng rằng, với một vấn đề lịch sử tuy không mới sẽ được nghiên cứu đầy đủ, hệ thống với một cách nhìn khoa học, khách quan để hình ảnh lịch sử dân tộc được tái hiện một cách chân thực nhất.


Chương 2: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG

CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945

2.1. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề giương cao ngọn cờ dân tộc

2.1.1. Những yếu tố tác động đến việc giải quyết vấn đề dân tộc

Chủ trương của Đảng về giải quyết vấn đề dân tộc chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố: quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc; quan điểm của Quốc tế Cộng sản và đặc biệt là thực tiễn vấn đề dân tộc ở Việt Nam.



2.1.2. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam

Tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, vấn đề giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu; chủ trương giải quyết một cách đúng đắn, thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất; tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động.

Hội nghị cũng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, chứ không phải trong cả ba nước Đông Dương như theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản: đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ trương sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động sẽ thành lập nước Việt Nam độc lập; chủ trương thành lập Mặt trận phản đế của dân tộc Việt Nam, bao gồm tất cả các đảng phái và cá nhân yêu nước.

2.2. Sự thay đổi quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc (từ tháng 10-1930 đến tháng 3-1935)

2.2.1. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên, nhiều nội dung của Cương lĩnh trái với tinh thần chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt là về việc tập hợp, đoàn kết các giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản và về tên Đảng. Theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, từ tháng 10-1930 đến tháng 3-1935, Đảng thay đổi quan điểm về vấn đề dân tộc, không đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà chủ trương giải quyết song song, đồng thời mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đã quyết định “thủ tiêu chánh cương, sách lược và Điều lệ cũ của Đảng” và dựa vào Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để đề ra đường lối, chủ trương mới cho cách mạng Việt Nam.

Về lực lượng cách mang, Đảng chỉ coi công nhân, nông dân, các phần tử lao khổ ở thành thị, trí thức thất nghiệp, người làm nghề thủ công nhỏ là lực lượng của cách mạng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Còn các giai cấp, tầng lớp khác như địa chủ, tư sản, tiểu tư sản là theo đế quốc, hoặc có tư tưởng dao động, do dự.

2.2.2. Giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi toàn Đông Dương

Khác với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương tại Hội nghị thành lập Đảng, từ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đến tháng 3-1935, Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương. Chủ trương này được thể hiện ở các điểm sau:

- Bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam và đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương;

- Chủ trương sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động sẽ thành lập chính phủ công nông của các dân tộc Đông Dương;

- Chủ trương thành lập Mặt trận phản đế, các hội, đoàn thể trong toàn Đông Dương.

Vì chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương, nên mọi chỉ đạo, nghị quyết, chương trình hành động, khẩu hiệu đấu tranh của Đảng có phạm vị toàn Đông Dương. Đảng có nhiệm vụ khôi phục và tổ chức lại tổ chức đảng, xứ ủy cả ở Lào và Cao Miên; thành lập các tổ chức, đoàn thể chung cho các dân tộc Đông Dương; chủ trương đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến, giành độc lập hoàn toàn cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thành lập Chính phủ chung của nhân dân Đông Dương.



2.3. Đảng giải quyết vấn đề dân tộc trong giai đoạn 1936-1939

2.3.1. Giải quyết vấn đề dân tộc trong phong trào dân chủ 1936-1939

Trong giai đoạn 1936-1939, cách mạng nước ta chưa có điều kiện trực tiếp để thực hiện nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc, mà là chiến sách lập Mặt trận nhân dân phản đế, tập trung đấu tranh vào “kẻ địch nguy hiểm nhất” là đế quốc Pháp và bọn phản động tay sai của chúng, đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.

Trong phong trào dân chủ 1936-1939, Đảng thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương (tháng 7-1936), sau đổi tên thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 3-1938). Đây là tổ chức công khai của đông đảo quần chúng, liên hiệp tất cả các giai cấp, dân tộc, đảng phái, dù là người người Việt, người Pháp, người Lào, Cao Miên hay bất cứ dân tộc nào khác, miễn là họ đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo.

Mặc dù chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các giai cấp, dân tộc, đảng phái, các lực lượng dân chủ, tiến bộ, từ quần chúng cơ bản (công nhân, nông dân) đến các tầng lớp trên (tiểu tư sản, tư sản, địa chủ) và cả bộ phận những người Pháp, từ lực lượng dân tộc đến lực lượng ngoài dân tộc. Tuy nhiên, lực lượng đông đảo nhất trong phong trào dân chủ 1936-1939 vẫn là lực lượng dân tộc.

Đảng chủ trương sử dụng tất cả các hình thức công khai, bán công khai, hợp pháp và bán hợp pháp, để lôi kéo quần chúng vào hàng ngũ cách mạng; tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc, ruộng đất cho nông dân, mà chỉ đưa các khẩu hiệu thích hợp với các quyền lợi cần kíp và có thể thực hiện được.

2.3.2. Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất

Trong giai đoạn này, trước sự biến chuyển của tình hình trong nước và thế giới, bằng thực tiễn phong phú trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng đã có nhận thức mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Sự chuyển biến đó được thể hiện qua Chỉ thị của Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, được thông qua trong Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài ngày 27-7-1936. Đặc biệt, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương đã đặt vấn đề phải nhận thức lại ảnh hưởng của yếu tố dân tộc trong cách mạng thuộc địa, quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và phản phong trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương. Trung ương Đảng khẳng định: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết hợp chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”.



Tiểu kết

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra năm 1939, nhận thức và cách thức giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc của Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương có sự khác nhau. Nếu như tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã giương cao ngọn cờ dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; chủ trương liên minh, đoàn kết tất cả các dân tộc, giai cấp vào hàng ngũ cách mạng, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thì từ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú, một người được đào tạo và chịu ảnh hưởng bởi quan điểm chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Đảng đã chủ trương giải quyết song song, đồng thời vấn đề dân tộc và giai cấp, chống đế quốc và chống phong kiến, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong cả ba nước Đông Dương.

Tuy có sự khác nhau về quan điểm, chủ trương và cách giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam, nhưng cần phải khẳng định rằng, đây không phải là việc đấu tranh để triệt tiêu lẫn nhau mà là cuộc đấu tranh để đi đến sự thống nhất, tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Mặc dù có sự khác biệt trong quan điểm, chủ trương, đường lối về cách mạng Việt Nam giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, sự tương đồng là cơ bản, chủ yếu; sự khác biệt chủ yếu là về vấn đề sách lược.

Chương 3: CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC MỚI VÀ

SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

GIAI ĐOẠN 1939 - 1945

3.1. Chủ trương “Thay đổi chiến lược” và việc giải quyết vấn đề dân tộc

3.1.1. Bối cảnh lịch sử


Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 9-1940, quân đội Nhật tiến vào Lạng Sơn. Thực dân Pháp chống cự một cách yếu ớt, rồi nhanh chóng đầu hàng, phải ký với Nhật những hiệp ước mà theo đó nước Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật. Hành động hèn hạ của Pháp đã thể hiện rõ bản chất phản động, ích kỷ, sự yếu đuối và bất lực của quân đội thực dân trước họa phát xít.

Sự đầu hàng của chính phủ phản động ở Pháp và việc quân Nhật vào Đông Dương đã làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở khu vực này. Đông Dương bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh, bị bòn rút sức người sức của để đáp ứng những yêu cầu của cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn đế quốc đang phân chia thế giới. Sự câu kết giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp, với những chính sách hết sức phản động, đã đẩy nhân dân Đông Dương tới bờ vực của sự diệt vong.


3.1.2. Chủ trương “thay đổi chiến lược”

3.1.2.1. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất


Tại Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Đảng chủ trương thay đổi chiến lược cho phù hợp với tình hình. Đó là chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là đánh đổ ách áp bức, bóc lột của đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta đã đi đến quyết định dứt khoát về thay đổi chiến lược. Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng””.

Từ quyết định thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Trung ương Đảng đã nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Theo đó, vấn đề điền địa được giải quyết từng bước và phải phục tùng nhiệm vụ dân tộc, không được làm tổn hại đến việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Đảng chủ trương tạm tác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày, thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian, chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức.


3.1.2.2. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương


Vấn đề này đã được giải quyết một cách dứt khoát tại Hội nghị Trung ương tháng 5-1941. Tại Hội nghị này, Trung ương Đảng đã quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thực hiện quyền dân tộc tự quyết đối với hai nước Lào và Campuchia. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một Mặt trận riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh). Mặt trận Việt Minh có trách nhiệm giúp đỡ thành lập Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh - hình thức mặt trận chung cho nhân dân ba nước Đông Dương.

Về vấn đề chính quyền, Đảng chủ trương, sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung toàn dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc và những bọn phản quốc, còn ai là những người dân sống trên dải đất Việt Nam đều được một phần tham gia giữ chính quyền. Đối với Lào và Cao Miên, Đảng chủ trương thi hành quyền dân tộc tự quyết. Sự tự do và độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng.



3.2. Lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, tiến hành khởi nghĩa dân tộc và thành lập nhà nước của chung toàn dân tộc

3.2.1. Xây dựng khối đoàn kết dân tộc và chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám

Giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương đoàn kết, tập hợp tất cả các giai cấp, dân tộc, đảng phái, không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị vào Mặt trận Việt Minh nhằm giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Cùng với đó, Đảng đã khẩn trương bắt tay vào xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa.



3.2.2. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa dân tộc và thành lập nhà nước của chung toàn dân tộc

Đầu năm 1945, phát xít Đức bên bờ diệt vong, phát xít Nhật gặp nhiều thất bại. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng phát động cao trào kháng Nhật làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Giữa lúc đó, một sự kiện quan trọng đã diễn ra: Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Hồng quân Liên Xô và các lực lượng chống phát xít đã giành thắng lợi trên các chiến trường. Nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, Đảng đã khẩn trương phát lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước đã giành được chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước của chung toàn dân tộc.

Tiểu kết

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã tạo bước ngoặt cho phong trào cách mạng nước ta. Nó đặt nhân dân thế giới nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng đứng trước những cơ hội và thử thách to lớn. Yêu cầu đặt ra đối với cách mạng Việt Nam lúc này là thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đánh đổ thực dân, phát xít Pháp, Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân.

Mở đầu cho quá trình thay đổi chiến lược của Đảng bắt đầu bằng Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 và được khẳng định dứt khoát tại Hội nghị Trung ương 8 tháng 5-1941 dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tại Hội nghị Trung ương 8, Đảng đã giải quyết một cách đúng đắn và thỏa đáng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; chủ trương tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc vào Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Mặt trận Việt Minh; chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam.

Quyết định thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đã tạo ra một động lực to lớn, thức tỉnh tinh thần dân tộc, ý thức độc lập tự do; đồng thời phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của cách mạng mỗi nước. Chủ trương đó là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng, nhưng ở một mức độ cao hơn, hoàn chỉnh hơn về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc...


Chương 4: NHẬT XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

4.1. Nhận xét

4.1.1. Quá trình giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam không diễn ra suôn sẻ, thuận lợi mà là cuộc đấu tranh quyết liệt về quan điểm, tư tưởng trong nội bộ Đảng.

4.1.2. Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan điểm, chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.

4.1.3. Quá trình giải quyết vấn đề dân tộc đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh, bản lĩnh và sự trưởng thành của Đảng qua mỗi giai đoạn cách mạng.

4.2. Một số kinh nghiệm

4.2.1. Xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối.

4.2.2. Giương cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.

4.2.3. Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mạnh mình là chính.

4.2.4. Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, bình đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương, cơ sở cho việc đoàn kết, phát huy sức mạnh từng dân tộc và đoàn kết ba nước Đông Dương.


KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Dân tộc Việt Nam bước sang một thời kỳ mới.

Ngay sau khi ra đời, Đảng đã bước vào cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù. Thực tiễn đất nước đặt ra yêu cầu bức thiết đối với Đảng lúc này là lãnh đạo cách mạng Việt Nam đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập, tự do. Để đạt được mục tiêu đó, vấn đề đặt ra là Đảng phải nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Và trên thực tế, những vấn đề căn cốt, quyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1930-1945, đến cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân hai nước Lào và Campuchia nói chung đều diễn ra xung quanh vấn đề này. Vì là những vấn đề lớn, phức tạp, lại chịu ảnh hưởng bởi quan điểm chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản cũng như nhận thức hạn chế của một số đồng chí lãnh đạo của Đảng giai đoạn này, nên trong suốt một thời gian dài, trong nội bộ Đảng đã tồn tại những quan điểm, nhận thức khác nhau xung quanh việc giải quyết vấn đề này.

Nếu như ở Hội nghị thành lập Đảng, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã giương cao ngọn cờ dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc; chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các giai cấp, dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam, thì từ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 trở đi Đảng lại chủ trương giải quyết song song, đồng thời vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong cả ba nước Đông Dương, xem nhẹ việc tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp ngoài công nông vào mặt trận chống đế quốc… Đây là một sách lược sai lầm và nó đã gây những hậu quả không tốt đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn này.

Sự khác nhau trong quan điểm, chủ trương của Đảng xung quanh việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và trình độ còn non yếu, cả về lý luận lẫn thực tiễn của một số đồng chí lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn này. Cũng vì những khác biệt trong quan điểm về cách mạng Việt Nam mà trong suốt một thời gian dài, Nguyễn Ái Quốc đã chịu sự phê phán, chỉ trích, đối xử lạnh nhạt của Quốc tế Cộng sản.

Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bằng thực tiễn hoạt động phong phú, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân, kể từ sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng đắn việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất cũng như vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Theo đó, vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất không thể được giải quyết song song, đồng thời mà phải xem vấn đề nào quan trọng hơn để tập trung giải quyết. Đây là những nhận thức mới hết sức quan trọng, mở đầu cho quá trình thay đổi chiến lược của Đảng ở giai đoạn sau. Cũng từ đây, trong các văn kiện của Quốc tế Cộng sản cũng như trong những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, không thấy những quan điểm phê phán Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị thành lập Đảng.

Khi chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, đặc biệt là khi Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941, Đảng đã quyết định thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam. Chủ trương đúng đắn đó đã phát huy được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của cách mạng mỗi nước Đông Dương; đập tan âm mưu chia rẽ, phá hoại của thực dân Pháp và tay sai phản động; tăng cường tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, tạo cơ sở, tiền đề cho thắng lợi của Cách mạng Tháng tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gắn liền với vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Quyết định “thay đổi chiến lược” và cách giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề độc lập dân tộc với cách mạng ruộng đất và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương chính là sự trở lại với quan điểm, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Đảng. Để đi đến quyết định đúng đắn đó, trong nội bộ Đảng đã trải qua một quá trình nhận thức, đấu tranh quyết liệt giữa quan điểm của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định chủ trương, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam là đúng đắn, sáng tạo. Đó cũng chính là sự vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp với đặc điểm lịch sử, chính trị, văn hóa của dân tộc Việt Nam và các dân tộc ở Đông Dương.

Quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ 1930 - 1945 đã phản ánh sự trưởng thành, bản lĩnh của Đảng qua mỗi giai đoạn cách mạng. Sự trưởng thành, bản lĩnh đó không phải là ngẫu nhiên, mà là một quá trình đấu tranh, tôi luyện gian khổ, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân, với những hy sinh, mất mát to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, kể từ sau năm 1935, Đảng hết sức nhạy bén, kịp thời trong việc đề ra chủ trương, đường lối, trong việc tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân. Qua đó, vai trò, uy tín của Đảng ngày càng tăng cao. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng được củng cố.

Quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, có giá trị to lớn cho hôm nay và mai sau. Đó là bài học xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối; bài học về việc giương cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính; tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, bình đẳng, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương; tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong những bài học đó, bài học xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối có ý nghĩa, vai trò đặc biệt quan trọng.

Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thời gian không còn nhiều, đòi hỏi cả dân tộc phải nỗ lực, phấn đấu không ngừng cho mục tiêu đó. Trong giai đoạn hiện nay, để đưa đất nước đi lên, sánh vai với các cường quốc năm châu, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam cần phát huy những bài học của lịch sử, trong đó bài học lớn nhất là xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối.



DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

  1. Nguyễn Văn Chung (2010), “Chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941)”, Tạp chí Giáo dục lý luận (161+162), tr. 31-34.

  2. Nguyễn Văn Chung (2011), “Chủ trương của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng trong việc đoàn kết, tập hợp tầng lớp trí thức, tiểu tư sản thời kỳ 1930-1945”, Tạp chí Mặt trận (89), tr.8-12.

  3. Nguyễn Văn Chung (2011), “Giải quyết đúng đắn vấn đề quốc gia dân tộc - cơ sở cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Tạp chí Mặt trận (94), tr. 6-10.

  4. Nguyễn Văn Chung (2011), “Về sự lựa chọn chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội (344), tr.3-10.

  5. Nguyễn Văn Chung (2011), “Hồ Chí Minh - người tạo dựng các yếu tố tiền đề cho sự ra đời của hệ thống chính trị Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (9), tr.16-21.

  6. Nguyễn Văn Chung (2012), “Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản trong những năm 1930-1938 - dưới góc nhìn văn hóa ứng xử”, Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.267-280.

  7. Nguyễn Văn Chung (2012), “Chủ trương của Đảng trong việc giải quyết vấn đề quốc gia dân tộc ở Đông Dương thời kỳ 1930-1945”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (56), tr. 8-13.

  8. Nguyễn Văn Chung (2012), “Tìm hiểu về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc độc lập của Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930”, Tạp chí Lịch sử Đảng (292), tr. 57-61.







Каталог: userfile -> User -> songtran -> files
files -> Phan thành nhâm quan niệm về nhà NƯỚc và XÃ HỘi dân sự trong triết học pháp quyền của g. W. F. Hegel
files -> TRẦn thị ngọc thúY ĐẢng lãnh đẠo cuộc vậN ĐỘng quốc tế chống đẾ quốc mỹ XÂm lưỢc việt nam
files -> Mã số: 62. 22. 50. 05 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ SỬ HỌC
files -> Mã số: 62. 32. 01. 01 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ BÁo chí
files -> ­­­­­­­­­­­­ nguyễn công oánh nhân học kitô giáo và vai trò CỦa nó trong đỜi sống đẠO
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văN ­­­­­­­­­­­­ nguyễn thúy thơM
files -> HÀ NỘI – 2015 CÔng trình đƯỢc hoàn thàNH
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văN

tải về 135.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương